Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại khu chứng tích sơn ...

Tài liệu Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại khu chứng tích sơn mỹ, tỉnh quảng ngãi .

.PDF
72
179
105

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MỸ NỮ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH TẠI KHU CHỨNG TÍCH SƠN MỸ, TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MỸ NỮ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH TẠI KHU CHỨNG TÍCH SƠN MỸ, TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THANH HẢI HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại Khu Chứng Tích Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi” là kết quả qua quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cũng lĩnh vực. Tôi xin chịu trách nhiệm lời cam đoan của mình./. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Mỹ Nữ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ ............................................................................................... 6 1.1. Khái niệm chính sách công, thực thi chính sách công ............................... 6 1.2. Các bước tổ chức thực thi chính sách công, tiêu chí đánh giá chính sách công ................................................................................................................... 8 1.3. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa, nội dung việc thực hiện thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử ................................. 9 CHƯƠNG 2: 13THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TẠI KHU CHỨNG TÍCH SƠN MỸ, TỈNH QUẢNG NGÃI ...................................... 13 2.1. Khái quát về Khu chứng tích Sơn Mỹ ..................................................... 13 2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa hiện nay tại Khu Chứng Tích Sơn Mỹ ................................ 19 2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại KCT Sơn Mỹ .............................................................................................. 35 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TẠI KHU CHỨNG TÍCH SƠN MỸ, TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................................... 44 3.1. Định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích .................................................................................................... 44 3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại KCT Sơn Mỹ ....................................................................................... 46 KẾT LUẬN .................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ CSC Chính sách công DSVH Di sản văn hóa LS - VH Lịch sử - Văn hóa NĐ-CP Nghị định - Chính phủ NQ Nghị quyết QĐ-UBND Quyết định - Ủy ban nhân dân TT-BVHTTDL Thông tư - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch UBND Ủy ban nhân dân VHTTDL Văn hóa, Thể thao và Du lịch KCT Khu chứng tích BQL Ban quản lý MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Di tích được coi là một thiết chế văn hóa đặc thù trong hệ thống văn hóa xã hội, đồng thời là nền tảng, là động lực phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, di tích còn góp phần không nhỏ trong nhận thức của xã hội đối với những vấn đề thuộc về lịch sử, truyền thống và văn hóa của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, di tích có một vai trò quan trọng trong việc truyền tải lịch sử, văn hóa của mỗi đất nước đến với đông đảo khách tham quan. Di tích giúp cho con người hiểu được nguồn cội của mình, hiểu được truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hóa của đất nước mình, từ đó tác động tới việc hình thành nhân cách con người Việt Nam ngày nay. Cho đến nay, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có đông đảo lượt du khách đến tham quan các di tích. Điều này khẳng định các di tích ngày càng có vị trí vai trò nhất định trong đời sống văn hóa xã hội của mỗi quốc gia. Đây là một dấu hiệu tốt, nhưng đồng thời cũng là bài toán khó cho mỗi di tích, làm thế nào để làm tốt quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích của mình mà không bị trùng lặp và nhầm lẫn với các di tích khác là điều vô cùng cần thiết. Di tích Vụ thảm sát Sơn Mỹ thuộc loại di tích ghi dấu tội ác của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Di tích này đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia theo quyết định công nhận số 54/VH-QĐ ngày 29/4/1979. Ngày nay Sơn Mỹ vẫn còn là nỗi đau nhức nhối đối với nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Khu chứng tích Sơn Mỹ không chỉ là nơi tưởng nhớ 504 đồng bào vô tội đã ngã xuống, mà còn là nơi ghi dấu tội ác chiến tranh, truyền thông điệp hòa bình cho thế giới. 1 Hàng năm, Khu chứng tích Sơn Mỹ đón ngàn lượt khách trong nước và quốc tế đến tham quan, nghiên cứu và tìm hiểu. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị tại di tích đã có những hoạt động cụ thể để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách, đồng thời làm cho nơi đây trở thành một “địa chỉ đỏ” trên bản đồ du lịch tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh những kết quả đạt được, BQL Khu Chứng Tích Sơn Mỹ còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thuộc KCT Sơn Mỹ. Xuất phát từ thực trạng đó tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị Khu chứng tích Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn Trong lĩnh vực nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và bảo tồn và phát huy giá trị Khu chứng tích Sơn Mỹ nói riêng, đã có nhiều nghiên cứu, báo cáo đề cập đến một số khía cạnh trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị Khu Chứng tích Sơn Mỹ. Vụ thảm sát Sơn Mỹ đã làm chấn động dư luận thế giới và lương tri của loài người tiến bộ lúc bấy giờ. Sự kiện Sơn Mỹ đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành sự kiện quốc tế, nó được so sánh với nhiều vụ thảm sát tàn bạo nhất trên thế giới. Cho đến nay đã trải qua nửa thế kỷ, số lượng công trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến vụ thảm sát tương đối nhiều của tác giả trong nước lẫn quốc tế. Các công trình này được đăng trên các báo, tạp chí, xuất bản thành sách hoặc dựng thành phim… Tiêu biểu nhất là cuốn sách “Mở lại tập hồ sơ Sơn Mỹ” được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 1978 của tác giả Mạnh Việt. Bằng những biện pháp nghiệp vụ của một phóng viên chiến trường, tác giả đã đưa ra những chứng cứ rõ ràng đanh thép về vụ tàn sát dân thường ở Sơn Mỹ và phân tích bản chất tàn bạo dã man có quy mô, có chủ đích của Quân đội Mỹ. 2 Tiếp theo là cuốn sách “Nhìn lại Sơn Mỹ” của tác giả Cao Văn Chư xuất bản năm 1988, cuốn sách giới thiệu khái quát về vùng đất và con người Sơn Mỹ, về tòa án lương tri của loài người đối với vụ thảm sát này, về việc nhân dân Sơn Mỹ biến đau thương thành hành động, quyết tâm đứng lên tái thiết quê hương sau khi đất nước được giải phóng. Đến năm 2009, sách được dịch sang tiếng Anh. Ở nước Mỹ, năm 1970 (sau vụ thảm sát 18 tháng) cũng xuất bản một cuốn sách bằng tiếng Anh mang tên “4 hour in My Lai” (Bốn giờ ở Mỹ Lai) của hai tác giả Michael Bilton và Kevin Sim, cuốn sách tường thuật về vụ thảm sát Sơn Mỹ qua lời kể của những chiến binh Mỹ đã từng tham gia vụ thảm sát. Ngoài ra còn có những bộ phim tư liệu về Sơn Mỹ như “Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai” (sản xuất năm 1988) của đạo diễn Trần Văn Thủy nói về sự hồi sinh ở Sơn Mỹ sau 30 năm ngày xảy ra vụ thảm sát (phim tài liệu này, hiện Khu chứng tích Sơn Mỹ đang sử dụng để chiếu cho khách tham quan)… Đề tài Luận văn “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại Khu chứng tích Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi” được thực hiện trên cơ sở tham khảo, nghiên cứu kế thừa những quan điểm, nội dung, kết quả của các tài liệu liên quan trước đó để xây dựng cách tiếp cận, hướng nghiên cứu phù hợp với tình hình của Khu Chứng tích Sơn Mỹ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về thực trạng công tác thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị tại KCT Sơn Mỹ để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý và thực hiện các chính sách bảo tồn và phat huy giá trị di tích tại KCT Sơn Mỹ 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về quản lý di tích lịch sử - Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích tại KCT Sơn Mỹ - Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các các di tích LS-VH trên địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi và tại KCT Sơn Mỹ 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Việc ban hành và thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Quảng Ngãi và tại KCT Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu chính sách, quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại KCT Sơn Mỹ từ năm 1975 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp tư liệu: Trên cơ sở các tài liệu đã có, người viết luận văn sẽ tổng hợp và phân tích thành những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ theo lịch sử thời gian để nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau từ đó chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. - Phương pháp khảo sát, điền dã: Người viết luận văn đi khảo sát thực tế tại di tích, gặp gỡ, trao đổi với các thành viên làm công tác quản lý di tích lịch sử KCT Sơn Mỹ trong quá trình điều tra, khảo sát. Đây là phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng để người viết có thể thu thập thông tin một cách chính xác cho đề tài nghiên cứu. 4 - Phương pháp tiếp cận liên ngành: để tiếp cận đề tài bằng nhiều cách thức, dựa trên cứ liệu của các chuyên ngành Chính sách Công, Quản lý văn hóa, Lịch sử, Văn hóa học… Phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành giúp cho người viết luận văn có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử KCT Sơn Mỹ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Về mặt lý luận, luận văn sẽ làm sáng tỏ các vấn đề của chính sách công trong triển khai và thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại một địa bàn cụ thể là KCT Sơn Mỹ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho chính quyền địa phương trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử đền An Biên. Làm tài liệu tham khảo cho độc giả, các bạn học viên, sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hóa, Văn hóa học. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận chính sách công và chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại KCT Sơn Mỹ Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tại KCT Sơn Mỹ 5 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ 1.1. Khái niệm chính sách công, thực thi chính sách công 1.1.1. Khái niệm chính sách công “Chính sách” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, phương tiện truyền thông và đời sống xã hội, nhưng đây là một thuật ngữ rất khó có thể định nghĩa một cách cụ thể rõ ràng. Cụm từ “chính sách” khi gắn với vai trò, chức năng của khu vực công được gọi là chính sách công. Đây không chỉ đơn giản là ghép từ thuần túy, mà đã có sự thay đổi cơ bản về nghĩa, bởi vì có sự khác biệt về mục đích tác động của chính sách, chủ thể ban hành chính sách, những vấn đề mà chính sách đó hướng tới giải quyết. Hiện nay trên thế giới, đã có nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa về chính sách công như: Định nghĩa “Chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm” [17, tr.47] của Thomas Dye (năm 1972) Còn William Jenkins (năm 1978) thì đưa ra định nghĩa: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liềnvới việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó” [17, tr.48]. Theo William Jenkins, CSC là một quá trình chứ không chỉ đơn giản là một sự lựa chọn; bên cạnh đó định nghĩa CSC này cũng cho thấy một cách rõ ràng CSC là “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau”, và xem quá trình chính sách là hành vi định hướng mục tiêu của nhà nước. 6 “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng, mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội” [17, tr.51] theo tác giả Nguyễn Hữu Hải khái niệm này vừa thể hiện đặc trưng của CSC là do Nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng quản lý một các tương đối ổn định, cho thấy bản chất của CSC là công cụ định hướng cho hành vi của các cá nhân, tổ chức phù hợp với thái độ chính trị của nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong xã hội. Trên thực tế, một chính sách thực sự của Nhà nước được kết nối lại từ vô số các quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các doanh nghiệp nhà nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết định 217/HĐBT (14/11/1987) và được tiếp nối bằng một loạt các quyết định của Nhà nước và các cấp, các ngành về vấn đề này. Nghị định 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị định đó đă mở ra một chặng đường mới của chính sách cổ phần hóa ở nước ta. Chúng ta có thể thấy, chính sách này sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai. Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách có thể hiểu như sau: "Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xă hội theo mục tiêu xác định". 1.1.2. Khái niệm thực thi chính sách công Trong thập kỷ 70, các nhà nghiên cứu đã chuyển trọng tâm sang giai đoạn thực thi chính sách. Theo nguyên lý triết học, chính sách là một dạng thức vật chất đặc biệt nên nó cũng cần thực hiện những chức năng để tồn tại. 7 Song muốn thực hiện được chức năng, chính sách phải tham gia vào quá trình vận động như các vật chất khác. Nghĩa là sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai trong đời sống xã hội. Do vậy, tổ chức thực thi chính sách là tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý Nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu đề ra của chính sách. Qua đó có thể đi đến khái niệm về tổ chức thực thi chính sách như sau: “ Tổ chức thực thi chính sáchcông là một khâu hợp thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách trở thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mụ tiêu định hướng ". 1.2. Các bước tổ chức thực thi chính sách công, tiêu chí đánh giá chính sách công 1.2.1. Các bước tổ chức thực thi chính sách công Công tác điều hành, triển khai các chính sách một cách hiệu quả chính sách công, cần phải tuân thủ các bước thực thi sau: - Xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách công bao gồm những nội dung cơ bản: * Kế hoạch về tổ chức, điều hành * Kế hoạch cung caaso các nguồn lực * Kế hoạch về thời gian triển khai thực hiện * Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách * Kế hoạch về dự kiến những nội dung quy chế về tổ chức, điều hành, về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức… * Dự kiến về kế hoạch thực thi ở cấp nào do lãnh đạo cấp đó xem xét thông qua - Phổ biến, tuyên truyền chính sách công - Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công 8 - Điều chỉnh chính sách công - Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách công - Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm 1.2.2. Tiêu chí đánh giá chính sách công Các tiêu chí thường được sử dụng trong quá trình phân tích là: chí phí, lợi ích, hiệu lực, hiệu quả, tính công công bằng, tính thuận tiện, tính hợp pháp và tính ổn định về mặt chính trị,… Dựa vào các tiêu chí đó các nhà phân tích sẽ có được các giải pháp cso chi phí thấp, giải pháp mang lại tính lợi ích lớn nhất….giải pháp nào khó thực hiện hơn… Các tiêu chí sẽ giúp nhà phân tích xây dựng đánh giá và lựa chọn được pháp hợp lý nhất. 1.3. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa, nội dung việc thực hiện thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử 1.3.1. Di tích lịch sử văn hóa Di tích lịch sử văn hóa là một thành tố quan trọng của di sản văn hóa dân tộc. Đó là những tài sản quý giá mà cha ông ta đã để lại cho hậu thế. Qua di tích, chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn về bản sắc văn hóa dân tộc từ ngàn đời xưa. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Di tích là các loại dấu vết của quá khứ, đối tượng nghiên cứu của khảo cổ học, sử học...được pháp luật bảo vệ, không ai được tùy tiện dịch chuyển, thay đổi, phá hủy” [21, T1, tr.667]. Theo đầu mối quản lý và giá trị của di tích được chia thành 3 loại: - Di tích quốc gia đặc biệt - Di tích quốc gia - Di tích cấp tỉnh + Di tích quốc gia đặc biệt: Các di tích này được địa phương lập hồ sơ xếp hạng và trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ VHTT&DL, Thủ tướng 9 Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và quyết định đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới. + Di tích quốc gia: Các di tích này được địa phương lập hồ sơ, trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch UBND tỉnh, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL ra quyết định xếp hạng di tích quốc gia. + Di tích cấp tỉnh: Địa phương lập hồ sơ trên cơ sở đề nghị của giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xếp hạng di tích cấp tỉnh. Các di tích được hình thành từ hoạt động lao động sáng tạo của con người trong quá trình dựng nước và giữ nước, tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể vừa phong phú vừa đa dạng về các loại hình. Trải qua thời gian những sản phẩm đó được tồn tại đến ngày nay, có những sản phẩm mang những giá trị có tính chất tiêu biểu, đặc trưng về lịch sử văn hóa, khoa học nên được công nhận là di tích [35, tr.43- 45]. 1.3.2. Nội dung thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LSVH là giai đoạn biến mục tiêu, ý đồ chính sách thành hiện thực. Việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH đưa Nghị, các văn bản Luật, các Nghị định và Thông tư của chính phủ đến với người dân. Các chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH kịp thời gìn giữ và phát huy các di tích trước sự phát triển mạnh mẽ của nhiều lĩnh vực như kinh tế, công nghệ, khoa học và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Thực hiên chính sách nhằm từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung chính là mục tiêu của Đảng đã khẳng định “xây dựng đất nước tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” .Trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ bảo tồn và phát huy 10 giá trị di sản văn hóa trong bối cảnh mới ở nước ta :“Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [25]. Công tác thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH khẳng định tính đúng đắn của chính sách. Từ các hoạt động thực tiễn, các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực di sản văn hóa, di tích lịch sử ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn, giúp các chính sách được ban hành ngày càng hoàn chỉnh. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH, phát huy tác dụng tích cực công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích LS-VH. Quản lý văn hóa là một lĩnh vực cụ thể của khoa học quản lý, đây là sự quản lý của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật và cơ chế, chính sách nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người khi tham gia vào các lĩnh vực hoạt động văn hóa. Theo giáo trình Quản lý Nhà nước về xã hội, Học viện hành chính Quốc gia (2009) cho rằng: “Quản lý nhà nước về văn hóa là sử dụng quyền của nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người khi tham gia vào các lĩnh vực hoạt động văn hóa”. Quản lý văn hóa là một lĩnh vực cụ thể của quản lý, thường được hiểu là: Công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung. Ngoài ra, quản lý văn hóa còn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp 11 của chủ thể quản lý (các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Tiểu kết chương 1 Từ những khái niệm về những cơ sở lý luận về chính sách công; Khái niệm, vai trò của di tích, đặc điểm, vai trò của việc thực hiện thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa được trình bày ở chương 1 cho ta thấy được chức năng, nhiệm vụ quan trọng của quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích; những yêu cầu ngày càng cao về nội dung của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử để đáp ứng kịp thời nhiệm vụ trong tình hình đất nước ngày càng phát triển, dân trí ngày càng cao. Chương 1 cũng nêu lên đặc điểm của thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa; vai trò của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa ở nước ta hiện nay. Có thể nói, chương 1 là những nội dung cốt lõi về cơ sở lý luận phục vụ cho đề tài Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử tại Khu chứng tích Sơn Mỹ. Đây là cơ sở quan trọng để tìm hiểu về thực trạng cũng như đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử tại Khu chứng tích Sơn Mỹ 12 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TẠI KHU CHỨNG TÍCH SƠN MỸ, TỈNH QUẢNG NGÃI 2.1. Khái quát về Khu chứng tích Sơn Mỹ 2.1.1. Lịch sử Vụ thảm sát Sơn Mỹ Sơn Mỹ là một xã nằm trên bán đảo Batangan (Ba Làng An) cuối huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi (nay thuộc Thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi), cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 12km về hướng Đông. Địa danh hành chính của xã có nhiều tên gọi khác nhau qua các thời kỳ. “Sơn Mỹ” là do chính quyền Sài Gòn đặt tên sau Hiệp định Gennève năm 1954. Từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, xã có tên là Tịnh Khê. Sơn Mỹ - Tịnh Khê, là một vùng quê ven biển hiền hòa, có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Địa giới hành chính của xã Tịnh Khê gồm có bốn thôn là Mỹ Lại, Cổ Lũy, Trường Định và Tư Cung. Do không thể đọc tên có dấu các địa danh bằng Tiếng Việt, nên quân đội Mỹ đã lấy một thôn trong xã có tên là Mỹ Lại rồi đọc chệch thành “My Lai”. Rồi để đơn giản hơn, chúng lần lượt đổi tên các thôn khác như sau: thôn Mỹ Lai thành My Lai 1, thôn Cổ Lũy thành My Lai 2, thôn Trường Định thành My Lai 3, thôn Tư Cung thành My Lai 4. Vụ thảm sát xảy ra ở hai thôn là Cổ Lũy và Tư Cung, tức My Lai 2 và My Lai 4. Từ đó báo chí trong và ngoài nước thường biết đến với cái tên gọi là vụ thảm sát Sơn Mỹ, hay vụ thảm sát Mỹ Lai (My Lai). Dân số xã Tịnh Khê vào năm 1968 khoảng 3 ngàn người, cũng bao nhiêu làng quê khác trong chiến tranh ở Việt Nam, cuộc sống tuy khó khăn vất vả, nhưng người dân nơi đây tính tình hiền lành, chất phác, họ sống đoàn 13 kết và đùm bộc lẫn nhau. Hoạt động kinh tế chủ yếu bằng hai nghề: sản xuất nông nghiệp và đánh bắt thủy hải sản. Thế nhưng, trong tập hồ sơ mật của chính quyền Sài Gòn bỏ lại sau giải phóng tỉnh Quảng Ngãi mà quân giải phóng đã thu được, có một tấm bản đồ tác chiến của quân đội Mỹ ấn hành năm 1967, Sơn Mỹ được đánh dấu bằng một chấm đỏ với chú thích “ấp Tư Cung xã Sơn Mỹ” và được gọi là “Pinkville” (nghĩa là làng Hồng), chỉ việc thân cộng sản. Điều này có nghĩa, nơi này lính Mỹ có thể tự do bắn phá mà không cần bất cứ một lý do nào cụ thể nào, khu vực này thuộc trách nhiệm của Lực lượng đặc nhiệm Barker, Lữ đoàn 11, Sư đoàn Amercial. Cuộc thảm sát chủ yếu diễn ra ở cái chấm đỏ ấy. Sáng ngày 16/03/1968 (nhằm ngày 18/02 năm Mậu Thân) tất cả căn cứ pháo binh của Mỹ đặt ở vùng Quảng Ngãi, cùng một lúc bắn dồn dập vào các thôn xóm của xã Sơn Mỹ. Lực lượng đặc nhiệm Barker (lực lượng đã được chú thích trong bản đồ tác chiến năm 1967 của quân đội Mỹ), gồm có đại đội Alpha (Ký hiệu A); đại đội Bravo (Ký hiệu B); đại đội Charlie (Ký hiệu C) tất cả đều thuộc Lữ đoàn 11, Sư đoàn 23, Sư đoàn Amerrical. Là đơn vị thực hiện cuộc thảm sát đẫm máu ở Sơn Mỹ. Kế hoạch được triển khai thực hiện trong vụ thảm sát là kế hoạch 3 sạch “phá sạch, đốt sạch, và giết sạch”, hay nói cách khác: “san bằng làng Mỹ Lai và hủy diệt mọi thứ ở trong đó”. Đỉnh điểm của vụ thảm sát được lính Mỹ triển khai thực hiện là việc binh lính Mỹ tập trung dân làng, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em thành từng tốp rồi xả súng bắn giết tập thể hàng chục hàng trăm người cùng một lúc: 15 người bắn chết ở gốc cây Gòn, 102 người bị giết ở Tháp Canh, 170 người ở bị bắn ở một đoạn mương nước phía đông xóm Thuận Yên thôn Tư Cung… Trong khi đại đội C (Charlie) làm một cuộc tắm máu ở thôn Tư Cung, thì tại thôn Cổ Lũy, đại đội B (Bravo) đã dùng lựu đạn và mìn thả vào hầm 14 người dân đang sợ hãi trú ẩn trong đó, nhiều nạn nhân chết không tìm được xác do sức nổ của lựu đạn và mìn. Dã man và mất hết tính người hơn, khi chúng đã dùng lưỡi lê cắt xẻo một phần thân thể nạn nhân trước khi giết chết. Thậm chí, những người phụ nữ đang mang thai gần đến ngày sinh nở, cũng nằm trong biển máu và lửa với các trò “tiêu khiển” “đếm xác người” của lính Mỹ. Hành động thú tính trên đi ngược hoàn toàn với những điều mà quân đội Mỹ từng nói “khai hóa nền văn minh” khi xâm lược Việt Nam. Sau này, khi sự việc được phanh phui ở Mỹ, một người mẹ của một tên lính Mỹ từng tham gia giết người ở Sơn Mỹ phải đau khổ thốt lên rằng: “tôi giao một thanh niên ưu tú cho quân đội Mỹ, họ trả lại tôi một tên ác quỷ giết người”….Tại thôn Cổ Lũy, lính Mỹ giết thêm 97 nạn nhân. Trong 4 giờ đồng hồ của buổi sáng ngày 16/3/1968 có đến 504 thường dân vô tội (407 người ở thôn Tư Cung, 97 người ở thôn Mỹ Hội) đã bị lính Mỹ sát hại. Có 24 gia đình bị giết sạch không một ai sống sót. Có 247 ngôi nhà bị thiêu rụi hoàn toàn. Hàng ngàn gia súc trâu bò bị bắn chết. Tuy nhiên, di hại của vụ thảm sát không chỉ dừng ở bấy nhiêu, còn nhiều người may mắn sống sót vì bị thương và được xác người thân của mình đè lên, sau này họ mang vết thương lòng không thể chữa khỏi. Hậu quả của vụ thảm sát vẫn còn âm ỉ, nhức nhối trong lòng mỗi người dân nơi đây dù thời gian có trôi qua bao lâu. “Thiệt hại” của quân đội Mỹ trong ngày 16/03/1968 duy nhất chỉ một tên lính Mỹ da đen tên Herbert Cater, vì ghê tởm trước tội ác của mình và đồng bọn, đã tự bắn sát thương vào chân để chạy trốn khỏi cảnh thảm sát đồng loại. Ngay sau vụ thảm sát xảy ra, dư luận trong nước và thế giới đã lên án mạnh mẽ quân xâm lược Mỹ. Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Trung Trung bộ đã công bố đầy đủ tên tuổi của 504 đồng bào Sơn Mỹ bị sát hại. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan