BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ
THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
HOÀNG THỊ LỢI
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ
THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
HOÀNG THỊ LỢI
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ
rõ ràng. Những kết quả khoa học của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Lợi
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy giáo, cô
giáo trong Khoa sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội, những người đã dạy dỗ,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS Đặng Vũ Huân người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo về phương pháp làm việc, nghiên cứu cho tôi và giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã luôn giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và viết báo cáo này. Dù đã có
nhiều cố gắng, tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn
thành luận văn. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
Tác giả
Hoàng Thị Lợi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG
THANH TOÁN NỢ THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN ...........................................7
1.1. Khái quát về phá sản, phục hồi và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ...........................................................7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản .................................................................7
1.1.1.1. Khái niệm phá sản ..........................................................................................7
1.1.1.2. Đặc điểm của phá sản ....................................................................................9
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ..........................................................................10
1.1.2.1. Khái niệm phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ ...................................................................................................10
1.1.2.2. Đặc điểm của phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ .............................................................................................13
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ...............................................................15
1.1.3.1. Khái niệm thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ ......................................................................................15
1.1.3.2. Đặc điểm của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ ......................................................................................18
1.1.4. Các khía cạnh kinh tế, xã hội liên quan đến phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ .............................................21
1.1.4.1. Về khía cạnh kinh tế .....................................................................................21
1.1.4.2. Về khía cạnh xã hội ......................................................................................22
1.2. Sự cần thiết, nội dung và ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản .........22
1.2.1. Sự cần thiết thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp ...............22
1.2.2. Nội dung thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ .............................................................................................24
1.2.3. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ ......................................................................................28
Tiểu kết Chương 1 .....................................................................................................30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM VỀ
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP MẤT
KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA ........................................................32
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ở Việt Nam hiện nay ......................32
2.1.1. Quy định về việc có hay không phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ..........................................................................32
2.1.2. Quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ ......................................................................................33
2.1.2.1. Tiêu chí doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ và thẩm quyền của
Tòa án mở thủ tục phá sản - cơ sở xem xét mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp ...........................................................................................33
2.1.2.2. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ..........................................................................35
2.1.2.3. Cơ sở về sự đồng thuận của các chủ nợ và nội dung phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ..............38
2.1.2.4. Tổ chức thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp .............................................................................................................41
2.1.2.5. Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ..................45
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ..............45
2.2.1. Khái quát tình hình hoạt động và phát triển doanh nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa ....45
2.2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ tại Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa .................................................................................................................48
Tiểu kết Chương 2 .....................................................................................................53
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ ....55
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ......................................55
3.1.1. Bảo đảm tính khả thi của Luật Phá sản với điều kiện, tình hình kinh tế
đất nước trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ...................................................................................................................55
3.1.2. Bảo đảm để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể thực hiện
hiệu quả phương án phục hồi đang được coi là một mục tiêu quan trọng của
pháp luật phá sản hiện đại ........................................................................................56
3.1.3. Đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá
trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản .............................................................59
3.1.4. Bảo đảm tối đa quyền lợi của người lao động ................................................60
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật phá sản về thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ..............................................60
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật .................................................60
3.2.2. Giải pháp quy định hỗ trợ Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
phục hồi hoạt động kinh doanh .................................................................................63
Tiểu kết Chương 3 .....................................................................................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................69
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
DN
: Doanh nghiệp
DNQLTLTS
: Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
HTX
: Hợp tác xã
LPS
: Luật Phá sản
LTHADS
: Luật Thi hành án dân sự
QTV
: Quản tài viên
TAND
: Tòa án nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Song hành với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, tình trạng phá
sản của các doanh nghiệp là hậu quả không thể tránh khỏi của quá trình cạnh tranh
gay gắt, đồng thời, đây cũng là phương thức để doanh nghiệp (DN) được rút lui
khỏi thị trường khi mục tiêu kinh doanh không đạt được. Với nhiều lý do khác
nhau, doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng không còn khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn, các khoản lương của công nhân trong nhiều tháng liền và đứng
trước nguy cơ phá sản. Việc giải quyết hậu quả đó không phải là vấn đề riêng của
một cơ quan, tổ chức, mà đó là nhiệm vụ của nhiều chủ thể liên quan và xảy ra ở bất
kỳ quốc gia nào. Chế định phá sản nhằm mục tiêu bảo vệ và gìn giữ một môi trường
kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh, tạo điều kiện cho những doanh
nghiệp thua lỗ, không có khả năng thanh toán phục hồi hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc có thể rút khỏi thị trường một cách hợp pháp. Cũng như các quốc gia
trên thế giới, Nhà nước Việt Nam luôn đặt ra nhiệm vụ giải quyết tình trạng thua lỗ,
phá sản trên cơ sở bảo đảm môi trường kinh doanh hợp pháp và lành mạnh cho các
chủ thể tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Pháp luật phá sản trên thế giới được xây dựng theo hai hướng khác nhau. Xu
hướng thứ nhất là tập trung vào chủ thể không có khả năng thanh toán nợ đến hạn,
tức là việc cứu các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, bảo
đảm việc làm cho người lao động thông qua việc phục hồi doanh nghiệp. Xu hướng
thứ hai là hướng vào bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Trong điều
kiện kinh tế hiện nay, pháp luật phá sản thế giới có xu hướng kết hợp hai mục tiêu
này, tức là pháp luật phá sản không những bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ nợ mà quyền lợi của con nợ cũng được đảm bảo một cách tối ưu. Vì vậy, nhiều
quốc gia trên thế giới đang tiến hành cải cách pháp luật phá sản theo hướng không
chỉ nhằm tạo ra một quy trình để doanh nghiệp con nợ thực hiện an toàn việc phá
sản, mà bên cạnh đó, cũng quy định những trình tự, thủ tục hợp pháp nhằm cứu vãn
các doanh nghiệp đang đứng bên bờ phá sản có khả năng phục hồi hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
1
Luật Phá sản (LPS) doanh nghiệp của Việt Nam lần đầu tiên được ban hành
năm 1993, sau đó được thay thế bằng Luật Phá sản năm 2004, tuy nhiên, sau hơn 10
năm thi hành, việc hiện thực hóa mục tiêu ban hành Luật Phá sản năm 2004 không
thành công như mong đợi, cả nước chỉ có 01 vụ được thực hiện thủ tục tuyên bố phá
sản thành công. Cho nên, ngày 19/6/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản năm
2014, Luật này đã quy định riêng một chương (Chương VII) về thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh với những nội dung mới thực sự cần thiết và quy trình, thủ tục
chặt chẽ, bao quát các trình tự thực hiện với mục tiêu “tạo một cơ hội cho doanh
nghiệp có điều kiện để phục hồi, tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh”.Việc phục
hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là nhằm tạo
ra những cơ hội, điều kiện để những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể
vượt qua trạng thái mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, tránh phải đi đến kết cục là
bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp được phục hồi sẽ đảm bảo lợi ích
của chủ nợ và những người có liên quan, đảm bảo việc làm cho người lao động, duy
trì trật tự xã hội, làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp.
Trên cơ sở các phân tích ở trên, với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về trình tự,
thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
nợ, lâm vào tình trạng phá sản và góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật của phương thức này, nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
theo pháp luật phá sản Việt Nam từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh
Hóa” để làm để nghiên cứu và thực hiện Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luật Phá sản 2014 được thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 19/6/2014, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2015 thay thế LPS 2004. Có thể nói, trong bối cảnh hiện nay, việc
ban hành LPS 2014 là rất kịp thời và có ý nghĩa quan trọng khi Đảng và Nhà nước
ta chủ trương thực hiện Đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của các loại hình doanh nghiệp.
Trong các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản thời gian qua, đã có
một số công trình nghiên cứu liên quan đến phục hồi hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như:
2
- Bùi Thị Dung Huyền (2010), “Tìm hiểu các quy định của Luật Phá sản
năm 2004 về thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản và một số kiến nghị” [12].
- Nguyễn Thị Hường (2005), “Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản theo Luật Phá sản 2004” [11].
- Trần Minh Tiến (2007), “Thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ trong
Luật Phá sản Việt Nam - Những vẫn đề lý luận vào thực tiễn” [38].
- Đinh Thị Thanh Nga (2007), “Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng bị phá sản” [13].
- Trần Thị Thu Hà (2019)“Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản Việt Nam”, Luận án Tiến
sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội.Luận án là công trình khoa học nghiên cứu
chuyên sâu pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu của luận án góp
phần bổ sung những vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ; cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để
các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong hoàn thiện pháp luật.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu ở trên đã nêu lên một cách khái quát
việc phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản năm 2014;
trình tự, thủ tục phục hồi doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành với
những vướng mắc, bất cập khi áp dụng vào thực tiễn áp dụng tại Việt Nam. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật Việt Nam hiện hành
qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Đề tài Luận văn về cơ bản là
không có sự trùng lặp, được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa kết
quả nghiên cứu của các công trình đã được nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện
vấn đề này trong lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp
luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh
3
toán nợ và qua thực hiện pháp luật tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Luận văn
đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật phá sản về trình tự, thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ở
Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu, phân tích sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận pháp luật phá sản
về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ; xác định những nội dung đặc thù trong thủ tục này.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật phá sản về thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ ở
Việt Nam hiện nay và thực trạng thực hiện pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ tại Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa.
- Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định của pháp luật và
thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ cũng như các quy định pháp luật liên
quan đến thủ tục này. Doanh nghiệp được hiểu là doanh nghiệp nói chung quy định
tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 (không bao gồm hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã
và cá nhân, hộ kinh doanh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu khái niệm, bản chất và các khía cạnh
kinh tế, xã hội liên quan đến phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ; sự cần thiết, ý nghĩa và nội dung của thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá
sản Việt Nam...
4
- Về không gian:Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo
pháp luật phá sản Việt Nam tại Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
- Về thời gian: Các vấn đề nghiên cứu được thực hiện từ khi Luật Phá sản
năm 2014 có hiệu lực thi hành đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện luận văn này bao gồm:
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh và đánh giá,… Bằng các
phương pháp nghiên cứu này, luận văn trước hết sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp để nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về phục hồi doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, lâm vào tình trạng phá sản ở Chương 1, chỉ ra
vướng mắc, hạn chế trong thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật tại
Chương 2.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá kết hợp
với phương pháp dự báo để đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản ở Việt Nam hiện nay đối với Chương 3.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn được hoàn thành sẽ có một số đóng góp mới trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn.
- Về mặt lý luận: Luận văn là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách
toàn diện, có hệ thống về pháp luật phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản ở Việt Nam theo Luật Phá sản năm 2014. Kết quả nghiên cứu của luận văn chứa
nhiều thông tin pháp lý có giá trị tham khảo tốt đối với hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy, học tập cũng như hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phục hồi
doanh nghiệp nói riêng và pháp luật phá sản nói chung.
- Về thực tiễn: Luận văn góp phần thu hút thêm sự quan tâm của các cơ quan
Nhà nước và xã hội đối với trách nhiệm phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ; nâng cao hiểu biết của các chủ thể liên quan
trong quá trình tố tụng trên cả ba phương diện: lý luận, thực trạng quy định và thực
tiễn thực hiện, giải pháp cho vấn đề.Ngoài ra, góp phần hoàn thiện pháp luật, chính
5
sách về phá sản; góp phần hạn chế, giải toả những vướng mắc về pháp lý, thực tiễn
áp dụng pháp luật về phá sản trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục từ ngữ viết tắt, nội dung luận văn được bố cục thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản
Chương 2: Thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam về phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ và thực tiễn thực hiện tại
Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam
về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ
THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Khái quát về phá sản, phục hồi và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản
1.1.1.1. Khái niệm phá sản
Từ xa xưa, khi con người biết mua bán trao đổi hàng hóa thì cũng xuất hiện
tình trạng không trả được nợ, phương cách giải quyết tình trạng này bởi vậy cũng đã
rất cổ xưa như chính lịch sử sinh hoạt kinh tế của các tộc người. Khi xã hội chuyển
sang thời kì tư bản chủ nghĩa, sản xuất công nghiệp phát triển, hàng hóa phong phú,
dồi dào thì các hoạt động kinh doanh thương mại cũng trở nên sôi động hơn, sự
cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, kéo theo đó là hiện tượng “phá sản” cũng ngày
càng xuất hiện phổ biến hơn. Phá sản được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau và có
nhiều thuật ngữ được sử dụng như: phá sản, vỡ nợ, khánh tận...
Thuật ngữ “ phá sản” được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ hàng ngày và
trong khoa học pháp lý. Nhưng trước khi Luật Phá sản (LPS 2014) ra đời, thì trong
các văn bản pháp luật về phá sản chưa có giải thích ý nghĩa của thuật ngữ này, mà
lại dùng thuật ngữ “tình trạng phá sản” để giải thích trường hợp một doanh nghiệp
không trả được các món nợ đến hạn hoặc không còn khả năng vốn để tiếp tục duy
trì hoạt động. LPS 2014 đã đưa ra một định nghĩa pháp lý về phá sản, theo đó, thuật
ngữ phá sản đã được sử dụng rộng rãi trong cả khoa học pháp lý và cả trong đời
sống thực tế. LPS 2014 ra đời đã giải thích đầy đủ và rõ nghĩa thuật ngữ này. Tại
khoản 2 Điều 4 LPS 2014 quy định: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá
sản” [31]. Theo đó phá sản được xem xét dưới hai góc độ kinh tế và pháp luật.
- Dưới góc độ kinh tế:Thuật ngữ “phá sản” bắt nguồn từ chữ “ruin” trong
tiếng La tinh, có nghĩa là “sự khánh tận”. Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối
giữa thu và chi của chủ thể kinh doanh mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy
là tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.Ở Việt Nam, thuật ngữ
7
này được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc do người Pháp mang sang Việt Nam cùng
với quá trình thực dân hoá.Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuật ngữ này
đường như không được biết đến. Pháp luật phá sản và thuật ngữ phá sản chỉ thực sự
được sử dụng trở lại kể từ khi có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế sang cơ chế thị
trường theo đó hiện tượng phá sản dưới tác động của cạnh tranh trở thành hiện
tượng bình thường và tất yếu.Như vậy, khi nói đến một chủ thể kinh doanh bị phá
sản, xem xét dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu rằng, chủ thể kinh doanh đó đã làm ăn
thua lỗ, tạo ra những khoản nợ mà không thể chi trả được. Chủ thể đó đã lâm vào
tình trạng tài chính không thể giải quyết được để có thể tiếp tục đứng vững trên
thương trường. Đối với một cá nhân, tình trạng này còn gọi là “vỡ nợ”, tức là cá
nhân đó không thể trả được các khoản nợ mà mình đã tạo ra. Tuy nhiên, sự tác động
của phá sản không phải bao giờ cũng mang ý nghĩa tiêu cực. Xét về mặt kinh tế, bản
thân phá sản là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu” lại nền kinh tế, góp phần
duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh
tranh ngày càng nghiệt ngã.
- Dưới góc độ pháp lý: Phá sản được nhìn nhận là một trình tự, thủ tục tố
tụng, đó là toàn bộ các giai đoạn của việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối
với chủ thể mắc nợ. Hay nói cách khác, trình tự, thủ tục giải quyết phá sản tương tự
như trình tự, thủ tục khởi kiện tại Tòa án, vì phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các
bước, các giai đoạn để giải quyết một vụ việc. Ở đây, chủ thể kinh doanh sẽ có thể
được phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc chấm dứt hoạt động kinh doanh, tùy
thuộc vào tình trạng tài chính và yêu cầu của chủ nợ.Như vậy, khái niệm phá sản
theo LPS 2014 được hiểu dưới cả hai góc độ kinh tế (mất khả năng thanh toán) và
pháp lý (được thực hiện thông qua thủ tục phá sản và do Tòa án nhân dân ra quyết
định tuyên bố phá sản). Một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ đã
đến hạn thì DN đó chưa chắc đã bị phá sản và cũng chưa gọi là DN phá sản. Chỉ khi
trải qua thủ tục giải quyết vụ việc phá sản và bị Tòa án nhân dân ra quyết định phá
sản, DN đó mới chính thức bị phá sản.
Về bản chất, phá sản xuất phát từ tình trạng mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn phải trả của DN con nợ có liên quan. Do đó, nó tạo nên nghĩa vụ
của DN con nợ và quyền truy đòi nợ của các chủ nợ. Để giải quyết tình trạng này,
giữa chủ nợ và DN con nợ đã cùng nhau tìm ra những phương thức giải quyết khác
8
nhau: hoặc là tự giải quyết thông qua thương lượng, đàm phán, hoặc là với sự giúp
đỡ của một cá nhân hoặc tập thể nào đó, đôi khi là chính quyền địa phương nơi DN
con nợ cư trú hay nơi DN con nợ tiến hành các hoạt động kinh doanh. Quá trình giải
quyết “phá sản”, đảm bảo nghĩa vụ của chủ nợ và “giải thoát” trách nhiệm cho DN
con nợ yêu cầu phải có sự can thiệp của pháp luật để hài hòa lợi ích của cả hai.
1.1.1.2. Đặc điểm của phá sản
Một là, phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Theo đó tất cả các chủ nợ liên
kết với nhau để giải quyết vấn đề công nợ của những con nợ, vốn là các chủ thể rơi
vào trạng thái phá sản, thất bại trong việc hoàn lại các khoản vay. Các chủ thể này
có thể vẫn còn tài sản để thanh lý bù đắp cho các khoản vay nhưng cá biết có những
chủ thể không còn tài sản gì để bù đắp. Sở dĩ nói phá sản là một thủ tục đòi nợ tập
thể vì các chủ nợ của DN mất khả năng thanh toán, trong quá trình giải quyết vụ
việc phá sản, không tự xé lẻ ra để đòi nợ riêng. Họ cùng tham gia vào một thiết chế
chung để tiến hành đòi nợ hay đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là hội nghị chủ nợ.
Ngoài ra, khi giải quyết vấn đề phá sản của DN, thì toàn bộ tài sản của DN đó được
bán thanh lý, đưa vào quỹ chung và trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất
định mà luật phá sản quy định. Do vậy, trong bất cứ trường hợp nào, phá sản cũng
là một thủ tục mang tính tập thể cao.
Hai là, phá sản không chỉ nhắm đến mục đích đòi nợ, mà còn chú trọng đến
việc giúp đỡ để DN con nợ có thể phục hồi hoạt động kinh doanh. Xu hướng chung
của pháp luật phá sản trên thế giới là chú trọng giải quyết hai vấn đề cơ bản: Phục
hồi hoạt động kinh doanh của DN mất khả năng thanh toán và thanh lý tài sản của
DN phá sản để bù đắp các khoản nợ. Phục hồi hoạt động kinh doanh của DN mất
khả năng thanh toán là thủ tục rất quan trọng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hết sức
để giúp DN đó thoát khỏi tình trạng khó khăn, cải thiện được tình trạng nợ nần và
từng bước thoát khỏi thảm cảnh phá sản. Thực tế thì bất kỳ Nhà nước nào cũng
quan tâm đến việc phục hồi hoạt động DN, bởi suy cho cùng, DN thoát khỏi tình
trạng phá sản thì quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mới không bị đe dọa,
môi trường đầu tư, kinh doanh của Nhà nước vì thế mà cũng được cải thiện.
Ba là, kết thúc thủ tục phá sản thường là sự chấm dứt tồn tại của một chủ thể
kinh doanh. Phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, theo đó, các chủ nợ và người có
quyền, nghĩa vụ liên quan tiến hành thủ tục tố tụng tư pháp để yêu cầu Tòa án can
9
thiệp nhằm thu hồi các khoản nợ của mình. Có những trường hợp DN phục hồi các
hoạt động kinh doanh một cách thành công, nhưng nhìn chung, hậu quả pháp lý của
phá sản là các DN liên quan bị chấm dứt tồn tại, toàn bộ tài sản của DN đó bị thanh
lý để trả cho các chủ nợ. Trong trường hợp này, phá sản có ý nghĩa khá tiêu cực.
Bốn là, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp và khá
phức tạp. Điều này thể hiện ở việc tòa án phải tham gia vào hầu hết các thủ tục giải
quyết phá sản, từ ra quyết định mở thủ tục phá sản đến giám sát hoạt động của các
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, rà soát, xem xét phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh, xử lý tài sản của doanh nghiệp có tranh chấp. LPS năm 2014 ra
đời đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật ở Việt Nam, đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ nợ và doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
1.1.2.1. Khái niệm phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì phục hồi có nghĩa là khôi phục cái đã mất hoặc
giảm sút đi. Do đó, phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ cũng hướng đến mục tiêu lý tưởng là tạo cơ hội cho doanh nghiệp còn
khả năng kinh doanh, bảo đảm giải quyết được các khoản nợ mất khả năng thanh
toán tại thời điểm mở thủ tục phá sản. Pháp luật về phá sản của Việt Nam chưa xác
định rõ nội hàm về phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ.
Từ khi Luật Phá sản doanh nghiệp lần đầu tiên ra đời năm 1993 sử dụng cụm
từ “tổ chức lại kinh doanh”, “tổ chức lại hoạt động kinh doanh”; đến LPS năm 2004
sử dụng cụm từ “phục hồi hoạt động kinh doanh” để quy định về một phương thức
trong LPS. LPS năm 2014 tiếp tục kế thừa LPS năm 2004 bằng việc quy định đầy
đủ, xác thực hơn về “phục hồi hoạt động kinh doanh” tại Chương VII. Dưới góc độ
khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu pháp luật phá sản cũng đưa ra các định nghĩa
về phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo
hướng bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Cụ thể, theo
10
tác giả Bùi Thị Dung Huyền, “phục hồi là làm cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp… trở lại được như trước” [12]. Đây là một định nghĩa theo nghĩa chung nhất
gắn với định nghĩa về phục hồi trong Từ điển tiếng Việt như đã nêu ở trên, qua đó,
bảo đảm cho doanh nghiệp sau phục hồi được quay lại trạng thái ổn định trước đây.
Theo tác giả Ngô Cường, “phục hồi là đem lại cho con nợ đang trong tình trạng khó
khăn những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh chứ không phải là thanh toán
con nợ đó”. Định nghĩa này tiếp cận khái niệm phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đối lập với thủ tục thanh toán (trong thủ tục phá sản), là giải pháp bảo
đảm cho doanh nghiệp có thể tiếp tục tồn tại và kinh doanh, qua đó sẽ giải quyết
được phần nợ của doanh nghiệp.
Theo Từ điển Luật học xuất bản năm 2006 định nghĩa: “Phục hồi doanh
nghiệp mắc nợ trên phương diện pháp lý là một thủ tục được mở cho mọi doanh
nghiệp của luật tư nằm trong tình trạng ngừng thanh toán các khoản nợ nhằm cho
phép cứu vãn doanh nghiệp, duy trì hoạt động của các doanh nghiệp và việc làm cũng
như hoàn trả các khoản nợ” [45]. Định nghĩa này đầy đủ hơn so với hai khái niệm
nêu trên, bao gồm cả hai yếu tố cơ bản của phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ, đó là việc phục hồi doanh nghiệp và trả nợ.
Theo xu hướng pháp luật hiện nay, tác giả Dương Hương Sơn cho rằng, phục
hồi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là một mục tiêu lớn trong vấn đề lập
pháp đối với pháp luật phá sản hiện đại; xúc tiến phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản (mất khả năng thanh toán) là mục tiêu và là xu
thế chung của pháp luật phá sản hiện đại trên thế giới. Luật phá sản hiện đại có xu
thế vượt trội là hướng đến việc tái tổ chức các doanh nghiệp bị mất khả năng thanh
toán hơn là tuyên bố phá sản [34].
Mặc dù quan điểm của các nhà nghiên cứu có thể khác nhau khi đặt vấn đề
nào lên trước: (i) Phục hồi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hay (ii) Thanh lý
tài sản để bảo đảm quyền lợi các bên tại thời điểm xem xét phá sản doanh nghiệp.
Về cơ bản, các quốc gia sẽ đặt lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia lên trước, do đó, có
thể thay đổi chính sách phá sản nghiêng về một phía hơn hay cân bằng giữa hai vấn
đề này. Bởi vậy, việc xác định khái niệm phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ nên được hiểu đầy đủ theo hai yếu tố cơ bản đã
11
được định nghĩa trong Từ điển Luật học xuất bản năm 2006 [45]. Theo đó, phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ (theo thủ tục
phá sản) là một thủ tục tư pháp khôi phục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
hướng đến mục tiêu doanh nghiệp đó được phục hồi và hoàn trả các khoản nợ đã tới
hạn trước đây của các chủ nợ, người lao động.
Chúng ta cần phân biệt chủ thể của hoạt động phục hồi (doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ) có giống doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ là chủ
thể phá sản. Nếu như về mặt pháp lý, LPS không có quy định phân định hai loại chủ
thể này, thì về mặt lý luận, hai loại chủ thể này cũng có những điểm giống và khác
biệt cần phải làm sáng tỏ.
Về bản chất, DN là chủ thể cần phục hồi xuất phát từ chính đặc điểm mất
khả năng thanh toán nợ và được tiến hành thủ tục phá sản,đồng thời có những đặc
trưng riêng (phân biệt với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ được Toà án ra
phán quyết phá sản) là DN có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh trên cơ sở
những yếu tố/phương án hiệu quả. Có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh
thường sẽ dẫn đến khả năng sinh lợi và trên cơ sở đó, DN có thể thanh toán nghĩa
vụ nợ của mình đã có trước đây. Do đó, đặc điểm này là một tiêu chí cơ bản để phân
biệt giữa DN phục hồi hoạt động kinh doanh với DN mất khả năng thanh toán nợ là
chủ thể phá sản. Khoản nợ mà DN mất khả năng thanh toán có thể/có khả năng
thanh toán trong tương lai hoặc có thể được xóa bỏ, thay thế bằng hình thức khác.
Vấn đề cốt lõi nhất mang tính truyền thống gắn với sự cần thiết và cũng là mục đích
hướng đến của các chủ nợ trong thủ tục phá sản chính là việc bảo đảm thanh toán
các khoản nợ.
Các hình thức cụ thể của thanh toán nợ như là một phương thức giải quyết
phục hồi hoạt động kinh doanh của DN sẽ được phân tích ở nội dung dưới đây. Sự
đồng thuận giữa các bên chủ nợ, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, người lao
động về việc phục hồi hoạt động kinh doanh của DN mất khả năng thanh toán nợ.
Đây là điều kiện đủ để thực hiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN.
Điều này cũng có nghĩa là phục hồi hoạt động kinh doanh của DN khác biệt so với
hoạt động kinh doanh thông thường của DN khi giữa một bên là có ý chí chung của
các bên chủ thể nêu trên và một bên là ý chí riêng của DN.
12
- Xem thêm -