Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thủ tục thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện phú ninh, tỉnh quảng nam ....

Tài liệu Thủ tục thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện phú ninh, tỉnh quảng nam .

.PDF
83
145
74

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ MINH TUYẾT THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ MINH TUYẾT THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hiến pháp - Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ LÂM THI HÀ NỘI, năm 2019 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bản án, quyết định của Tòa án một khi đã được chấp hành nghiêm sẽ tác động trực tiếp đến sự hài lòng và tin tưởng của người dân đối với pháp luật. Chính vì thế, thi hành án là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để duy trì giữ vững kỷ cương pháp luật, ổn định trật tự và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi quyền tư pháp độc lập, nghiêm túc trên thực tế. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngoài chức năng của cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án thì cơ quan THADS giữ một vai trò đặc biệt và là một mắt xích không thể thiếu của quá trình tố tụng. Mọi phán quyết của Tòa án chỉ là những quyết định trên giấy và không thể phát huy hết hiệu quả trên thực tế nếu không được thi hành đúng và đầy đủ, nhất là trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, khi nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giao dịch phát sinh tranh chấp cũng nhiều hơn, vì vậy số lượng công việc mà các cơ quan Tư pháp phải giải quyết cũng ngày càng tăng và tính chất cũng phức tạp hơn. Điều đó đặt ra yêu cầu cho các cơ quan Tư pháp nói chung và cơ quan THADS nói riêng phải hoạt động sao cho đạt hiệu quả cao nhất nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi, xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luật Thi hành án dân sự (THADS) được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2009 là cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Qua 05 năm thi hành luật, công tác thi hành án dân sự đã từng bước đi vào nề nếp và có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, quá trình thi hành luật cũng cho thấy nhiều nội dung, quy định của luật không còn phù hợp với thực tiễn, tạo ra trở lực cho quá trình thi hành án, chưa thực sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, dự thảo luật THADS ban hành ngày 21/2/2014 đã được lấy ý kiến sâu rộng từ nhân dân, và được Quốc hội biểu quyết thông qua vào ngày 25/11/2014. Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ 1 sung năm 2014) có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 có khá nhiều quy định đổi mới về thủ tục THADS. Trong thời gian qua, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động THADS còn nhiều khó khăn, tồn tại cần khắc phục, trong đó có nguyên nhân là do thủ tục THA. Vì vậy, Đổi mới hoạt động THA nói chung và nâng cao hiệu quả đối với THADS nói riêng là một nội dung quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp được ghi nhận trong nhiều văn bản như: Nghị quyết Trung Ương 8 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VIII, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng qua các kì họp, đặc biệt Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005, Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Bên cạnh đó, cũng dựa trên kinh nghiệm thực tế làm việc tại của bản thân tại huyện Phú Ninh, tác giả hiểu rằng, việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thủ tục THADS là một yêu cầu khách quan và tất yếu. Với lý do cấp thiết nêu trên là cơ sở để tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục Thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ ngành luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài THADS là lĩnh vực diễn ra khá phổ biến trong thực tiễn đời sống xã hội từ rất nhiều năm nay, nên nó là chủ đề được nhiều giới nghiên cứu quan tâm. Có thể kể đến: Trước năm 2008 có các công trình nghiên cứu như: Tác giả Nguyễn Thanh Thủy, Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học năm 2001; Đề tài khoa học cấp trường năm 2004, Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật THADS của Trường Đại học Luật Hà Nội; Tác giả Lê Anh Tuấn, Đổi mới thủ tục THADS ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học năm 2004; Đề tài khoa học cấp bộ năm 2006 “Bình luận Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004” của Viện khoa học pháp lý (Bộ tư pháp)… cùng với nhiều công trình tài liệu nghiên cứu khác. Từ khi Luật THADS năm 2008 có hiệu lực cho đến nay, có rất nhiều nghiên 2 cứu chú trọng về lĩnh vực THADS. Tiêu biểu, có Đề tài khoa học cấp trường năm 2011 “Những điểm mới của Luật THADS năm 2008” do Tiến sỹ Bùi Thị Huyền chủ nhiệm ở trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó, có nhiều sách báo pháp lý, các diễn đàn pháp luật từ 2009 đến nay công bố rất nhiều bài viết nghiên cứu trao đổi về lĩnh vực THADS, như: Sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự Việt Nam” do tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà (Học viện Tư Pháp) chủ nhiệm, được xuất bản vào năm 2011; các bài viết đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề về thi hành án dân sự ở các tháng 2, tháng 4, tháng 6, tháng 12 năm 2012; tháng 12/2013 và tháng 03/2014…; cùng với khá nhiều bài viết liên quan lĩnh vực thủ tục THADS được đăng trên tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp và các sách, báo, tạp chí nghiên cứu khác… Từ việc kế thừa các giá trị của nhiều nghiên cứu nêu trên, luận văn của tác giả nghiên cứu sâu hơn về một số thủ tục THADS, với việc đưa ra khái niệm, đặc điểm, vai trò, quá trình hình thành và phát triển qua các thời kì của thủ tục THADS; Thực tiễn thi hành thủ tục thi hành án trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam chỉ ra những bất cập, đề xuất những đóng góp cho quá trình sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Dựa trên cơ sở nghiên cứu trình bày có hệ thống để làm rõ một số vấn đề cơ sở lý luận và phân tích đánh giá thực trạng thực hiện thủ tục THADS trên địa bàn huyện Phú Ninh, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục THADS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục THADS. - Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về thủ tục THADS - Đánh giá thực tiễn thực hiện thủ tục THADS trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục THADS. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về thủ tục THADS, các quy định của pháp luật về thủ tục THADS và thực tiễn thực hiện thủ tục THADS 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung:Thủ tục THADS phạm vi rất rộng, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả không đi sâu vào tìm hiểu hết tất cả các thủ tục trong quá trình THADS mà chỉ đi sâu vào một số thủ tục THADS nói chung. Luận văn không nghiên cứu về thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế THADS. - Về địa bàn: Phạm vi khảo sát là địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. - Về thời gian: từ năm 2014 – 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênnin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu đề tài, luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng thực hiện thủ tục THADS. - Phương pháp thống kê và so sánh được sử dụng nghiên cứu nhằm xác định những đặc điểm chung, điểm đặc thù của cơ quan thi hành án dân sự. Phương pháp này còn được sử dụng để so sánh mô hình cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn trước và giai đoạn hiện nay, thống kê các số liệu điển hình về kết quả thi hành án trong giai đoạn 5 năm nhằm xác định được mức độ hiệu quả của cơ quan tHADS. - Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự qua các thời kỳ. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp vào việc làm rõ một số vấn đề cơ sở lý luận về thủ tục THADS. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định pháp luật về thủ tục THADS và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục hành chính trong công tác THADS tại tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Quảng Nam trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thủ tục THADS. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của Cục Thi hành án dân sự tỉnh và các cơ quan thi hành án dân sự trong cả nước trong việc nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện thủ tục THADS. 7. Cơ cấu của luận văn Bên cạnh phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu nội dung gồm ba chương: Chương 1 – Một số vấn đề lý luận về thủ tục thi hành án dân sự Chương 2 – Các quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự Chương 3 – Thực tiễn thực hiện thủ tục thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thiện thủ tục thi hành án dân sự. 5 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤCTHI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thủ tục thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm thủ tục thi hành án dân sự - Khái niệm về thi hành án dân sự: Thi hành án (theo khoa học pháp lý) có thể hiểu là việc đưa các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế. Đối với thi hành án dân sự (THADS), đây là hoạt động thực thi Bản án, Quyết định về dân sự của Tòa án nhằm đưa các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi trên thực tế. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về THADS: - Ý kiến thứ nhất xác định, THADS mang tính tư pháp, là một giai đoạn của hoạt động tố tụng. Bởi hoạt động xét xử là phải gắn liền với việc THA, nên việc THA dựa trên cơ sở hoạt động của của công tác xét xử. Xét xử và THA là sự thống nhất hai mặt của một quá trình bảo đảm các lợi ích của đương sự. Với lập trường của ý kiến này, thực chất THA là hoạt động tố tụng của tòa án, của tổ chức, cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo tính kịp thời cho các quyết định, bản án của tòa án được thi hành chính xác. Mặt khác, việc THADS lại do cơ quan tư pháp có thẩm quyền. - Ý kiến thứ hai xác định, THADS là dạng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.Vì hoạt động THADS mang tính chất chấp hành và điều hành. Hơn nữa, quá trình tố tụng là sự tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp và phải trải qua nhiều công đoạn có liên quan gắn kết với nhau trong thể thống nhất, ở đó xét xử là công đoạn cuối của quá trình tố tụng, nên quyết định, bản án của toà án là kết quả duy nhất đánh dấu về sự kết thúc của quá trình tố tụng. - Ý kiến thứ ba, là hoạt động THADS mang tính hành chính - tư pháp. Bởi dựa vào căn cứ THA là để các quyết định, bản án của tòa án; và quá trình THA có sự tham gia của các cơ quan tư pháp. Hơn nữa, quá trình hoạt động THADS lại phải tiến hành theo tính hành chính như: việc ủy quyền THADS, trước bạ chuyển quyền sở hữu nhà cho người được THA, chứng thực bản sao giấy tờ, v.v… 6 Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba, THADS là hoạt động mang tính hành chính – tư pháp vì: Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra, trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy định của pháp luật (tức là quá trình đi tìm sự thật để áp dụng pháp luật). Còn THADS là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực thi các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (tức là quá trình thực thi pháp luật). Quá trình này có thể do các chủ thể phải THA tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành. Ở quá trình THADS luôn yêu cầu những yếu tố của hành chính như: kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý… để tác động tới đối tượng phải THA để họ tự giác hoặc buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các quyết định, bản án của tòa án. THADS cũng không thuần túy là hoạt động của các cơ quan hành chính. THA là giai đoạn kế tiếp theo của giai đoạn xét xử, kết nối giữa hoạt động hành chính với hoạt động tư pháp. Căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình THADS, cơ quan THA và các bên có liên quan áp dụng cả các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật hành chính, trong đó phần lớn là các quy định của pháp luật hành chính. Theo quy định tại Điều 2, Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014: “Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm: Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án; Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. Những 7 bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Từ việc lập luận và phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về THADS được xác định như sau: THADS là dạng hoạt động mang tính hành chính - tư pháp của Nhà nước do cơ quan THADS và Chấp hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước để đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án; Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại Quyết định xử lý vụviệc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức. - Khái niệm thủ tục - theo Từ điển Tiếng Việt, đó là những việc cụ thể phải làm theo một trình tự qui định để thực thi một công việc có tính chất bắt buộc. Theo nghĩa chung nhất, thủ tục hành chính được hiểu theo nghĩa đầy đủ: Đó vừa là một thể chế (thể lệ) thống nhất bao gồm gồm một chuổi các nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt kết quả dự kiến; vừa là phương thức và cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010, thủ tục hành chính là: “Trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”. Từ những cách tiếp cận trên, có thể hiểu: Thủ tục THADS là toàn bộ các công việc do cơ quan THADS, Chấp hành viên và tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện theo trình tự nhất định do pháp luật quy định để thi hành hiệu lực bản án, quyết định dân sự của Tòa án; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh nhằm, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ 8 chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội. Thủ tục THADS là trình tự, cách thức thực hiện cũng như các yêu cầu, điều kiện do pháp luật quy định để thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật. Hiện nay THADS được điều chỉnh từ Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Căn cứ Điều 1 của Luật THADS 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (bản án, quyết định); hệ thống tổ chức THADS và Chấp hành viên; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động THADS”. Từ những quy định trên cho thấy đối tượng hướng đến của thủ tục THADS, đó chính là: + Các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lời bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án; + Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam; + Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản; + Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài 9 nước ngoài được Việt Nam công nhận. (Sau đây gọi chung là bản án, quyết định dân sự). Mục đích của thủ tục THADS nhằm bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của Tòa án; quyết định của Trong tài kinh tế, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Chủ thể của thủ tục THADS bao gồm: cơ quan THADS, chấp hành viên của cơ quan THADS; người phải THADS, người được THADS; cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ THA của đương sự; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quanTHADS trong việc THA. 1.1.2. Đặc điểm của thủ tục thi hành án dân sự - Thứ nhất, thủ tục THADS mang tính pháp lý. Thủ tục THADS được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, chỉ có những quy định về thủ tục THADS được quy định trong văn bản pháp luật mới được có giá trị pháp lý trên thực tế. Hiện nay, thủ tục THADS được quy định trong Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Ngoài ra, thủ tục THADS còn được quy định cả trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Thủ tục THADS được pháp luật quy định rõ và chặt chẽ từ bắt đầu đến khi kết thúc, bảo đảm tính công bằng trong thực thi THA về quyền và nghĩa vụ của các bên Thủ tục THADS có đặc trưngt về tính ràng buộc đối với tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan đến quyết định, bản án của Tòa án. Việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm đối với quyết định, bản án của Tòa án dẫn đến các hậu quả pháp lý khó lường và có thể bị xử lý bằng chế tài. - Thứ hai, thủ tục THADS về cơ bản mang tính chất của thủ tục hành chính, tuy nhiên nó cũng mang đặc điểm “dân sự”. Tính chất dân sự trong thủ tục THADS thể hiện ở chỗ:Theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong quan hệ dân sự, pháp luật công nhận sự thỏa thuận, tự nguyện của người được THA và người phải THA về việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, nếu sự 10 thỏa thuận đó không vi phạm lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Nghĩa là điều đó xảy ra sau khi tranh chấp đã được phân xử, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình trong quá trình THA. Đây là điểm khác nhau cơ bản của thủ tục THADS so với THA hình sự và THA hành chính. Hơn nữa, thủ tục THADS được áp dụng trên thực tế phần lớn là để thi hành các quyết định về tài sản. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục THADS được áp dụng để thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động và các quyết định về tài sản trong các bản án, quyết định hành chính, hình sự, quyết định của trọng tài thương mại v.v... Mặc dù hoàn toàn khác biệt về tính chất của quan hệ pháp luật, nhưng nghĩa vụ THA trong tất cả các bản án, quyết định này đều có tính chất tương đồng đó là nghĩa vụ tài sản hoặc các công việc phải thực hiện. Đây là cơ sở để xác định tính chất "dân sự" nhằm phân biệt với THA hình sự, hành chính. - Thứ ba, căn cứ phát sinh thủ tục THADS là các quyết định, bản án của Tòa án sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự theo nghĩa rộng bao gồm: quyết định, bản án về dân sự, lao động, kinh tế, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản trong quyết định ,bản án hình sự (tịch thu tài sản, phạt tiền, án phí); quyền tài sản và quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; quyết định, bản án dân sự của Tòa án ở nước ngoài, quyết định của trọng tài ở nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam. Dẫu vậy, với trường hợp trong THA hành chính, THA hình sự, hoạt động THA hành chính, THA hình sự chỉ phát sinh dựa trên cơ sở quyết định, bản án đã có hiệu lực thì hoạt động THADS không chỉ phát sinh trên cơ sở quyết định, bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật, mà quantrong nữa là còn được phát sinh dựa vào các quyết định, bản án dân sự của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, đó là quyết định, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. 11 - Thứ tư, mục đích hướng đến của thủ tục THADS là nhằm thi hành các phán quyết của các cơ quan Tòa án, Trọng Tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. THADS gắn liền với hoạt động xét xử (theo nghĩa rộng), xét xử chính là tiền đề của THADS. Hoạt động THADS lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét xử, là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quann hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Những thủ tục được thực hiện trong quá trình THADS là nhằm để thi hành các bản án, quyết định - kết quả cuả hoạt động xét xử, đảm bảo quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. - Thứ năm, đặc điểm về chủ thể của thủ tục THADS: Thủ tục THADS gắn liền với sự có mặt ba chủ thể có địa vị pháp lý không giống nhau, đó là chấp hành viên, cơ quan THA với người phải THA, người được THA. Việc bảo vệ lợi và quyền hợp pháp của công dân, gìn giữ kỷ cương, trật tự trong THADS là trách nhiệm của chính quyền nhà nước, chứ không phải là nhiệm vụ riêng có của công dân. Chấp hành viên, cơ quan THA tham gia quan hệ pháp luật về THADS không đơn giản chỉ vì lợi ích của chính mình, mà vấn đề quan trọng và cốt lõi là nhân danh cơ quan nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trên thực tế về các phán quyết về dân sự của Tòa án, để đảm bảo lợi ích Nhà nước và lợi quyền hợp pháp của các tổ chức, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. Là chủ thể bắt buộc trong quan hệ THADS, chấp hành viên nhân danh Nhà nước, thực thi quyền lực nhà nước thông qua hoạt động THA. Để chấp hành viên có cơ sở pháp lý hoạt động, pháp luật qui định cho chấp hành viên những quyền hạn nhất định, như trong trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, hai bên đương sự tự nguyện bàn bạc và thỏa thuận với nhau việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo nội dung và quyết định của bản án, thì chấp hành viên đóng vai trò là người "xác nhận" việc tự nguyện và thỏa thuận đó và làm các thủ tục theo qui định của pháp luật THADS. Ở trường hợp chủ thể của quan hệ pháp luật THADS, dù rằng chấp hành viên cơ quan THA đã giáo dục, giải thích, phân tích nhưng lại cố ý không tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án, không tự nguyện thực thi nghĩa vụ của mình với sự chây ỳ, coi thường pháp luật thì chấp hành viên phải áp dụng biện 12 pháp cưỡng chế, buộc người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ theo phán quyết Tòa án đă tuyên. Ở trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế THA không những thể hiện quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện bản chất dân chủ XHCN cũng như trách nhiệm của Nhà nước về việc bảo vệ lợi quyền hợp pháp của tổ chức, công dân. Ngoài những chủ thể nói trên, trong quá trình thực hiện thủ tục THADS còn có sự tham gia của một số chủ thể khác có liên quan như: cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ THA của đương sự; cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp – hộ tịch, địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường, cán bộ công chức cấp xã; Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm…có trách nhiệm thực hiện yêu cầu xác minh điều kiện THA của Chấp hành viên v.v… 1.1.3. Vai trò của thủ tục thi hành án dân sự - Thủ tục THADS là bảo đảm pháp lý cho việc thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền. Các quy định về thủ tục THADS là phương tiện để đưa các bản án, quyết định đó vào thực tế. Thiếu đi các quy định thủ tục này thì việc thi hành các bản án, quyết định sẽ không thống nhất, dễ gây ra những rối loạn trong quản lý xã hội. Vì vậy, thủ tục THADS là cơ sở bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ pháp luật và củng cố pháp chế XHCN. - Thủ tục THADS là công cụ hữu hiệu để bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự khi bị xâm hại, góp phần bảo đảm trật tự pháp luật XHCN, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và thực hiện công bằng xã hội. - Thủ tục THADS là tạo điều kiện cho hoạt động THADS được tiến hành nhanh chóng và thực thi đúng quy định của pháp luật về THADS, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước. - Thủ tục THADS là cơ sở cho hoạt động THA của Chấp hành viên, cán bộ cơ quan THADS được đúng đắn, hạn chế tình trạng lạm quyền, tham nhũng, tiêu 13 cực trong THADS; cũng như góp phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của các cơ quan tư pháp. - Thủ tục THADS góp phần thúc đẩy tích cực việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể trong THADS (cả cơ quan THADS, người được THA và người phải THA), tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật của cán bộ và nhân dân trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Vai trò này của thủ tục THADS có ý nghĩa quan trọng. Bởi trong thực tiễn thường gặp, đối với các vụ việc có giá trị lớn, người phải THA hầu như không tự nguyện thi hành, buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế theo luật định, nhưng nếu quá trình tổ chức thực thi các biện pháp cưỡng chế THADS không đầy đủ hoặc không đúng sẽ phát sinh trong công tác THADS các tình huống bất thường như: việc chậm thu hồi tài sản cho Nhà nước, các tổ chức sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp. 1.2. Nội dung thủ tục thi hành án dân sự Thủ tục THADS là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn, theo các trình tự sau: Cấp,chuyển giao bản án, quyết định xét xử; gửi yêu cầu THA; ra quyết định THA; tổ chức thi hành Quyết định THA; kết thúc THA. Như vậy, thủ tục THADS bao gồm những nhóm thủ tục sau: - Thủ tục cấp, chuyển giao bản án, quyết định. Xét từng loại bản án, quyết định, Toà án, cơ quan có thẩm quyền ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan THADS có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định, bản án hoặc trong thời hạn xác định, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; đồng thời bản án, quyết định đó cũng phải được cấp cho các đương sự để thi hành. Việc cấp, chuyển giao bản án, quyết định phải được tiến hành trong thời hạn nhất định để tránh việc chậm trễ trong THA. Cơ quan THADS có trách nhiệm nhận quyết định, bản án để thi hành. Việc tiếp nhận bản án, quyết định cũng phải được thực hiện theo những trình tự, thủ tục nhất định. - Thủ tục yêu cầu THA và tiếp nhận (từ chối) yêu cầu THADS. Khi nhận được bản án, quyết định, các đương sự (người phải THA, người 14 được THA) phải gửi đơn đến cơ quan THADS để yêu cầu THA. Việc gửi đơn yêu cầu THA cũng phải được thực hiện theo những trình tự, thủ tục và yêu cầu, điều kiện nhất định về nội dung, hình thức đơn, về cách thức thực hiện quyền yêu cầu THA của đương sự. Việc gửi đơn yêu cầu THA của đương sự sẽ làm phát sinh thủ tục tiếp nhận hoặc từ chối yêu cầu THA của cơ quan THADS. Căn cứ vào những trường hợp cụ thể, cơ quan THADS sẽ tiếp nhận yêu cầu THA của đương sự khi đáp ứng các yêu cầu, điều kiện đặt ra; ngược lại, cơ quan THADS sẽ từ chối yêu cầu THA của đương sự khi không đáp ứng các yêu cầu, điều kiện đặt ra. - Thủ tục ra quyết định THADS. Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu THA của đương sự, cơ quan THA có trách nhiệm ra quyết định THA. Trong một số trường hợp đặc biệt, cơ quan THADS chủ động ra quyết định THA mà không cần có đơn yêu cầu THA của đương sự để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, kịp thời bảo vệ lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chẳng hạn như trong các trường hợp: để thi hành hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí cho Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ Nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản, các khoản thu khác cho Nhà nước; thu hồi quyền sử dụng đất; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời… Quyết định THA phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung, hình thức và thời hạn ra quyết định, giúp cho việc tổ chức THA được thuận lợi, nhanh chóng. - Thủ tục tổ chức thực hiện quyết định THADS. Để tổ chức thi hành Quyết định THA, sau khi ra quyết định THA, cơ quan THADS có trách nhiệm gửi quyết định và thông báo về việc THA cho đương sự biết để thi hành. Việc gửi và thông báo quyết định THA được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, tùy từng điều kiện cụ thể để tạo thuận lợi cho cơ quan THA cũng như đảm bảo thông tin đến được đương sự. Để tạo cơ sở cho việc đề ra biện pháp THA phù hợp đối với từng vụ việc, cần thiết phải tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA. Vì vậy, trong THADS, xác minh điều kiện THA là một thủ tục bắt buộc, bước tiền đề quan trọng để nghĩa vụ THA được thực thi. Thủ tục xác minh điều kiện THA sẽ xác định 15 rõ thẩm quyền xác minh, trình tự xác minh, nội dung xác minh, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan v.v... Kết thúc giai đoạn xác minh, căn cứ vào kết quả xác minh, cơ quan THADS kết luận về việc có đủ điều kiện THA hay chưa. Khi người phải THA có điều kiện THA thì cơ quan THA tổ chức thi hành quyết định THA. Để tạo điều kiện cho người phải THA, pháp luật cần quy định một khoảng thời hạn tự nguyện THA. Hết thời hạn tự nguyện THA mà người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện THA thì sẽ bị cưỡng chế THA. Trong quá trình tổ chức thi hành quyết định THA, sẽ có thể xuất hiện những tình huống, sự kiện làm trì hoãn hoặc không thể THA được nữa. Do đó, pháp luật cũng sẽ quy định những trường hợp phải hoãn THA, tạm đình chỉ THA hoặc đình chỉ THA. Khi quyết định THA được thực hiện trên thực tế, sẽ làm chấm dứt quá trình THA và cơ quan có thẩm quyền sẽ xác nhận kết quả THA. Xác nhận kết quả THA là trách nhiệm của cơ quan THADS để làm căn cứ pháp lý cho việc xác nhận người phải THA đã hoàn thành nghĩa vụ chấp hành án của mình. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của thủ tục thi hành án dân sự 1.3.1. Hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự Sự ảnh hưởng của việc xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật ảnh hưởng đến việc thi hành và áp dụng pháp luật trong THADS, trực tiếp là các thủ tục THADS, cụ thể thể hiện ở chất lượng xây dựng và ban hành pháp luật. Việc hoạch định chính sách pháp luật được thực hiện khoa học, hợp lý thì nhà nước sẽ có cung cấp bộ công cụ hữu ích để thực thi có hiệu lực. Ngược lại, một khi chất lượng xây dựng chưa tốt thì sẽ vướng mắc/ bất cập về một hệ thống pháp luật trong việc áp dụng THADS. Hệ thống văn bản pháp luật chính là công cụ đặc biệt quan trọng của thủ tục THADS. Vì khi hệ thống pháp luật văn minh đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn thi hành thủ tục THADS và hợp với văn hóa tập quán quốc gia và thông lệ quốc tế, thì việc tuyên truyền, giải thích cũng như việc áp dụng thực hiện sẽ thuận lợi hơn. Nói như thế để thấy rằng, chất lượng hệ thống pháp luật ảnh hưởng mạnh mẽ 16 tới việc quy định của pháp về thủ tục THADS. Đồng thời, cũng từ đó nó góp phần quyết định tới hiệu quả và hiệu lực pháp luật. Từ lịch sử thực tiễn pháp luật ở Việt Nam, có khá nhiều văn bản pháp luật ban hành song chưa phù hợp với qui luật phát triển thực tiễn khách quan, chưa thống nhất và đồng bộ. Có khi nhiều văn bản pháp luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí phải được thay thế bằng văn bản khác, vì nếu để nguyên không những không thực hiện được trong thực tế mà còn gây thiệt hại cho đất nước. 1.3.2. Trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của chấp hành viên trong thi hành án dân sự Để bảo đảm thực hiện thủ tục THADS, bên cạnh yếu tố pháp luật về THADS thì yếu tố con người trong tổ chức THA hết sức quan trọng, được xác định là yếu tố then chốt trong cơ quan THADS, là hệ thống bộ máy tổ chức, trong cơ chế vận hành và những hạn chế, yếu kém về năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ. Những cản ngại này phần nhiều có nguồn gốc từ chính sách, cơ chế chồng chéo, thiếu phù hợp và nhất là từ chính bản thân con người ở trong hệ thống cơ quan THADS. Quan hệ giữa thủ tục THADS và người dân là quan hệ tương hỗ, mà trong đó Chấp hành viên, cán bộ người làm công tác THA những “công bộc của nhân dân” có trách nhiệm quản lý công việc của Nhà nước, giữ gìn bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu của nhân dân trên cơ sở những quy định của pháp luật. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải nâng cao trách nhiệm công vụ của đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ người làm công tác THA. Phải xây dựng đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ người làm công tác THA có tính chuyên nghiệp cao, có đủ trình độ, có kỹ năng để triển khai những quyết định THA và ý thức chuyên nghiệp trong thi hành thủ tục THADS. Thực tiễn cũng đã cho thấy: trong rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, chính sự yếu kém và cửa quyền hoặc vô trách nhiệm của một bộ phận Chấp hành viên, cán bộ người làm công tác THA đã làm cho quá trình giải quyết THA chậm và án tồn đọng gia tăng ảnh hưởng đến quyền lợi của người THA. Vì vậy cần tích cực xây dựng bộ máy hành chính và Chấp hành viên, cán bộ người làm công 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan