VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ ĐỊNH
THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ
Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ ĐỊNH
THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ Ở VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học viện khoa
học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ ĐỊNH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ
XÉT XỬ................................................................................................................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm các chỉ số của tình hình tội phạm.......................................... 6
1.2. Khái niệm, ý nghĩa của thống kê các tội danh đã xét xử....................................... 15
1.3. Mối quan hệ giữa thống kê các tội danh đã xét xử và tình hình tội phạm...........20
1.4. Nội dung thống kê các tội danh đã xét xử.............................................................. 23
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO......................................................................27
2.1. Cơ sở của thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân hiện
nay....................................................................................................................................27
2.2. Thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao
37
2.3. Đánh giá khái quát về thực trạng thống kê xét xử các vụ án hình sự của ngành
Kiểm sát nhân dân.......................................................................................................... 55
CHƯƠNG 3 HOÀN THIỆN THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH ĐÃ XÉT XỬ TRONG
THỜI GIAN TỚI............................................................................................................... 62
3.1. Quan điểm hoàn thiện thống kê tội danh đã xét xử...............................................62
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thống kê các tội danh đã xét xử trong thời
gian tới.............................................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
TAND
: Tòa án nhân dân
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
NXB
: Nhà xuất bản
THTP
: Tình hình tội phạm
TKTP
: Thống kê tội phạm
TKHS
: Thống kê hình sự
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm theo từng năm, từng địa phương (từ năm
2015 đến năm 2019)
Bảng 2.2. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương (từ năm 2015
đến năm 2019)
Bảng 2.3. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019
Biểu đồ 2.4. Số vụ án, bị cáo xét xử theo một số chương của BLHS
Bảng 2.5. Số vụ án, bị cáo đã xét xử theo nhóm, chương của BLHS
Bảng 2.6. Tỷ lệ số bị cáo đã xét xử một số tội danh từ năm 2015 đến năm 2019
Bảng 2.7. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Bảng 2.8. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến
năm 2019
Bảng 2.9. Chỉ số tội phạm theo từng địa phương (Xếp theo thứ tự chỉ số tội phạm
giảm dần)
Biểu đồ 2.1. Số vụ án, bị cáo xét xử sơ thẩm 5 năm theo từng địa phương (từ năm
2015 đến năm 2019).
Biểu đồ 2.2. Động thái của tình hình tội phạm từ năm 2015 đến năm 2019
Biểu đồ 2.3. Tỷ trọng xét xử sơ thẩm các tội phạm theo chương (nhóm tội) từ năm
2015 đến 2019
Biểu đồ 2.4. Động thái tình hình tội phạm của một số tội danh theo bị cáo từ năm
2015 đến 2019
Biểu đồ 2.5. Hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm từ năm 2015 đến năm
2019
Biểu đồ 2.6. Tỷ trọng hình phạt áp dụng đối với các loại tội phạm trong 5 năm (Từ
năm 2015 đến năm 2019)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thống kê tội phạm là cơ sở quan trọng trong việc đề ra những định hướng,
giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm. Số liệu thống kê hình sự, thống kê tội
phạm là cơ sở khách quan để đánh giá về chất lượng hoạt động không những của
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà còn cả các cơ quan tư pháp nói chung
(công an, kiểm sát, toà án), đánh giá hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng,
chống được triển khai; là cơ sở để đánh giá xây dựng, hoạch định chính sách phát
triển kinh tế- xã hội, xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự; xây dựng, củng cố
và kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp. Kết quả của
công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm trong ngành Kiểm sát nhân dân còn
phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo VKSND các
cấp và tham mưu, đề xuất với các cơ quan của Đảng và Nhà nước những nội dung
quan trọng góp phần xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Các cơ quan tư pháp hình sự từ lâu đã nhận thức và đánh giá vai trò quan
trọng của TKHS, TKTP trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
thông qua chức năng và phạm vi điều chỉnh của TKHS, TKTP. Trong thực tế đấu
tranh phòng, chống tội phạm luôn chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu lập pháp chỉ có
thể tiếp cận được THTP thực tế. Tức là ở mọi thời điểm, THTP luôn luôn ở trong
tình trạng phân đôi thành hai phần sáng - tối hay ẩn - hiện khác nhau. Trong nghiên
cứu khoa học về tội phạm học còn được gọi là “Phần hiện của THTP” và “Phần ẩn
của THTP”. Phần hiện của THTP là số tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan
chức năng phát hiện và xử lý. Trên thực tế, số tội phạm này được xác định qua số
liệu thống kê của cơ quan chức năng đó là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án). Hệ thống số liệu về THTP thu thập được dù ở các
mức độ khác nhau, thời gian và không gian có khác nhau song vẫn là những số liệu
nền tảng, vừa hàm chứa hình ảnh thu nhỏ của THTP, vừa phản ánh kết quả cụ thể
của công việc đấu tranh phòng, chống tội phạm của toàn xã hội mà trong đó các cơ
1
quan tiến hành tố tụng hình sự giữ vai trò nòng cốt. Đồng thời, đây cũng là cơ sở
hiện thực để nghiên cứu phần còn lại - Phần ẩn của THTP và nghiên cứu các mặt
khác của đời sống pháp lý. Nhận thấy vai trò của thống kê tội phạm trong đấu tranh
phòng và chống tội phạm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp
và pháp luật nhằm tăng cường công tác thống kê tội phạm. Đặc biệt là Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: “Nâng cao chất lượng công tác
thống kê tư pháp, nghiên cứu việc thống nhất vào một cơ quan thực hiện công tác
này”. Luật hóa các chủ trương trên, Điều 34 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy
định: “VKSND có trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan
hữu quan trong việc thống kê hình sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối
hợp với Viện kiểm sát nhân dân trong việc thống kê tội phạm”. Thời gian qua với
vai trò là cơ quan chủ trì, VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến
hành tố tụng cùng cấp thu thập, tổng hợp các số liệu thống kê phản ánh tình hình tội
phạm, kết quả giải quyết và thi hành án hình sự.
Thống kê hình sự, thống kê tội phạm là hoạt động thu thập, tổng hợp, phân
tích tình hình tội phạm và kết quả xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng
trên phạm vi toàn quốc hay ở một vùng lãnh thổ - hành chính nào đó, trong một
khoảng thời gian nhất định. Nên kết quả của hoạt động thống kê hình sự, thống kê
tội phạm là phương tiện chủ yếu để đánh giá về tình hình tội phạm và kết quả xử lý
tội phạm. Qua số liệu thống kê có thể thấy được tình hình diễn biến của tội phạm,
mức độ phạm tội, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, đồng thời có thể tìm
ra những giải pháp thích hợp để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, TKTP hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế như: Chưa xây
dựng được bộ chỉ số chung (chỉ tiêu) để thống nhất đánh giá về tình hình tội phạm,
mỗi cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng các tiêu chí về số liệu thống kê thuộc phạm
vi nhiệm vụ của mình để đánh giá nên có sự nhận định đánh giá khác nhau về tình
hình tội phạm. Hơn nữa, hệ thống các chỉ tiêu thu thập số liệu TKTP hiện nay chưa
2
được đầy đủ; biểu mẫu thu thập chỉ tiêu số liệu thống kê cồng kềnh, phức tạp; hiện
nay phần lớn các đơn vị vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công (đếm sổ), nên có
nhiều hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo, nhất là độ chính xác và tính kịp
thời...Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thống kê các tội danh đã xét xử ở Việt Nam
từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao” là rất cần thiết, trên cơ sở lý luận
và thực tiễn đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng hệ thống thống kê hình sự,
thống kê tội phạm hiện đại, tiên tiến nhằm thống kê được đầy đủ, chính xác, kịp thời
số liệu về kết quả xử lý tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài này
trên nhiều phương diện khác nhau, có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như:
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân
dân, tái bản năm 2011.
- Thống kê tội phạm trước những yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong tình hình mới. Đề tài khoa học cấp bộ , tháng 7 năm 2005 Chủ nhiệm Đề tài: Nguyễn Duy Hồng - Cục trưởng, thư ký đề tài Phạm Văn Được Cơ quan chủ trì: Cục Thống kê tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Kết quả điều tra TKTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm năm 2006 (Lưu
hành nội bộ) tháng 10 năm 2007 của Cục Thống kê tội phạm, VKSND tối cao.
- Nguyễn Xuân Hưởng (2012) "Vai trò của thống kê tội phạm trong đấu
tranh phòng và chống tội phạm ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thủy Quỳnh Trang - Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông
tin, VKSND TP Hồ Chí Minh “Thống kê tội phạm, thống kê hình sự - Lý luận và
thực tiễn”.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp “Cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của thống kê tư pháp và việc xây dựng, hoàn
thiện chế độ thống kê tư pháp ở Việt Nam”.
3
Các công trình nghiên cứu đã tiếp cận và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau,
tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về công tác thống kê các tội
danh đã xét xử. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ Luận
văn Thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện là nguồn tư liệu bổ ích,
phong phú để tác giả thực hiện Luận văn tốt nghiệp Cao học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về đối chiếu với thực tiễn công
tác thống kê tội phạm nói chung và thống kê các tội danh đã xét xử từ thực tiễn của
VKSND tối cao để xác định quan điểm, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của
công tác này.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên luận văn sẽ tập trung thực hiện các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Những vấn đề lý luận của thống kê các tội danh đã xét xử.
- Đánh giá khái quát thực trạng thống kê các tội danh đã xét xử từ thực tiễn
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thống kê các tội
danh đã xét xử ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động thống kê các tội danh đã xét xử sơ thẩm
và thực tiễn của công tác này ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2015 đến
năm 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các số liệu đã thống kê để
đánh giá công tác thống kê các tội danh đã xét xử sơ thẩm trong cả nước từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
4
5.1. Phương pháp lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật về đấu tranh phòng và chống tội phạm và ý nghĩa vai trò của
thống kê các tội danh đã xét xử trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Luận văn
còn dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành như lý thuyết về thống kê tội phạm, thống
kê xã hội học,... kinh tế - xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau :
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp chủ yếu được sử
dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp này được sử sụng để tiến
hành phân tích và tổng hợp các nội dung cần nghiên cứu. Ngoài ra tác giả còn sử
dụng một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, so sánh… để bảo đảm
tính khách quan của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Từ những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn
thiện lý luận về thống kê tội phạm và thống kê hình sự, xây dựng lý luận cơ bản cho
bộ môn thống kê tội phạm nhằm trang bị cho cán bộ công tác tại các cơ quan tư
pháp, nhất là đối với những cán bộ trực tiếp làm công tác thống kê tội phạm những
lý luận chung về thống kê tội phạm; xác định đúng vai trò, trách nhiệm, vị trí, tầm
quan trọng của thống kê các tội danh đã xét xử trong hoạt động thực hiện chức năng
của từng ngành nói riêng và trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm,
cũng như trong việc xây dựng các kế hoạch, chiến lược phòng chống tội phạm và
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
- Về thực tiễn:Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình học tập, giảng dạy, nghiên cứu về những vấn đề có liên quanvề
thống kê tội phạm, thống kê hình sự, thống kê tư pháp. Đồng thời luận văn cũng có
ý nghĩa thiết thực về mặt thực tiễn là khảo sát đánh giá thực trạng và đề xuất những
5
giải pháp cơ bản nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thống kê
các tội danh đã xét xử, đáp ứng yêu cầu ngày một cao.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỐNG KÊ CÁC TỘI DANH
ĐÃ XÉT XỬ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, các thông số của tình hình tội phạm
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm là một thuật ngữ đặc thù của tội phạm học. Nghiên cứu
về THTP giúp ta hiểu được bức tranh chung về tội phạm trong một khoảng thời
gian ở một không gian nhất định. Trong lịch sử phát triển của khoa học nghiên
cứu về tội phạm học có nhiều khái niệm về THTP.
Khái niệm tình hình tội phạm là một thuật ngữ khoa học và đồng thời là
một thuật ngữ được dùng trong ngôn ngữ thông dụng. Đó chính là khái niệm cơ
bản đầu tiên của khoa học tội phạm học. Cũng như mọi khái niệm khoa học khác,
khái niệm tình hình tội phạm có những chức năng như: chức năng lôgích, chức
năng nhận thức, chức năng đánh giá. Nghiên cứu về tình hình tội phạm và các
thông số về tình hình tội phạm, cho thấy có nhiều khái niệm khá tương đồng, như:
“Tình hình tội phạm là hiện tượng tâm - sinh lý xã hội tiêu cực, vừa mang tính
lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai
cấp, được thể hiện thông qua tổng thể các hành vi phạm tội cùng với các chủ thể
đã thực hiện các hành vi đó trong một thời gian và không gian nhất định” [44.
Tr10]. “Tình hình tội phạm là thực trạng và diễn biến của tội phạm đã xảy ra
trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định” (Trường Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình Tội phạm học, Nxb, CAND, Hà Nội, 2015, tr.100),... Các công
trình nghiên cứu về tội phạm học cho rằng để có cơ sở cho việc đưa ra một định
6
nghĩa về tội phạm học, trước hết cần tìm hiểu các dấu hiệu và thuộc tính của nó.
Qua nghiên cứu, tác giả đồng tình với quan điểm nghiên cứu lý luận về tình hình
tội phạm và khái niệm về tình hình tội phạm: “Tình hình tội phạm là một hiện
tượng xã hội, pháp lý - hình sự, được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp
bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội
(quốc gia) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định” [32,tr 60].
Từ khái niệm trên cho thấy, tình hình tội phạm, trước hết là một hiện tượng
xã hội - dấu hiệu này nói nên bản chất xã hội của tình hình tội phạm. Chính từ
những hành vi phạm tội do con người sống trong xã hội thực hiện, chống đối lại
toàn bộ xã hội hay một công dân, một bộ phận xã hội hoặc một bộ phận người
thống trị xã hội, mà suy cho cùng chống đối lại chính cả bản thân họ, đã hình
thành một hiện tượng xã hội; do đó, tình hình tội phạm là một hiện tượng có sự
biểu hiện tiêu cực, là mặt trái của xã hội và nó có tính độc lập tương đối. Nghiên
cứu tình hình tội phạm thể hiện dấu hiệu về không gian và thời gian của tình hình
tội phạm; xác định rõ quy mô của hiện tượng trên địa bàn một địa bàn đơn vị
hành chính và khoảng thời gian nhất định, thể hiện một giai đoạn phát triển nhất
định của nó. Hay nói cách khác, thì tình hình tội phạm, trước hết là một hiện
tương xã hội, vì nó tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc trong xã hội, có nội dung xã
hội, có nguyên nhân trong xã hội, vì với tính cách là một biểu hiện, là mặt trái của
xã hội, có mối liên hệ, quan hệ chặt chẽ, biện chứng của hiện tượng đó với các
hiện tượng xã hội khác, với các điều kiện tồn tại của xã hội. Tình hình tội phạm
thể hiện đặc điểm định lượng và định tính thể hiện trong không gian và thời gian,
cụ thể ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ - hành chính nhất định.
Tình hình tội phạm ở Việt Nam có những đặc điểm, sự thể hiện, biểu hiện
khác nhau trong các giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau. Trong đó, các nhà
nghiên cứu đã phân thành các giai đoạn cơ bản: Tình hình tội phạm ở Việt Nam
trong giai đoạn từ Cánh mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1954; giai đoạn từ
1955 đến năm 1975; giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1985; giai đoạn từ năm 1986
đến nay. Nghiên cứu các giai đoạn này cho thấy thực trạng, diễn biến, cơ cấu và
7
tính chất của tình hình tội phạm ở Việt Nam luôn gắn với những biến đổi, thay
đổi về mọi mặt diễn ra trong đời sống của xã hội nước ta. Trong đó, tình hình tội
phạm ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay chịu sự tác động rất lớn của
những biến đổi khác nhau trong đời sống xã hội, do vậy có những biến động rất
lớn, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm
và danh dự của con người chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu của tình hình tội
phạm, có một số loại tội phạm cụ thể tăng đột biến, đặc biệt là từ năm 1989 đến
năm 1993. Do có sự phát triển của cơ chế thị trường có nhiều tội phạm giảm một
cách rõ rệt và có chiều hướng triệt tiêu.
Đến năm 2020, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp; trong đó, số vụ
án về trật tự xã hội, ma túy tiếp tục tăng (nhiều vụ vận chuyển trái phép ma túy
tổng hợp với số lượng đặc biệt lớn; tội phạm hình sự có tổ chức núp bóng doanh
nghiệp, “bảo kê”, “tín dụng đen); phát hiện, bắt giữ một số vụ phạm tội có tổ
chức, xuyên quốc gia; khởi tố ”; xảy ra nhiều vụ giết người có tính chất rất côn
đồ, manh động, mất nhân tính; nhiều vụ tổ chức, môi giới cho người khác xuất
cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép; chống người thi hành nhiệm vụ
phòng, chống dịch bệnh Covid-19 gây bức xúc dư luận; vi phạm an toàn giao
thông xảy ra nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người.
Tội phạm liên quan đến tệ nạn xã hội, như: hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc
thông qua mạng internet vẫn diễn biến rất phức tạp; các tội Chứa mại dâm, Môi
giới mại dâm, Mua dâm người chưa thành niên, tăng về số vụ, phát hiện nhiều
đường dây mại dâm chuyên nghiệp, sử dụng công nghệ cao để phục vụ cho việc
mua, bán dâm; ... Trong năm 2020, một số nhóm tội phạm giảm nhiều, như: Tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tuy nhiên các thế lực thù địch trong và ngoài
nước tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân theo hướng cực đoan hơn; tội phạm tham nhũng, chức vụ
chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư công, nhiều vụ gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước (qua thực
trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm tham nhũng, Đảng, Nhà
8
nước đã đặt ra yêu cầu về đánh giá thực trạng, dự báo tình hình tội phạm tham
nhũng xảy ra trong chính các cơ quan có chức năng chống tham nhũng, cơ quan
bảo vệ pháp luật và đề ra giải pháp thiết thực, hiệu quả để phòng, chống trong
thời gian tới); tội phạm kinh tế cấu chẽ với tội phạm về trật tự xã hội; tiếp tục phát
hiện nhiều vụ buôn bán hàng giả, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới là dược liệu, trang thiết bị, vật tư y tế, tiền tệ. Cùng với sự xuất hiện đại
dịch Covid-19 đã phát sinh nhiều vụ án hình sự liên quan đến công tác phòng,
chống dịch bệnh; đáng lưu ý, một số đối tượng thuộc cơ quan chức năng đã lợi
dụng việc mua thiết bị, vật tư y tế phòng, chống dịch để thực hiện hành vi chiếm
đoạt tiền của Nhà nước gây bức xúc dư luận; nhiều đối tượng có hành vi chứa
chấp, đưa người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ
lây lan dịch bệnh.
Qua khái niệm tình hình tội phạm, ta thấy được mối quan hệ giữa hiện
tượng và bản chất nên khi nghiên cứu đặc điểm của tình hình tội phạm thì ta thấy
được giá trị lý luận và thực tiễn, từ đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn diện
tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra, nghiêm trọng về mức độ cũng như
nghiêm trọng về tính chất. Đặc điểm chung của THTP được cấu thành từ số lượng
của tất cả các tội phạm riêng lẻ đã được thực hiện trong một giai đoạn và ở một
xã hội nhất định. THTP không phải là tổng số về số học của các tội phạm mà là
tổng hợp hữu cơ, biện chứng các tội phạm đó, các yếu tố cấu thành nó có mối liên
hệ lẫn nhau và quyết định lẫn nhau. Sự thống nhất biện chứng của tất các các yếu
tố cấu thành tình hình tội phạm còn biểu hiện ở các thông số về lượng và các
thông số về chất của nó. Việc nhận thức các thông số về lượng và về chất của
THTP, việc làm sáng tỏ bản chất, các qui luật phát triển của chúng… là một trong
những yếu tố rất quan trọng của việc nghiên cứu THTP với tư cách là một hiện
tượng xã hội.
1.1.2. Các thông số (chỉ số) của tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm được biểu hiện ở các thông số về lượng và những chỉ
số về chất của tình hình tội phạm. Những thông số về lượng của tình hình tội
9
phạm là thực trạng (mức độ) và động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm;
những chỉ số về chất của tình hình tội phạm là cơ cấu và tính chất của tình hình
tội phạm. “Phần hiện của tình hình tội phạm là toàn bộ những hành vi phạm tội và
chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự ở từng
đơn vị hành chính - lãnh thổ hay trên phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời
gian nhất định và được ghi nhận kịp thời trong thống kê hình sự”. Thông qua đó,
cụ thể là các dấu hiệu, đặc tính của nó mà ta hiểu được, nhận thức được bản chất,
nội dung, nguồn gốc mối liên hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác, biết được
những thay đổi về chất, về lượng của hiện tượng đó là tình hình tội phạm về ma
túy trong đời sống xã hội, nắm bắt được mối đe dọa đối với các giá trị của đời
sống xã hội, những thiệt hại cho xã hội, kể cả chính người phạm tội và mức độ
cần thiết phải tác động đến tình hình tội phạm trên một địa bàn. Khái niệm này
bao hàm cả mặt bản chất, nghĩa là gồm quy luật của sự phạm tội và cả mặt biểu
hiện của bản chất đó.
Những thông số về lượng của THTP là mức độ và động thái diễn biến của
nó. Khi xác định số lượng các tội phạm đã được thực hiện cần phải tính tổng cộng
các số lượng sau: (1) Số lượng các tội phạm và những người bị Tòa án xét xử và
tuyên bản án buộc tội; (2) Số lượng các vụ án hình sự bị đình chỉ điều tra, truy tố vì
không chứng minh được sự tham gia của bị can trong các tội phạm đã thực hiện; (3)
Các số liệu về số lượng các tội phạm không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn);
(4) hệ số của THTP; (5) mức độ của tình hình tội phạm. [32,tr 61]
Cơ cấu của THTP là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác
nhau trong số lượng chung của chúng trong một khoảng thời gian nhất định và ở
một lãnh thổ nhất định. Các chỉ số về cơ cấu của THTP chỉ rõ đặc điểm lượng - chất
của tính nguy hiểm cho xã hội của tình hình tội phạm, chỉ số về các đặc điểm của
nó. Tính chất của THTP thể hiện ở số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất cho
xã hội trong cơ cấu của THTP cũng như ở các đặc điểm thân nhân của những người
thực hiện tội phạm. Cơ cấu và tính chất của THTP được thay đổi tùy thuộc vào các
đặc điểm cụ thể của từng giai đoạn phát triển của xã hội, ở những địa phương khác
10
nhau. Ngoài ra, khối lượng và tính chất của thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do các tội
phạm gây ra được coi là chỉ số bổ sung đặc trưng cho tình hình tội phạm. Các chỉ số
của thiệt hại có thể gắn với đặc điểm của thực trạng tình hình tội phạm, của cơ cấu
và động thái của nó.
Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến tội phạm
trong dân cư. Khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm không thể bỏ qua
chỉ số tội phạm, nhất là khi đánh giá thực trạng của tình hình tội phạm qua các
khoảng thời gian khác nhau trên một địa bàn hoặc ở các địa bàn khác nhau trong
cùng khoảng thời gian nhất định. Chỉ số tội phạm được tính theo tỷ lệ số vụ phạm
tội trên 100.000 dân [9, tr. 185].
Số liệu tội phạm đã phát hiện là số lượng tội phạm đã xảy ra trong một phạm
vi nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định mà các cơ quan chức năng đã
biết, đã thụ lý và tiến hành giải quyết theo pháp luật tố tụng hình sự.
Những nhận định về tình hình phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định
phải so sánh với chỉ số dân cư trong phạm vi nghiên cứu trong cùng một khoảng
thời gian. Bởi vì: tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật hình sự quy định, cho nên những thông số về
dân cư để so sánh phải là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi theo luật hình sự quy định. Những người không đủ năng lực trách nhiệm hình
sự hoặc không đủ độ tuổi mà luật hình qui định không được đưa vào số lượng dân
cư để so sánh với số lượng tội phạm.
Việc nghiên cứu THTP cũng cần dựa trên quy định của pháp luật hình sự vào
thời điểm đó. Ví dụ, khi nghiên cứu tình trạng phạm tội của những người chưa
thành niên thì lấy số liệu những người chưa thành niên phạm tội có độ tuổi từ đủ 14
tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi so sánh với số liệu về dân cư có độ tuổi từ 14 tuổi trở
lên đến dưới 18 tuổi.Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác;
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
11
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Vì vậy tuỳ
theo đặc điểm của tình trạng phạm tội trong phạm vi nghiên cứu mà lấy số lượng
dân cư từ bao nhiêu tuổi trở lên cho phù hợp.
Thông thường tội phạm học sử dụng cách so sánh số liệu tội phạm và người
phạm tội với số lượng dân cư tính theo tỷ lệ 1.000 người dân hoặc 10.000 dân hoặc
100.000 dân để tìm ra tỷ trọng tương đối của tội phạm xảy ra. Đây cũng là một
phương pháp được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng và ở Việt Nam trong sách
hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hôi ở Việt nam do Tổng Cục thống kê ban hành
tháng 2 năm 1995 đưa ra chỉ tiêu: Tỷ lệ phạm tội theo loại tội phạm tính trên
100.000 dân.
Trên cơ sở của phân tích trên tác giả đề xuất cần phải tổng hợp, tính toán các
loại chỉ số về tỷ lệ phạm tội như sau:
- Tỷ lệ phạm tội chung
x 100.000
- Tỷ lệ người phạm tội phân tổ theo dân tộc
x 100.000
- Tỷ lệ nam giới phạm tội
x 100.000
- Tỷ lệ nữ giới phạm tội
x 100.000
- Tỷ lệ người phạm tội chưa thành niên
Số người phạm tội trên 14 tuổi và dưới 18 tuổi
12
Số dân số trên 14 tuổi và dưới 18 tuổi
x 100.000
- Tỷ lệ phạm tội phân tổ theo loại tội phạm
Số hành vi phạm tội
Số dân số trên 14 tuổi cùng năm
- Tỷ lệ Đảng viên phạm tội
Số đảng viên phạm tội
x 100.000
x 100.000
Số đang viên cùng năm
- Mối tương quan của từng nhóm tội, chương tội phạm: Theo BLHS năm
2015, các loại tội phạm được chia thành 14 chương; trong các báo cáo tổng kết, sơ
kết, chuyên đề đánh giá về tình hình tội phạm và giải quyết án hình sự chia thành
các nhóm: An ninh, Kinh tế, Trị an, Chức vụ và hoạt động tư pháp....
Tỷ trọng phạm tội theo
chương tội phạm, nhóm tội
phạm
Số hành vi tương ứng với mỗi chương hoặc
nhóm
=
Tổng hành vi phạm tội
- Số liệu về sự tương quan giữa những tội phạm theo trình độ học vấn của
người phạm tội
Số người phạm tội có trình độ học vấn theo một
nhóm xác định (ví dụ đại học)
Tỷ lệ phạm tội theo trình độ
học vấn
=
Tổng số người phạm tội
Cần lưu ý là chỉ số tội phạm luôn được xác định gắn liền với một địa bàn
nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chỉ số của THTP là thước đo để xác
định mức độ phổ biến tội phạm trong dân cư phản ánh trạng thái, xu thế vận động
của tội phạm đã xảy ra trong một đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định.
Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh về
tội phạm đã xảy ra, giải thích về mọi biểu hiện của tội phạm trong thực tế đời sống
xã hội, biết được cái nhìn về những hành vi nguy hiểm của chủ thể gây cho xã hội ở
mức độ cao nhất của con người có đầy đủ năng lực pháp luật. Nghiên
13
cứu diễn biến của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ giúp cho
nhận diện “bức tranh” về tội phạm, tình hình tội phạm được rõ nét mà nó còn giúp
cho việc dự đoán (tuy chỉ là tương đối) xu hướng vận động của tội phạm trong thời
gian tiếp theo, từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng ngừa tội phạm của cơ
quan chức năng sát với thực tiễn. Diễn biến của tình hình tội phạm có thể là diễn
biến của tình hình tội phạm nói chung, diễn biến của tình hình tội phạm một nhóm
tội cụ thể hoặc một tội phạm cụ thể nào đó.
Số liệu thống kê tội danh đã xét xử chính là "số lớn", “số chính” và đặc biệt
nó có thể diễn giải được, nó rất phù hợp cho nhiều mục đích nghiên cứu tội phạm
học. Đối với phần hiện của tình hình tội phạm, số liệu thống kê tội danh đã xét xử
hoàn toàn bảo đảm yêu cầu hội tụ các nguồn số liệu án hình sự đó qua xét xử và sự
hội tụ này diễn ra một cách tự nhiên, hợp logic của một quá trình trình tự tố tụng
hình sự. Cho nên nó giảm bớt được yếu tố sai lệch do chủ quan, tức là do chủ thể
thực hiện việc báo cáo số liệu thống kê. Tuy nhiên, trên thực tế, trong công tác
chuyên môn nghiệp vụ tại các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan Viện kiểm sát,
hiện nay, thống kê hình sự nói chung, thống kê tội danh đã xét xử nói riêng đóng
góp không nhỏ trong công tác đánh giá thực tiễn THTP, hiệu quả hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm cũng như hiệu quả hoạt động tố tụng của các cơ quan
có thẩm quyền. Bởi, ngoài thống kê số liệu tội danh đã xét xử, cơ quan Viện kiểm
sát cũng thống kê các số liệu khác như: tin báo tố giác tội phạm, kiểm sát điều tra,
khởi tố vụ án,án đình chỉ, tạm đình chỉ, án hủy, …Với thẩm quyền, trách nhiệm
được quy định trong Điều 34 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cơ quan Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã nghiên cứu và ban hành Hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ thống
kê hình sự để thu thập, tổng hợp đáp ứng công tác chuyên môn đánh giá hiệu quả
hoạt động đấu tranh phòng, chống, ngăn ngừa và dự báo tình hình tội phạm trong
tương lai cho các cấp lãnh đạo và quản lý.
Đối với phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả nghiên cứu phần hiện
của tội phạm, sử dụng số liệu thống kê tội danh đã xét xử hình sự sơ thẩm giai đoạn
từ năm 2015 đến năm 2019.
14
- Xem thêm -