Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác ...

Tài liệu Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện chư sê, tỉnh gia lai

.DOC
84
267
138

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN DŨNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN DŨNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Luận văn thạc sĩ Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Dũng MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC...................................................7 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác:........................................................................................ 7 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác:...................................................................................... 13 1.3. Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác:...................................................................................... 14 1.4. Nội dung thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác:...................................................................................... 15 1.5. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác:................................................................................................................30 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI 33 2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.............................................................................33 2.2. Những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai:............................................................36 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI....................................................59 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai:...................................................................................... 59 3.2. Những giải pháp:......................................................................................60 KẾT LUẬN....................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự ĐTV : Điều tra viên KSV : Kiểm sát viên QCT : Quyền công tố THQCT : Thực hành quyền công tố VKS : Viện kiểm sát VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao VKSND : Viện kiểm sát nhân dân CQCSĐT : Cơ quan cảnh sát điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng NTHTT : Người tiến hành tố tụng NQ : Nghị quyết TW : Trung ương MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoạt động thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm thực hiện chức năng của ngành kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 107 của Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”; tại Điều 2 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Điều 20 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”. Đây là hoạt động thể hiện quyền lực Nhà nước, một trong những biện pháp hữu hiệu của Nhà nước dùng để đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời thể hiện quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong việc đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS của Viện kiểm sát là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong những năm vừa qua, ngành Kiểm sát đã phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng tấn công mạnh mẽ và có hiệu quả vào các loại tội phạm hình sự nói chung và tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn trong việc bảo vệ pháp 1 chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền con người, tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của công dân…giữ gìn và bảo đảm tình hình trật tự trị an, ổn định tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận. Tuy nhiên, thực tiễn thực hành quyền công tố của VKS còn cho thấy có nhiều hạn chế trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án mà do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản là nhận thức về thực hành quyền công tố còn thiếu đầy đủ toàn diện; nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ toàn diện; thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng chưa được tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên; tình hình vi phạm, tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác trên địa bàn cả nước, địa bàn tỉnh Gia Lai nói chung và địa bàn huyện Chư Sê nói riêng đang diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng, tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm và gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn. Vì vậy, để góp phần thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố thì việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề cần thiết hiện nay nên em đã lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu: Thực hành quyền công tố là một trong những chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nên trong nhiều năm qua đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, có nhiều bài viết liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong điều tra các vụ án hình sự, cụ thể như: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ những năm 1945 đến nay, của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (năm 1999). Một số vấn đề về quyền công tố của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Độ, đăng 2 trên Tạp chí Luật học số 03/2001. Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố của Tiến sĩ Lê Cảm, đăng trên Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2001. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 1/2003. Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên và đồng tác giả; Nhà xuất bản tư pháp Hà Nội năm 2008. Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của Tiến sĩ Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 8/2012. Thẩm quyền của Kiểm sát viên theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên Bang Nga, luận án tiến sỹ luật học của Tiễn sĩ Mai Đắc Biên, Liên bang Nga, 2012. Bàn về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Sơn; đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 9/2013. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, của Tiến sĩ Lê Hữu Thể. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (năm 2014). Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008-VTC ngày 02/01/2008. Tại tỉnh Gia Lai đã có một số luận văn Thạc sĩ liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân nhưng chưa có luận văn nào nghiên cứu đề tài thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác; trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tập 3 trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Trên cơ sở thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong 05 năm, từ năm 2014 - 2018; luận văn tiến hành phân tích, đánh giá việc thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai để tìm ra những hạn chế, thiếu sót từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong thời gian tới nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án hình sự đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không để xảy ra oan sai; với cách tiếp cận và thể hiện như vậy, nội dung của luận văn không trùng với bất cứ luận văn nào đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của luận văn là nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại VKSND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức, kết quả nghiên cứu của luận văn nhằm tìm ra những khó khăn vướng mắc, tồn tại, bất cập và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của công tác này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện cả lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại VKSND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác đấu tranh phòng, chống hiệu quả hơn với loại tội phạm này trong thời gian tới. Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về chức năng thực hành quyền công tố 4 trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Tổng kết, phân tích, đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại VKSND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong 05 năm, từ năm 2014 - 2018. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng, xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong thời gian tới đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn THQCT của VKSND huyện Chư sê, tỉnh Gia Lai trong 05 năm qua, từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng. Phương pháp nghiên cứu của luận văn được sử dụng bao gồm phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và trao đổi khoa học; khảo cứu các văn bản, tài liệu có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này… 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn: Ý nghĩa về lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành Luật tố tụng hình sự về chức năng thực hành quyền công tố của 5 VKSND. Ý nghĩa về thực tiễn: Luận văn nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng và của VKS cấp huyện trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói chung; từ đó học viên thấy việc nghiên cứu làm sáng tỏ các lý luận về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự là cần thiết, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những hạn chế, vi phạm để từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Thông qua đó giúp Viện kiểm sát ngày một nâng cao hơn vị thế của mình trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác: 1.1.1. Khái niệm quyền công tố: Cho đến nay, trong các nghiên cứu có nhiều quan điểm về quyền công tố trong tố tụng hình sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố là quyền lực công, gắn liền với sự phát triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt Nhà Nước đứng ra bảo vệ quyền của người bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp. Quan điểm thứ hai, coi công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (có thể nằm trong cơ cấu của Tối cao pháp viện). Quan điểm thứ ba cho rằng, với việc tách các cơ quan Tòa án ra khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì công tố mới xuất hiện. Không đồng ý với các quan điểm nêu trên, quan niệm thứ tư cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của Tiến sĩ Lê Hữu Thể khi đưa ra định nghĩa về quyền công tố: “Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước, được nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. 7 Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà”. Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng: “quyền công tố là quyền lực Nhà Nước, do cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền tiến hành trong tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự, truy tố và buộc tội người phạm tội”. 1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố: Trong thời gian gần đây có một số công trình khoa học nghiên cứu về thực hành quyền công tố hoặc nghiên cứu về các vấn đề pháp lý khác trong đó có một số vấn đề liên quan đến thực hành quyền công tố mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra được một số biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát giam, giữ và cải tạo, kiểm sát thi hành án. Các công trình này vận dụng những nguyên lý của V.I. Lênin về pháp chế xã hội chủ nghĩa và vai trò của VKS, về vai trò và bộ phận của ủy viên công tố làm cơ sở lý luận và lấy các quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1960 đến nay làm cơ sở pháp lý. Bởi vậy trong nhận thức của không ít những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn trong cũng như ngoài ngành kiểm sát đã nhầm lẫn quyền công tố với thực hành quyền công tố trên nhiều phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi. Đồng thời các công trình này luôn gắn quyền công tố chỉ với VKS, coi đó là quyền của VKS. Do đó đã không lý giải được một số vấn đề là khi một số cơ quan khác (CQĐT, Tòa án...) sử dụng một số biện pháp như khởi tố vụ án, khởi tố bị can... thì có phải các cơ quan này cũng thực hành quyền công tố hay không. Để thực hiện quyền lực nhà nước trên một lĩnh vực cụ thể thì nhà nước tổ chức ra một hệ thống cơ quan nhất định để thực hiện quyền lực đó. Hệ thống cơ quan này đóng vai trò chính trong sự phối hợp cùng với cơ quan nhà nước khác để thực hiện quyền lực nhà nước đã được xác định. Ở các nước, đa phần họ thành lập cơ quan công tố để thực hành quyền công tố với các quyền hạn, trách nhiệm tố tụng trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử của TTHS. - Sách chuyên khảo “Luật tố tụng hình sự” của Se-Men Sốp V. A xác định, 8 chế định THQCT ở Liên bang Nga được quy định đầy đủ trong BLTTHS. Theo đó, Viện kiểm sát/Kiểm sát viên có hai chức năng, nhiệm vụ cơ bản: 1) Đại diện Nhà nước truy tố hình sự theo quy định của luật tố tụng hình sự; 2) Kiểm sát hoạt động tố tụng của các cơ quan điều tra và cơ quan điều tra dự thẩm. - Cuốn sách “Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự Liên bang Nga” của Tu Sốp A.A xác định, Viện kiểm sát/Kiểm sát viên khi THQCT có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau: 1) Đấu tranh chống tội phạm; 2) Kiểm sát hoạt động tư pháp; 3) Bảo vệ pháp luật; 4) Truy tố hình sự; 5) Chỉ đạo hoạt động điều tra của ĐTV, ĐTV dự thẩm, của các cơ quan điều tra về khởi tố vụ án hình sự và điều tra tội phạm; 6) Xác định sự thật của vụ án. - Luận án Tiến sỹ “Quyền hạn của Kiểm sát viên theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga”, Mai Đắc Biên đưa ra các kết luận sau: 1) Theo BLTTHS Liên bang Nga, KSV trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự có những hoạt động hướng tới việc bảo vệ quyền và tự do của con người, công dân, bảo đảm tính pháp chế, tính toàn diện, đầy đủ và khách quan trong điều tra tội phạm, làm rõ các tình tiết, phương thức thực hiện tội phạm, áp dụng các biện pháp luật định để ngăn chặn chúng; 2) Chức năng, nhiệm vụ của VKS/KSV Việt Nam trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự bao gồm: kiểm sát việc tuân theo pháp luật, truy tố hình sự, phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, định hướng và đưa ra yêu cầu điều tra cho CQĐT. Hai chức năng, nhiệm vụ đầu tiên là cơ bản, hai chức năng tiếp theo có tính chất bổ sung; 3) Đánh giá về sự đặc biệt trong chế định THQCT của VKS/KSV theo quy định của BLTTHS Việt Nam trong sự so sánh với chế định THQCT của VKS/KSV 9 Liên bang Nga, thấy rằng: VKS/KSV Việt Nam có sự linh hoạt trong thực hiện các hoạt động tố tụng và ban hành các quyết định, có quyền hạn lớn để tác động vào hoạt động tố tụng của CQĐT/ĐTV nhằm bảo đảm việc điều tra đúng quy định của pháp luật. Ở nước ta, VKS là cơ quan duy nhất được giao thực hành quyền công tố; không có cơ quan nào có thể thay Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, bởi lẽ: Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có quyền độc lập phát động quyền công tố như: ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT; các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. VKS có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; gia hạn các biện pháp trên; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng của CQĐT. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm đảm bảo đủ các chứng cứ để truy tố, buộc tội bị can; khi có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội thì VKS quyết định truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án. Tại phiên tòa, VKS có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố, buộc tội bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật; bản án kết tội của Tòa án chính là việc chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự như sau: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc cơ quan công tố (Viện kiểm sát) sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội; truy tố người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. 1.1.3. Khái niệm điều tra vụ án hình sự đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của người khác Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng 10 cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. Những hoạt động điều tra đối với nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác gồm: lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác; hỏi cung bị can; khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi (trong trường hợp hành vi cố ý gây thương tích dẫn đến nạn nhân chết); giám định tỷ lệ tổn thương của người bị hại; giám định tuổi của người phạm tội, của người bị hại; đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; khám xét; thu giữ tài liệu, đồ vật và một số hoạt động điều tra khác. Những hoạt động điều tra này cần nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và thời hạn. Những hoạt động điều tra này nhằm thu thập một cách toàn diện, đầy đủ chứng cứ buộc tội và gỡ tội đối với người phạm tội, các tình tiết khác có liên quan để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. CQĐT, Điều tra viên có trách nhiệm đánh giá các chứng. Trên cơ sở đánh giá chứng cứ đó, CQĐT sẽ quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự, đình chỉ điều tra đối với bị can hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị 11 can. Như vậy, điều tra vụ án hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác là một giai đoạn tố tụng, trong đó cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật để xác định tội phạm và người phạm tội xâm phạm sức khỏe của người khác, làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 1.1.4. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác: Theo tác giả luận văn thì khi nghiên cứu thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác thì không thể không nghiên cứu đến khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Theo đó, thực thành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự, việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm các tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Trong giai đoạn này, VKS thực hành quyền công tố bằng các hoạt động: phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của CQĐT, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành hoạt động điều tra hoặc trực tiếp ra các quyết định tố tụng, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Trong giai đoạn điều tra này, mọi quyết định của CQĐT đều phải được gửi cho VKS để VKS xem xét, đánh giá tính có căn cứ và tính hợp pháp của các quyết định, từ đó thực hiện quyền hạn thực hành quyền công tố của mình. Nếu quyết định của CQĐT có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ đồng ý hoặc phê chuẩn quyết định đó. Nếu quyết định của CQĐT không có căn cứ hoặc không hợp pháp thì VKS tùy từng trường hợp theo quy định của pháp luật mà không phê chuẩn hoặc hủy bỏ. Đồng thời, căn cứ kết quả kiểm sát hoạt động điều tra, VKS có thể yêu cầu CQĐT tiến hành những hoạt động điều tra cụ thể, yêu cầu cung cấp hồ sơ tài liệu có liên quan, yêu cầu thay đổi ĐTV. Ngoài ra, VKS có thể trực tiếp ban hành các quyết định hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra 12 để giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên, những hoạt động này của VKS chỉ được thực hiện trong những trường hợp pháp luật quy định. Khi thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, VKS chú trọng đến những yêu cầu CQĐT tiến hành một số hoạt động đặc thù chỉ có trong nhóm tội này, như yêu cầu CQĐT tiến hành giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe của người bị hại; yêu cầu bị hại có đơn yêu cầu khởi tố; yêu cầu làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của người phạm tội khi phạm tội. Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được thực hiện từ thời điểm CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc quyết định đình chỉ vụ án hình sự. Đối tượng của thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác là tội phạm và người phạm tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Để làm rõ đối tượng của tội phạm, VKS phải yêu cầu CQĐT làm rõ mọi tình tiết của vụ án, như thời gian, địa điểm tội phạm xảy ra, hành vi phạm tội, công cụ, phương tiện người phạm tội sử dụng; lỗi, động cơ, mục đích của người phạm tội; nhiệm vụ, quyền hạn của người phạm tội (Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137); hậu quả của tội phạm, như thương tật của người bị hại, chi phí cho việc chữa trị thương tích; nhân thân, tiền án, tiền sự của người phạm tội những tình tiết khác có liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội đối với người phạm tội. Như vậy, thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác là việc cơ quan công tố/ Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội, truy tố người phạm các tội xâm phạm sức khỏe của người khác ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác là hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm 13 hình sự đối với người có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác bắt đầu từ thời điểm CQĐT khởi tố vụ án hình sự về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, cần phải xem xét cả các tố giác, tin báo về các tội liên quan như: Hủy hoại tài sản; cố ý làm hư hỏng tài sản; bắt, giữ người trái pháp luật… Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác luôn đặt trong sự so sánh, ly lai với các tội phạm khác khi mà hành vi phạm tội ở mức chưa cấu thành như: giữa tội giết người chưa đạt với tội cố ý gây thương tích, giữa tội cố ý gây thương tích với tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh… Hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe của người khác là một trong các yếu tố định tội quan trọng đối với các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nên VKS phải bảo đảm cho việc xác định đúng đắn tỷ lệ thương tích của người bị hại. Đồng thời, đối với nhóm tội này, có những tình tiết định tội hoặc địnhkhung tăng nặng nhưng mang tính định tính (như tính chất côn đồ, dùng hung khí nguy hiểm) nên hoạt động thực hành quyền công tố cần đánh giá đúng đắn để bảo đảm cho việc khởi tố, áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp. Chủ thể thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố các tội xâm phạm sức khỏe của người khác chỉ có thể là Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên. Hoạt động này gắn chặt với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra và đòi hỏi sự phối hợp cũng như chế ước đối với hoạt động của Cơ quan điều tra. Hoạt động này đòi hỏi phải áp dụng mọi quy định của pháp luật tố tụng hình sự để thực hiện tổng thể quyền năng của Viện kiểm sát, bảo đảm việc điều tra đúng quy định của pháp luật, nhanh chóng phát hiện và làm rõ tội phạm, xử lý đúng quy định của pháp luật. 1.3. Phạm vi thực hành quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác: Khi xác định phạm vi thực hành quyền công tố của VKS trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác tức là xác định khoảng thời gian nhất định, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan