Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hành văn hóa của người thái tái định cư bản nà tân, xã tân lập, huyện mộc c...

Tài liệu Thực hành văn hóa của người thái tái định cư bản nà tân, xã tân lập, huyện mộc châu, tỉnh sơn la

.PDF
98
191
54

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ THÁI VÂN THỰC HÀNH VĂN HÓA CỦA NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ Ở BẢN NÀ TÂN, XÃ TÂN LẬP, HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HÓA HỌC Hà Nội, 2015 VIỆN HÀN LÂM KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ THÁI VÂN THỰC HÀNH VĂN HÓA CỦA NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ Ở BẢN NÀ TÂN, XÃ TÂN LẬP, HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HÓA HỌC Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC Mã số: 60 31 06 40 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đỗ Lan Phƣơng Hà Nội, 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các sự kiện, tư liệu sử dụng trong luận văn này là trung thực, nếu có gì sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Tác giả luận văn Hoàng Thị Thái Vân LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Văn hóa học, Học viện khoa học xã hội đã trang bị cho tôi những kiến thức chuyên ngành thiết thực trong suốt quá trình học tập tại học viện. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Lan Phương, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn của mình. Mặc dù đã có sự cố gắng trong quá trình học tập và nghiên cứu, nhưng do kỹ năng nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong Hội đồng khoa học và thầy cô giáo góp ý để tôi mở rộng, tích lũy thêm kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và phục vụ giảng dạy sau này. Tôi xin chân thành cảm ơn. Hoàng Thị Thái Vân MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC..................................................................................................... 1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .............................................................. 3 GIẢI NGHĨA CÁC TỪ TIẾNG THÁI ....................................................... 3 MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI THÁI SƠN LA VÀ NGƢỜI THÁI Ở BẢN NÀ TÂN XÃ TÂN LẬP, HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA 9 1.1. Về người Thái ở tỉnh Sơn La và ở huyện Mường La ............................... 9 1.1.1. Người Thái ở Sơn La ............................................................................ 9 1.1.2. Người Thái ở huyện Mường La ........................................................... 11 1.2. Người Thái ở bản Nà Tân trước khi di dân ............................................ 13 1.2.1. Sinh kế ................................................................................................ 13 1.2.2. Những nét văn hóa truyền thống tiêu biểu .......................................... 16 1.3. Việc di dân vì Thủy điện sơn La và sự hình thành bản Nà Tân .............. 24 1.3.1. Khái quát về Thủy điện Sơn La và việc di dân .................................... 24 1.3.2. Sự hình thành bản Nà Tân (Tân Lập, Mộc Châu, Sơn La) .................. 25 Chƣơng 2. CÁC THỰC HÀNH VĂN HÓA TIÊU BIỂU CỦA NGƢỜI THÁI TÁI ĐỊNH CƢ Ở BẢN NÀ TÂN ................................................... 31 2.1. Các thực hành văn hóa liên quan đến sinh kế......................................... 31 2.1.1. Trồng trọt ........................................................................................... 32 2.1.2. Chăn nuôi gia súc ............................................................................... 36 2.1.3. Làm thuê tự do.................................................................................... 37 2.1.4. Buôn bán nhỏ ..................................................................................... 43 2.2. Các thực hành văn hóa liên quan đến đời sống sinh hoạt gia đình .......... 44 2.2.1. Sinh hoạt gia đình trên nhà sàn xây sẵn và quan hệ láng giềng .......... 45 1 2.2.2. Việc cưới xin ....................................................................................... 49 2.2.3. Tang ma.............................................................................................. 54 2.2.4. Lễ tết................................................................................................... 56 Chƣơng 3. TÁI ĐỊNH CƢ VÀ SỰ THÍCH ỨNG TRONG THỰC HÀNH VĂN HÓA CỦA NGƢỜI THÁI Ở BẢN NÀ TÂN .................................. 60 3.1. Thích ứng trong sinh kế và quan hệ cộng đồng mới ............................... 60 3.1.1. Làm quen với điều kiện tự nhiên mới và quá trình thay đổi sinh kế ..... 60 3.1.2. Thích ứng trong quan hệ cộng đồng mới ............................................ 64 3.2. Thích ứng trong đời sống văn hóa ......................................................... 67 3.2.1. Các điều chỉnh trong sử dụng nhà ở và nếp sống gia đình .................. 67 3.2.2. Thay thế đồ dùng sinh hoạt gia đình và phương tiện đi lại.................. 69 3.2.3. Sự thay thế dần trang phục truyền thống và cách chuẩn bị bữa ăn ..... 71 3.3. Một vài ý kiến đề xuất về xây dựng đời sống văn hóa của người Thái bản Nà Tân ......................................................................................................... 74 KẾT LUẬN ................................................................................................. 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 81 PHỤ LỤC ẢNH 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. UBND : Uỷ ban nhân dân 2. TS :Tiến sỹ 3. TĐC : Tái định cư 4. Nxb : Nhà xuất bản GIẢI NGHĨA CÁC TỪ TIẾNG THÁI 1. Hóong : Gian thờ 2. Pe păn khạ : Xà cạp 3. Pay giam căn : Đi thăm hỏi nhau 4. Pay tam : Lễ ăn hỏi 5. Xống khươi : Lễ cưới 6. Khuôn chảu : Hồn mình 7. Nạ : Em trai vợ (em cậu) 8. Lúng ta : Những người đàn ông bên nhà vợ 9. Tẳng cẩu : Búi tóc lên đỉnh đầu 10. Thung tạy : Túi đựng hồn vía người sống 11. Xửa chái : Áo dài 12. Xửa cỏm : Áo ngắn 13. Xỉu : Váy 14. Xải cỏm : Thắt lưng 15. Xửa luổng : Áo khoác ngoài 16. Xau hẹ : Cột thiêng 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người Thái cư trú lâu đời tại vùng Tây Bắc, Việt Nam, chủ yếu ở những vùng ven sông suối, đồi- núi, phân chia thành nhiều nhóm, nhiều nhánh và là một trong những tộc người có nền văn hóa đặc sắc. Cho đến nay, đại bộ phận người Thái vẫn còn lưu giữ những phong tục tập quán văn hóa truyền thống từ ăn, ở, mặc cho đến sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh. Nhưng trong bối cảnh chung của sự phát triển đất nước, cuộc sống của người Thái cũng đã có sự thay đổi, từ địa bàn cư trú, lao động sản xuất đến nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán, tín ngưỡng. Đặc biệt, vào thời kì đất nước ta đang đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa, công nghiệp hóa, khi chính phủ quyết định xây dựng nhà máy Thủy điện Sơn La nằm tại xã Ít Ong, huyện Mường La (tỉnh Sơn La)- một công trình trọng điểm của khu vực Tây Bắc, vấn đề di dân ở đây tái định cư đã được đặt ra. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của các tộc người đang cư trú trên địa bàn Tây Bắc, trong đó có nhóm tộc người Thái. Họ phải di dời từ những bản thuộc vùng lòng hồ sông Đà, “di vén” lên cao hay di dời sang địa bàn khác trong tỉnh Sơn La. Quá trình di dân đó làm thay đổi hầu như toàn bộ cuộc sống và những sinh hoạt văn hóa của họ, từ hoạt động kinh tế để sinh tồn đến các phong tục văn hóa truyền thống. Là người Thái cư trú ở Sơn La, tôi quan tâm tới thực tiễn này và điều kiện công tác đã cho phép tôi thấy được cuộc sống thay đổi của nhóm Thái Đen trên vùng đất di dân tái định cư ở bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc châu, tỉnh Sơn La sau hơn 10 năm di dân và nhận thấy có nhiều nét mới mẻ trong nếp sống cũng như trong đời sống văn hóa tinh thần của họ. Sự biến đổi địa bàn cư trú kéo theo biến đổi về sinh kế của người Thái nơi này đã trở thành một tác động cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống văn hóa của họ. Vì thế, tôi quyết 4 định lựa chọn nghiên cứu về “Thực hành văn hóa của người Thái tái định cư bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La” làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ Văn hóa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Văn hóa của người Thái và các dân tộc vùng Tây Bắc và sự biến đổi văn hóa do tác động của việc di dân là một vấn đề nghiên cứu rộng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, trong đó có các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến các nhóm Thái ở Sơn La, như: Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Hồng (2012): Nghiên cứu sự thích ứng với đời sống mới của dân di cư Sơn La đã đề cập tới sự thích ứng với môi trường mới, hoạt động sinh kế và tâm lý của người dân khi di dân tới nơi ở mới của dân di cư làm thủy điện Sơn La. Tác giả đã chỉ ra sự thay đổi về môi trường sống, không gian sinh hoạt trong ngôi nhà xây, khác với ngôi nhà truyền thống và khả năng thích ứng của người dân sau khi tái định cư ở đây. Luận án tiến sĩ Lịch sử của Vũ Tú Quyên (2012) : Quá trình biến đổi kinh tế - xã hội của người La Ha từ sau ngày Đổi mới (1986) đến nay (Trường hợp người La Ha ở bản Nậm Khao, xã Tân Lập, Mộc Châu, Sơn La) đã nghiên cứu về biến đổi kinh tế - xã hội của người La Ha trước và sau đổi mới tại bản Lót, xã Ít Ong huyện Mường La, đặc biệt là từ sau khi họ di dời tái định cư tại bản Nậm Khao, xã Tân Lập, Mộc Châu tỉnh Sơn La. Trong đó, tác giả có đề cập tới cả sự biến đổi cuộc sống của người Thái đen di dân TĐC từ xã Ít Ong huyện Mường La, Sơn La tới xã Tân Lập, Mộc Châu, Sơn La. PGS. TS. Phạm Quang Hoan (chủ biên) cuốn: Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La NXB khoa học xã hội – 2012 nghiên cứu có hệ thống về vốn di sản văn hóa phong phú đa dạng của các tộc người ở vùng lòng hồ thủy điện Sơn La, đề xuất một số quan điểm, 5 giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người tại nơi tái định cư. Tác giả Trần Bình với cuốn Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam NXB văn hóa dân tộc – 2001 nghiên cứu về hoạt động kinh tế - văn hóa sản xuất của một số tộc người ở Tây Bắc trong đó có tộc người Thái đại diện cho vùng thấp (vùng thung lũng chân núi) để có cơ sở xây dựng, hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng, thế mạnh của các tộc người cụ thể. Luận văn Th.S của Vũ Thị Đức Hạnh Nhà ở của người Thái Trắng tái định cư ở bản Quỳnh Tiến, phường Chiềng An, thành phố Sơn La (2015) cung cấp những tư liệu cụ thể và sống động về nhà ở của người dân tái định cư bản Quỳnh Tiến, phường Chiềng An, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La (đây là mô hình di dân theo nhóm, các cá nhân riêng lẻ). Qua đó góp phần làm rõ hơn về những biến đổi liên quan đến nhà ở của người Thái Trắng xã Pắc Ma, huyện Quỳnh Nhai sau khi di dân về nơi ở mới ở bản Quỳnh Tiến, phường Chiềng An, thành phố Sơn La. Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, với luận văn “Thực hành văn hóa của ngƣời Thái tái định cƣ bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La”, tôi sẽ đi vào nghiên cứu những biến đổi về môi trường sống, sinh kế và phong tục tập quán văn hóa của người Thái sau khi di dời từ xã Ít Ong, huyện Mường La ra cư trú ở bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Khảo sát các hoạt động sinh kế và đời sống văn hóa của người Thái tái định cư ở bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, chỉ ra sự biến đổi về sinh kế và văn hóa qua việc so sánh sau khi di dân tái định cư và 6 đời sống trước đây của họ, từ đó đưa ra những ý kiến về xây dựng đời sống văn hóa của người Thái nơi tái định cư. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu sự biến đổi về sinh kế, phong tục tập quán văn hóa của người Thái ở bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, từ sau khi tái định cư hơn mười năm qua. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về người Thái ở bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La theo mô hình tái định cư tới điểm di dân đến do nhà nước chỉ định, xây dựng cơ sở hạ tầng. - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung tìm hiểu thực hành văn hóa của người Thái ở bản tái định cư Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Ở đây khái niệm “thực hành văn hóa” được chúng tôi sử dụng với nghĩa là chỉ các hoạt động liên quan đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của người dân, cụ thể là các vấn đề về sinh kế, sinh hoạt trong ngôi nhà, phong tục cưới xin, tang ma, lễ tết... 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính gồm các bước sau: - Nghiên cứu, tập hợp và hệ thống các tài liệu văn bản, kế thừa các kết quả nghiên cứu đi trước có liên quan tới đề tài. - Phương pháp điền dã thực địa: quan sát, phỏng vấn (bao gồm cả phỏng vấn hồi cố), ghi chép và ghi âm, chụp ảnh, nhằm thu thập những thông tin tư liệu xác thực về đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp phân tích so sánh, tổng hợp. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Với luận văn này, tôi hy vọng cung cấp thêm một số tư liệu cụ thể và sống động về đời sống kinh tế- văn hóa của người Thái bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, góp phần làm rõ hơn về những biến đổi văn hóa của người Thái sau khi di dời về nơi ở mới ở tỉnh Sơn La cũng như ở các khu vực khác của Tây Bắc, Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm có 3 chương, kết cấu như sau: Chương 1: Tổng quan về người Thái Sơn La và người Thái ở bản Nà Tân, xã Tân Lập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La Chương 2: Các thực hành văn hóa tiêu biểu của người Thái tái định cư ở bản Nà Tân Chương 3: Tái định cư và sự thích ứng văn hóa của người Thái ở bản Nà Tân 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI THÁI SƠN LA VÀ NGƢỜI THÁI Ở BẢN NÀ TÂN, XÃ TÂN LẬP, HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA 1.1. Về ngƣời Thái ở tỉnh Sơn La và ở huyện Mƣờng La 1.1.1. Người Thái ở Sơn La Sơn La là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam có nhiều núi cao, phía Bắc giáp với Yên Bái, phía Tây giáp với Điện Biên, phía Đông giáp với Phú Thọ và Hòa Bình, phía Nam giáp với Lào. Trung tâm là thành phố Sơn La, cách thủ đô Hà Nội hơn 300km theo quốc lộ 6. Địa hình Sơn La chủ yếu là núi cao và cao nguyên, sông suối dày đặc, nguồn nước dồi dào, có tiềm năng làm thủy điện. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Sơn La đã xây dựng thành công nhà máy thủy điện Mường La là nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á. Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam có dân số 1.550.423 người, là tộc người có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt khắp cả nước. Người Thái tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Bắc như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An, trong đó Sơn La là địa bàn có người Thái cư trú đông nhất trong tổng số người Thái ở Việt Nam. Sơn La có 572.441 người Thái, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng số người Thái tại Việt Nam [5, tr. 6]. Với tên tự gọi là “Tay”, “Phủ Tay”, “Côn Tay”, “Chựa sai Tay”, người Thái được biết đến với hai ngành là Tay Đăm (ngành Đen) và Tay Đón – Tay Khao (ngành Trắng) đều thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Dựa vào trang phục của nam và nữ để phân biệt và nhận biết thuộc ngành nào. Thái Trắng chủ yếu cư trú ở huyện Phù Yên, Bắc Yên, Mộc Châu và Quỳnh Nhai. Trước đây hầu hết chị em phụ nữ đều mặc áo cóm trắng, đội khăn trắng, thắt lưng 9 trắng bằng vải sợi. Thái Đen ở các huyện Yên Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Thuận Châu, Mường La, thị xã Sơn La (nay là Thành Phố Sơn La). Khi có chồng, người phụ nữ Thái Đen “Tẳng cẩu” (búi tóc ngược) còn phụ nữ Thái Trắng thì không “Tẳng Cẩu”. Căn cứ các câu truyện lịch sử (Quam tô mương, Piết mương) người Thái tỉnh Sơn La đã có mặt và thiết lập bản mường ổn định tại tỉnh Sơn La từ rất xa xưa. Họ cư trú tại 10 huyện thị trong tỉnh, hầu hết ở vùng thấp, ven sông, ven suối, dọc quốc lộ 6, ở các đầu mối giao thông thủy bộ, các cao nguyên, thung lũng, phiêng bãi bằng, các cánh đồng lớn như Mường Tấc (Phù Yên), Mường Xang (Mộc Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Chanh (Mai Sơn)… Với các dòng họ tiêu biểu theo lịch sử truyền lại, ở Mộc Châu có họ Xa, Yên Châu (họ Hoàng), Mai Sơn (họ Cầm), Phù Yên (họ Cầm), Thuận Châu (họ Bạc), Quỳnh Nhai (họ Điêu)… [13, Tr 12,13]. Các tư liệu lịch sử xã hội của người Thái ghi lại [22, Tr 7,8] từ xa xưa quê hương của người Thái nằm trong một vùng rộng lớn thuộc khu vực Xíp xoong – păn – na (mười hai cánh đồng) ở Vân Nam, Trung quốc, ở các khu Mường Ôm, Mường Ai (thuộc các châu Tùng Lăng, Hoàng Nham), khu mường Bó Té (thuộc miền Tây Nam, Vân Nam, Thượng Lào giáp Điện Biên) và Mường Thanh- Điện Biên. Họ đã trải qua các cuộc thiên di lớn rồi có mặt ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Ở phía Bắc, ngành Thái Trắng sau khi làm chủ được vùng thung lũng Mường Lay đã theo dọc sông Đà xuống Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Mường Chiến (Mường La) và nhập vào cánh đồng Phù Yên hòa với người Mường. Khoảng thế kỷ thứ XI – XII người Thái thuộc ngành Thái Đen do hai tù trưởng là Tạo Ngần và Tạo Xuông dẫn đầu đã đi từ Mường Ôm, Mường Ai qua Mường Lò Luông nay là (Mường Là thuộc Vân Nam Trung Quốc) vào Tây Bắc. Đầu tiên họ tới Mường Lò (Nghĩa Lộ), khai hoang Mường Lò và tập trung người Thái ở đây do Tạo Lò đứng đầu. Đến đời con Tạo Lò là Lạng 10 Chượng đã dùng lực lượng quân sự phát triển thế lực lên Mường Chiên, Mường Trai, Ít Ong vùng tả ngạn sông Đà thuộc huyện Mường La, sau đó vượt sông Đà tiến vào Mường Bú (Mường La) rồi Mường Muổi (Thuận Châu), Mường Quài (Tuần Giáo) và cuối cùng dừng chân ở Mường Thanh (Điên Biên). Cuộc di dân này kéo dài đến hai mươi năm. Những người Thái mới đến đã cùng người đồng tộc và cư dân bản địa khác mở mang đất đai trên những thung lũng thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã trở thành những cánh đồng tương tự như ngày nay, ở Mường Muổi (Thuận Châu) sau khi đã ổn định, một bộ phận Thái Đen lại tiếp tục di cư sang Lào, vào miền Tây Nghệ An nay là nhóm Tày Muổi. Ngoài ra, những người Thái tự nhận là Tay Đeng (Thái Đỏ) hay Tay Éng, Tay Khoong từ Thanh Hóa sang ở vùng Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên (Sơn La) [22. Tr 7,8]. 1.1.2. Người Thái ở huyện Mường La Tên Mường La xuất hiện từ thế kỉ XII. Đó là tên đồng nghĩa với tên Mường Lò. Có lẽ tên châu mường này được người Thái đặt để nhớ đất Mường Lò quê tổ. Theo Quám tố mướng của Mường La nói: khi Lạng Chượng đưa người Thái tới Mường La, đã dựng nhà để cúng tổ tiên tại nơi trung tâm “mường”. Ngày cúng tổ tiên họ Lò (họ quý tộc) là ngày “hài” (tức ngày bính) nên đặt địa điểm cúng đó là bản Hài. Nay xác định đó là bản Hài thuộc xã Chiềng An huyện Mường La. Xưa kia vì bản Hài là trung tâm châu Mường nên gọi là “Viềng Hài” [26, Tr. 322]. Huyện Mường La trước đây rộng: 1.421,0 km2, dân số: 67,294 người, trong đó người Thái có 48,969 người (1999). Hiện nay, người Thái ở huyện Mường La có 54.344 người, chiếm 63,21% dân số toàn huyện, chủ yếu là người Thái Đen. 11 Mường La là huyện miền núi của Sơn La, cách thành phố Sơn La 41 km về phía Đông Bắc, có toạ độ địa lý: 21o15' – 21o42' vĩ Độ Bắc; 103o45' – 104o20' kinh độ Đông. Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Lào Cai và Yên Bái; phía Đông Nam giáp huyện Bắc Yên; Phía Tây giáp huyện Quỳnh Nhai và huyện Thuận Châu; Phía Nam giáp huyện Mai Sơn và Thành phố Sơn La. Do vị trí địa lý như vậy, Mường La có nhiều điều kiện thuận lợi trong giao lưu văn hoá, trao đổi hàng hoá với các địa phương khác. Huyện Mường La nằm ở độ cao trung bình từ 500m-700m so với mặt nước biển, phía Đông và phía Đông Bắc của huyện là những dãy núi cao, địa hình thấp dần về phía Nam và dọc theo 2 bờ sông Đà. Sông Đà là sông lớn nhất chảy qua huyện. Một số sông suối lớn khác là Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pi [30]. Mường La có khí hậu nhiệt độ gió mùa, khí hậu trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, vào mùa mưa thường kèm theo lốc và lũ quét tại các sông suối đầu nguồn. Mùa khô chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam, gió mùa Đông Bắc và khí hậu tiểu vùng sông Đà, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 2026 độ, lượng mưa bình quân là 1.347mm/năm, độ ẩm trung bình là 85%. Địa hình nơi đây chủ yếu là đồi núi, thung lũng chạy dọc theo sông Đà nên việc đi lại giữa các bản chủ yếu là sử dụng các phương tiện như xe gmáy, thuyền máy, thuyền mộc, bè hoặc đi bộ trên những con đường mòn nhỏ chủ yếu là đường nhựa, đường bê tông và cấp phối phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với địa hình núi cao, sông rộng, nhiều suối, có đường thuỷ, đường bộ. Toàn huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 01 thị trấn là thị trấn Ít Ong và các xã: Chiềng Hoa, Tạ Bú, Mường Chùm, Chiềng San, Nậm Păm, Pi 12 Toong, Mường Bú, Hua Trai, Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. Về dân tộc, toàn huyện có 6 dân tộc chung sống, bao gồm: dân tộc Thái chiếm 63,21%; Mông 16,98%; Kinh 12,65%; La Ha 5,91%; Kháng 0,93%; Khơ Mú 0,32% [31]. 1.2. Ngƣời Thái ở bản Nà Tân trƣớc khi di dân Trước khi di dân người Thái ở bản Nà Tân ( xã Tân Lập, huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La) cư trú tại xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, dọc theo thung lũng ven sông Đà và suối Nậm Păm. Bản Nà Tân tại khu Tái định cư hiện nay do hai bản cư trú cạnh nhau trước đây thuộc xã Ít Ong gộp lại, đó là bản Nà Còn Cu và bản Nà Kè, đây là hai bản có 100% hộ dân là người Thái. Về cơ bản văn hóa của người Thái ở bản Nà Tân trước khi di dời là mang đặc điểm văn hóa của người Thái Đen ở Mường La. 1.2.1. Sinh kế Canh tác ruộng nước và nương rẫy Người Thái ở bản Nà Tân là cư dân nông nghiệp, trồng lúa trên ruộng nước và trồng ngô, sắn và đậu trên nương rẫy. Về cơ bản, các biện pháp kĩ thuật canh tác ruộng nước và nương rẫy của họ cũng giống với đồng bào Thái ở các địa phương khác. Với bộ nông cụ làm ruộng như cày, mai, xẻng; các biện pháp kỹ thuật liên hoàn (làm đất, làm mạ và gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch); đặc biệt là hệ thống thủy lợi “dẫn thủy nhập điền” mương, phai, lái, lịn và cọn nước. Qua nhiều thế hệ, họ đã đúc kết và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, một năm làm 2 vụ lúa. Vụ mùa cấy tháng 2, thu hoạch tháng 5; vụ chiêm cấy tháng 7 thu hoạch tháng 10. Việc thu hoạch được làm gọn và nhanh hơn gồm: gặt - đập - quạt - nhập kho. Ngoài ra, họ còn canh tác nương rẫy, chủ yếu là trồng ngô. Đó là lối canh tác “phát đốt, gieo trồng” theo chu kỳ vòng quay khép kín từ 4- 6 năm. 13 Nương rẫy được phân loại theo địa thế đất dốc hoặc bằng theo kỹ thuật sử dụng cuốc, cày và thời gian canh tác (rẫy vụ một, rẫy vụ 2). Bộ công cụ làm rẫy gồm nhiều loại với chức năng sử dụng khác nhau. Công cụ phát nương có dao, rìu, móc, khều; công cụ gieo hạt gồm gậy chọc lỗ bịt sắt hoặc không bịt sắt; công cụ làm cỏ có nạo, cuốc. Theo lời bà Lò Thị Xưa 50 tuổi thì trước đây gia đình bà thường đi thuyền qua sông để làm nương ở bên kia sông Đà, diện tích nương rộng khoảng 1ha. Khai thác thủy sản Cư dân Thái sống dọc thung lũng theo hai bên bờ sông Đà có truyền thống đánh bắt cá trên sông. Mỗi hộ gia đình đều có các vật dụng để đánh bắt cá như thuyền, bè, lưới đánh cá... Ngoài công việc đánh bắt, nhiều hộ dân còn nuôi thả cá lồng trên sông, mang lại thu nhập ổn định cho họ và có một lượng thức ăn dồi dào quanh năm. Người dân khai thác đánh bắt thủy sản trên sông Đà mang đi trao đổi hàng hóa hoặc bán để có tiền mua sắm các nhu yếu phẩm cần thiết khác. Dòng sông Đà đã rất gắn bó với đời sống hàng ngày của họ. Chăn nuôi và khai thác nguồn thực phẩm tại chỗ Theo lời ông Lò Văn Dưỡng 60 tuổi trú tại bản Nà Tân: “Trước đây, người dân ở đây có tập quán nuôi trâu thả rông, tự chúng sống, sinh đẻ, đến mùa mới bắt trâu về kéo cày. Người dân nuôi rất nhiều trâu, bò, dê, ngoài ra còn chăn nuôi lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng để lấy thực phẩm”. Vật nuôi vừa trở thành sản phẩm hàng hóa, vừa sử dụng trong lễ tết. Nhà có người già bao giờ cũng nuôi trâu để lo hậu sự. Nhờ ruộng đất, đời sống của người Thái có phần sung túc hơn các cư dân quanh vùng. Nhưng họ vẫn chưa thoát được cảnh tháng ba, ngày tám, những năm đói kém do lũ lụt, hạn hán gây ra. Họ không bị đói là nhờ có rừng bao quanh, có thể cung cấp cho họ các thứ củ, quả hay thân cây có chất bột. Thêm nữa, từng mùa rừng cung cấp các loại rau quả, hạt dại, nấm, mộc nhĩ, 14 măng, rêu đá, các loại côn trùng. Dưới khe suối có cá, tôm, cua, ốc, cá nhỏ… Những thứ đó thường xuyên tham gia vào hai bữa ăn chính hàng ngày của đồng bào, nên hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống kinh tế của người Thái ở Mường La. Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát những gia cụ, cung cấp củi đun, những cây thuốc và những lâm thổ sản quý. Trong rừng, các loại chim, thú cũng là đối tượng để đồng bào săn bắt. Nghề thủ công Nghề thủ công của người Thái ở bản Nà Tân trước đây cũng như người Thái ở huyện Mường La nói chung rất phong phú, phát triển đạt trình độ cao. Phụ nữ Thái sản xuất không những đủ chăn, màn, quần áo cho gia đình mà còn đem trao đổi mua bán. Sản phẩm nổi tiếng của người Thái Mường La là vải thổ cẩm, với những hoa văn đặc sắc, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp. Đàn ông thường đan những vật dụng hàng ngày như ép khảu, ghế mây, nong, nia, sọt, đó... Ngoài ra còn có những nghề thủ công mang tính chuyên nghiệp như nghề rèn nông cụ xẻng, cuốc, lưỡi cày, dao, kéo, nghề mộc đóng giường tủ, bàn ghế, làm khung nhà sàn. Trao đổi, mua bán Từ khi nhà nước chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang thị trường thì về cơ bản có ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của người Thái ở Mường La nói chung và người Thái bản Nà Tân trước đây, họ có đủ lương thực và thực phẩm để ăn nhưng không có tiền tích lũy nếu chỉ dựa vào ruộng và nương rẫy. Bản Nà Kè và bản Nà Còn Cu cách thị trấn khoảng 1- 2km nên các hoạt động buôn bán giao thương, trao đổi các sản phẩm nông nghiệp và vật nuôi diễn ra khá thường xuyên. Tại đây, người dân trao đổi, mua bán những mặt hàng họ tự sản xuất được như nông sản, các vật chăn nuôi, hàng thủ công đan lát và các sản vật khai thác được tại chỗ như củi, cá sông Đà. Trước đây, việc trao 15 đổi hàng hóa thường chỉ hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là hình thức hàng đổi hàng với những cư dân khác tộc. Từ khi nhà nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì các hoạt động buôn bán của họ cũng dần phát triển, giúp họ có thêm tiền tích lũy, tuy nhiên chỉ mang tính nhỏ lẻ. 1.2.2. Những nét văn hóa truyền thống tiêu biểu Nhà ở Từ lâu người Thái ở Mường La đã quần cư thành bản. Mỗi bản bao gồm đất ở, đất canh tác (ruộng, nương), bãi cỏ chăn nuôi, khu rừng, khu nghĩa địa và nguồn nước sông suối riêng. Bản lớn có tới hàng trăm nóc nhà, nơi ít ruộng bản chỉ có mười nóc nhà. Các bản người Thái ở chân sườn núi trông xuống cánh đồng. Mỗi bản có tên gọi riêng theo truyền thuyết địa phương, theo chức vụ của người trưởng bản [6, Tr. 309,310]. Người Thái đều ở nhà sàn làm bằng gỗ, rất đẹp, chắc, dựng theo những quy định được đặt ra từ đời này qua đời khác. Theo lời kể của ông Lò Văn Dưỡng 60 tuổi trú tại bản Nà Tân thì trước khi di dân TĐC nhà của họ thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng những khau cút theo phong tục từ xưa truyền lại. Nói đến nhà sàn của người Thái là người ta thường nghĩ ngay đến nhà sàn truyền thống với kiểu liên kết khớp bằng mộng và buộc các hệ thống kết cấu chịu lực: hệ thống dầm, sàn, bao che… mà không cần dùng đến kim loại (đinh, ốc, vít…). Mái nhà thường được lợp bằng cỏ gianh đan thành phên. Trong nhà rất ít vách ngăn nên rất thoáng đãng, rộng rãi. Hai đầu hồi của nhà là cầu thang nhìn theo hướng nhà (tang chan), cầu thang ở bên trái nhà dành cho phụ nữ lên xuống (chan) là phần sàn nhà được nối dài ra ngoài trời. Cầu thang bên phải dành riêng cho con trai và khách (tang quản) thường có bẩy bậc ứng với bẩy vía. Tuy nhiên, nhà sàn của người Thái Đen không có hiên nhà, cửa ra vào nằm ở đầu hồi. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan