Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ lê đạt dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật...

Tài liệu Thơ lê đạt dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật

.PDF
91
13
78

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n  trÇn thÞ thïy dung Th¬ lª ®¹t d-íi gãc nh×n t- duy nghÖ thuËt chuyªn ngµnh : v¨n häc viÖt nam m· sè : 60 22 34 LuËn v¨n th¹c sÜ v¨n häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: pgs.Ts. NguyÔn b¸ thµnh Hµ Néi - 2010 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Di sản văn chương của Lê Đạt để lại không thuộc loại nhiều về số lượng nhưng có độ phong phú và sức nặng của trọng lượng nghệ thuật. Quan trọng hơn nữa, qua toàn bộ di sản ấy, người ta có thể hình dung được chân dung của một người lao động văn nghệ đích thực . Cùng với trần Dần, Lê Đạt đã làm một cuộc cách- tân- thơ âm thầm trong suốt 30 năm và thế hệ các ông đã ghi dấu khởi đầu cho chặng đường nhọc nhằn đổi mới của thi ca Việt Nam sau thơ tiền chiến. Thơ Lê Đạt tiêu biểu cho sự đổi mới về tư duy nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu thơ ông từ góc độ tư duy nghệ thuật. Tiếp cận thơ Lê Đạt từ góc độ tư duy thơ, chúng tôi hi vọng tìm thấy ở đó nhiều vấn đề lý thú và bổ ích trong hành trình tìm kiếm chân lý nghệ thuật. 1.2. Gần nửa thế kỷ sau sự kiện Nhân Văn- Giai Phẩm, dù cuộc đời đã sang hướng khác nhưng Lê Đạt vẫn thể hiện tư chất nghệ sĩ của mình trong những sáng tác, Lê Đạt sau mấy chục năm từng bị coi là có quan điểm nghệ thuật sai lầm đã được nhà nước và văn giới thấu hiểu, ghi nhận, tôn vinh. Năm 2007, cùng với ba nhà thơ khác của phong trào Nhân văn- Giai Phẩm là Trần Dần, Phùng Quán và Hoàng Cầm, ông được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Cho đến nay, những giá trị sáng tạo của nhà thơ đã bước đầu được ghi nhận. Tuy nhiên sự nghiệp thơ ca của Lê Đạt vẫn chưa được nghiên cứu một cách xứng đáng, đúng mức, điều đó đòi hỏi sự nỗ lực chuyên tâm của người làm khoa học, để sớm trả lại vị trí xứng đáng của Lê Đạt trong lịch sử thơ ca, đặc biệt trong lộ trình Cách Tân Thơ Việt . 1.3. Nghiên cứu thơ ca từ góc độ tư duy nghệ thuật là một yêu cầu toàn diện và khá phức tạp đối với các hiện tượng thi ca. Tuy nhiên, nghiên cứu thơ từ góc độ tư duy sẽ tạo ra những hướng tiếp cận mới, có khả năng mở ra những cánh cửa đi vào thế giới nghệ thuật phong phú. Thơ Lê Đạt tiêu biểu cho sự đổi mới về tư duy, cảm xúc, ngôn ngữ, do đó, tiếp cận thơ Lê Đạt từ góc độ tư duy, chúng tôi hy vọng sẽ có một cách nhìn tương đối hệ thống về hiện tượng này. 2. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Mục đích của đề tài là nghiên cứu quan niệm thơ, thế giới nghệ thuật thơ Lê Đạt để tìm hiểu về tư duy thơ của tác giả. Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là những tập thơ đã xuất bản của Lê Đạt. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng tiến hành tham khảo thơ của một số tác giả có xu hướng cách tân như: Trần Dần, Dương Tường, Nguyễn Quang Thiều, …. từ đó có cái nhìn chung về sự vận động của thơ đương đại . Luận văn nghiên cứu về thơ Lê Đạt từ phương diện tư duy nghệ thuật, trên cơ sở tìm hiểu quan niệm thơ của Lê Đạt, cái tôi trữ tình của Lê Đạt trong thơ, các biểu tượng và ngôn ngữ thơ ca. 3. Lịch Sử nghiên cứu vấn đề Đến nay chưa có một công trình khoa học nào, bài viết nào đề cập đến tư duy nghệ thuật thơ Lê Đạt mà chỉ có một số bài viết ngắn về thơ ông. Đến với lịch sử nghiên cứu về thơ Lê Đạt, chúng tôi trình bày qua 2 chặng : - Trước năm 1960 : Vấn đề mà các bài viết về Lê Đạt tập trung phản ánh trong giai đoạn này là thái độ chính trị trong sáng tác của nhà thơ. Lê Đạt thời kỳ Nhân văn- Giai phẩm là đối tượng để lên án và kết án. Xuân Hoàng viết Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt đăng trên báo văn nghệ số 11, tháng 4/ 1958 đả kích Lê Đạt. Theo ông, thơ văn của Lê Đạt bộc lộ ‚cái tư tưởng phản bội, cái dã tâm chống đảng bên trong … cái mới mà Lê Đạt đưa ra chỉ reo rắc sự hoài nghi, tính hiếu thắng, lòng tự đại [22, 71]. Trong Tạp chí văn nghệ số 13, tháng 6/ 1958 Xuân Diệu đã đả kích nhà thơ Lê Đạt qua bài Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản trong thơ Lê Đạt. Ở bài viết này, Xuân Diệu sau khi đi vào phân tích một số tư tưởng của Lê Đạt đã đi đến kết luận rằng: ‚Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội nhà văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt …Xét Lê Đạt, ta phải nhìn cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại tư tưởng ta từ trong bản chất giai cấp thù địch‛. Và Xuân Diệu khẳng định thêm ‚lấy một Lê Đạt làm ví dụ của thứ văn nghệ Nhân văn –Giai phẩm, chúng ta đã rút ra một bài học cảnh giác với chủ nghĩa cá nhân tư sản có nhiều biến hoá mưu mánh‛. Hai số báo Nhân dân ra ngày 1/4/1958 và ngày 2/4/1958 Phan Nhân đã gộp hai tác giả Lê Đạt và Trần Dần thành một nhóm và lên án qua bài viết mang tựa đề Thực chất cái gọi là “đi tìm cái mới”của nhóm Trần Dần- Lê Đạt”. Phan Nhân chia bài viết thành hai phần lớn. Trong phần I, tác giả bài viết tập trung phân tích kỹ ‚Nội dung tư tưởng trong thơ Lê Đạt, Trần Dần‛ tác giả nhấn mạnh tư tưởng chống đối thực tại- ‚Mới để mà mới‛ và ‚Xuyên tạc sự thật đả kích chế độ, gieo rắc bi quan‛ trong sáng tác của Lê Đạt. Sang phần II, bài viết của Phan Nhân trình bày mánh khoé của Lê Đạt, tác giả khẳng định Lê Đạt đã sử dụng biện pháp ‚tả đầu lưỡi- lợi dụng Mai-a cóp nhặt từ, hình ảnh, kĩ thuật mới‛ từ đó ông lấy Mai-a và sáng tác của Mai-a đem so sánh với Lê Đạt để chỉ rõ sự khác biệt về tư tưởng và thơ văn của hai đối tượng này. Tác giả khẳng định Lê Đạt đã không có tâm hồn Mai-a thì không thể học được Mai-a. Nhà thơ Tố Hữu kết tội Lê Đạt mang ‚những quan điểm văn nghệ phản động. Các bài viết trên không nảy sinh và phát triển trên cơ sở học thuật mà là kết quả của lối phê bình xã hội học, lấy tư duy chính trị làm chuẩn. Với những sáng tác của Lê Đạt, các tác giả đã cố ý tìm những động thái, ẩn ý chính trị hơn là những cố gắng Cách- Tân với một tinh thần phủ nhận. Cách nhìn này xuất phát từ đặc điểm lịch sử của giai đoạn. Miền Bắc hoà bình nhưng miền Nam vẫn còn đang chiến tranh chống chọi với kẻ thù xâm lược nên mục tiêu hàng đầu vẫn là cách mạng, văn nghệ không thể từ chối phục vụ. Chiến tranh là hoàn cảnh không bình thường đối với một đất nước nên cũng đẻ ra những đặc điểm không bình thường của văn học, đó là nền văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, hướng hẳn về quần chúng công- nông- binh, thậm chí văn học phải ‚minh hoạ‛ cho những chủ trương, đường lối của cách mạng. Vì vậy bản sắc của cá nhân muốn thể hiện trong văn học là một điều dường như là rất khó khăn, cá nhân thường bị chìm lấp trong đoàn thể như giọt nước trong làn sóng biển. Vì vậy sáng tạo của Lê Đạt không được hoan nghênh mà còn làm ông khốn khó là tất yếu. - 1960 – nay: Sau 30 năm cấm in, Lê Đạt được ‚phục hồi‛ một số tác phẩm của ông mới được ra mắt độc giả nhưng trong tinh thần khá dè dặt của các nhà xuất bản. Năm 1989, Lê Đạt in chung với Dương Tường 36 bài tình. Thời kỳ đầu đổi mới, những ấn phẩm của Lê Đạt được xuất bản trở lại nhưng giới phê bình với sự dè dặt chung ít nhắc tới Lê Đạt vì đây vẫn là một vấn đề nhạy cảm trong một giai đoạn nhạy cảm. Năm 1994, Tập thơ Bóng chữ được xuất bản, ra mắt bạn đọc đã gây xôn xao dư luận. Không biết xuất phát từ đâu dư luận cho rằng thơ Lê Đạt khó hiểu. Có người gọi tập thơ Bóng chữ của ông là thơ ‚hũ nút‛. Có người lên án là ‚thơ ú ớ‛ sùng bái vô thức chống lại ý thức. Sau Bóng chữ, Lê Đạt tiếp tục cho xuất bản Ngó Lời (1997), U75 Từ tình (2007), Đường chữ (2009), giới nghiên cứu phê bình do đó có điều kiện tiếp cận trực tiếp, sâu rộng hơn để đưa ra những đánh giá mang tính hệ thống hơn. Nếu trước kia Lê Đạt bị đả kích kịch liệt, bị kết án nặng nề thì giờ đây ông đã được nhìn nhận lại một cách đúng mức với những sáng tác mang nhiều giá trị, góp phần xây dựng nên nền thơ Việt Nam hiện đại. Năm 2007 Lê Đạt được nhận Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Và cho tới nay, các bài viết về Lê Đạt đã vượt qua cái nhìn cũ, khẳng định Cách Tân và đóng góp của nhà thơ. Đó là Võ Thị Hảo với Người vác thập giá chữ [24], Tùng Huy- Lê Đạt quặn lòng với những con chữ [30], Thuỵ Khuê- Thơ tạo sinh- Lê Đạt [33], Trần Thiện Khanh- Trạng thái thơ Lê Đạt [37], Trần Thiên Khanh- Lê Đạt tư duy về thơ [38], Đặng tiến - Lê Đạt và Bóng chữ [59], Đỗ Lai Thuý, Lê Đạt - chữ [67], Đỗ Lai Thuý- Mã thơ Lê Đạt [69]. Điểm thống nhất của các bài viết này là sự ghi nhận đóng góp của Lê Đạt trên một số phương diện cơ bản. Thứ nhất, xác định vấn đề bao trùm và xuyên suốt những tác phẩm của Lê Đạt là đào sâu vào chữ để tìm ra nhiều vỉa từ nhằm làm cho thơ đa nghĩa, cô đúc và sâu sắc. ‚Ông chơi chữ, nghịch chữ và tạo cho thơ mình một điệu nhạc riêng, một ‚thiên lí chữ‛ không dễ lặp lại‛ [38]. Thứ hai, xác định: tư tưởng lớn của Lê Đạt chính là bút pháp của ông. Ecriture Lê Đạt với sự cố ý làm sai, làm lệch, mắc lỗi, thậm chí kháng chỉ, là sự vi phạm các trật tự hiện hành, trước hết là trật tự ngôn ngữ [67]. Thứ ba, khẳng định tính hiện đại trong các sáng tác của Lê Đạt như: cấu trúc hình thức, phép tạo hình trong thơ của ông, tính bất định của không gian thẩm mỹ mà Lê Đạt theo đuổi… Nhìn lại lịch sử nghiên cứu về thơ Lê Đạt qua 2 giai đoạn, chúng tôi thấy sự phê bình và tranh luận đã có sự thay đổi. Giai đoạn thời kỳ Nhân Văn- Giai phẩm Lê Đạt cũng như thơ ông bị phê phán quyết liệt. Giai đoạn sau, khi Lê Đạt được phục hồi tư cách hội viên Hội nhà văn và quyền xuất bản, thơ ông dù mới đầu chưa được dư luận đón nhận nhưng với những tập thơ tiếp sau, Lê Đạt đã được khẳng định đề cao. Trước kia Lê Đạt bị kết tội nặng nề, nhưng bây giờ đọc lại những sáng tác của Lê Đạt giới nghiên cứu và phê bình thấy Lê Đạt không định chống Đảng, không hề phản động mà chỉ nỗ lực thể hiện sự thành thật, nồng nhiệt trong cách tân văn chương, muốn tạo điều kiện cho nghệ thuật phát triển. Và như vậy, rõ ràng dưới ảnh hưởng của thành tựu lý luận thế giới các nhà nghiên cứu, phê bình đã dần đưa ra những cách đọc mới, khả dĩ tiếp cận sáng tác của Lê Đạt. Tuy nhiên, những bài viết mới dừng ở mức độ cảm nhận sơ lược, chung chung chưa đi sâu phân tích một cách sâu sắc, toàn diện về thơ Lê Đạt nhưng đó thật sự là những gợi ý giá trị cho luận văn của chúng tôi. Tiếp nối những bài viết nghiên cứu về thơ Lê Đạt, Luận văn sẽ đi tìm hiểu nghiên cứu một vấn đề hoàn toàn mới: “Thơ Lê Đạt dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật” nhằm phát hiện ra những tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật của Lê Đạt, khẳng định phong cách thơ Lê Đạt, những đóng góp của ông đối với nền thơ ca Việt Nam đương đại . 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp lịch sử: Chúng tôi đánh giá Lê Đạt và các vấn đề trong thơ của ông trong sự gắn kết với hoàn cảnh của cá nhân, dân tộc và thời đại mà ông sống để thấy được sự tác động của lịch sử lên một đời thơ và cách thức phản ứng đặc biệt của Lê Đạt. - Phương pháp so sánh, đối chiếu : Trong quá trình nghiên cứu tư duy thơ Lê Đạt, chúng tôi so sánh thơ Lê Đạt với một số tác giả khác cùng thời, cùng dòng thơ, để thấy được sự Cách Tân của thơ ông. Mặt khác, so sánh ông với chính ông để thấy sự đổi mới liên tục của nhà thơ trong suốt chặng đường thơ. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để thiết lập hệ thống luận điểm. Từ sự phân tích cụ thể tác phẩm, người viết tổng hợp khái quát để có những kết luận, nhận định thấu đáo, tránh những áp đặt chủ quan không bám sát văn bản thơ. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn là công trình dài hơi nghiên cứu về tác giả Lê Đạt. Nghiên cứu tư duy thơ của Lê Đạt qua hệ thống quan niệm thơ đến sự vận động và phát triển của cái tôi trữ tình, hệ thống biểu tượng và ngôn ngữ thơ ca nhằm tìm ra những nét khác biệt trong cách cảm, cách nghĩ, những tìm tòi sáng tạo của Lê Đạt và những đóng góp của ông đối với tiến trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tư duy nghệ thuật và quan niệm thơ của Lê Đạt Chương 2. Cái tôi trữ tình và một số biểu tượng đặc sắc trong thơ Lê Đạt Chương 3. Ngôn ngữ thơ Lê Đạt PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM THƠ CỦA LÊ ĐẠT 1.1. Một số vấn đề lí luận về tƣ duy nghệ thuật 1.1.1 Khái niệm tư duy Tư duy không chỉ là đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý, triết học, … mà còn là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực nghệ thuật. ‚Tư duy là hoạt động nhận thức lý tính của con người. Khí quan của tư duy chính là bộ óc người với một hệ thống tinh vi của gần 16 tỉ tế bào thần kinh [52, 676]. Tư duy không chỉ là một sản phẩm xã hội hay chỉ là sản phẩm tự nhiên, mà là sản phẩm có tính tổng hoà của quá trình lịch sử nhân loại. Tư duy là kết quả phát triển của vật chất tự tổng hợp qua hàng vạn, hàng triệu năm. Sự ra đời của tư duy chính là bằng chứng về sự xuất hiện của con người. Do vậy có thể định nghĩa: ‚Con người là một động vật có tư duy‛. Tư duy (pensée) là toàn bộ những hoạt động tâm lý của con người, chỉ có con người mới có, đó là đời sống trí tuệ của con người. Tư duy được phân biệt với ý thức (conscience). Nói đến ý thức là nói đến sự ‚phản ánh‛ hiện thực của hoạt động tâm lý. Hay nói đúng hơn, ý thức là tư duy ở trạng thái tĩnh, và tư duy ở trạng thái động, tư duy là hành động nhận thức của con người. Tư duy và lý trí (raison) không phải là một. Nói đến lý trí là nói đến cái lôgích có tính nguyên tắc của nhận thức. Nói đến tư duy là nói đến sự vận động có tính tổng thể của các yếu tố tư tưởng và tình cảm, cảm xúc và lý trí nhằm mục đích nhận thức. Tư tưởng (Idée) hay còn gọi là quan niệm tư tưởng vừa là kết quả lại vừa là xuất phát điểm của tư duy. Quan hệ con người với con người, con người với xã hội, con người với hoàn cảnh sống … là những mối quan hệ chủ yếu tạo nên quan niệm tư tưởng ở mỗi con người. Tư tưởng mang tính chất dân tộc, đoàn thể, quốc gia, tính giai cấp… nghĩa là mang tính chủ quan hơn so với tư duy. Tư tưởng nằm ở phạm trù nội dung, tư duy nằm ở phạm trù phương pháp. Tuy nhiên giữa chúng vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau. ‚Đặc trưng của tư duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thế giới khách quan, quan hệ con người với con người và quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng; truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng các phương tiện ngôn ngữ, đó là toàn bộ chức năng nhận thức của tư duy [64, 18]. Nói đến tư duy là nói đến những hoạt động của bộ óc người ở trạng thái sống động của nó. Tư duy nảy sinh từ sự sống và gắn liền với hoạt động của các tế bào não. Đó là một quá trình xử lý lượng thông tin do các khí quan cảm giác thu nhận được. Trong lịch sử phát triển của con người, sự hình thành và phát triển của tư duy gắn làm một với sự hình thành và phát triển của chủ thể. ‚Vậy, phán đoán đầu tiên của sự sống là ở chỗ, với tư cách là chủ thể cá thể, sự sống tự tách mình ra khỏi tính khách quan‛ (G.V.Ph.Hêglen) . Nói đến sự sống trong vận động tư duy chính là nói đến cơ sở sinh lý của tư duy. Yếu tố ‚sống‛ đó sẽ tạo cho tư duy một thuộc tính quan trọng, đó là sự trao đổi tinh thần có tính chất giao tiếp, tính chất ‚cảm ứng‛ ‚giao cảm‛ giữa người với người. Bởi vậy, giao tiếp ngôn ngữ là một giao tiếp có tính bề ngoài, còn trao đổi tinh thần, giao lưu tư tưởng và tình cảm là bản chất của hoạt động tư duy. Tư duy là một ‚trạng thái‛ bên trong của vật chất (Plêkhanôp) nhưng chỉ có ở vật chất đặc biệt, phát triển ở trình độ cao, tức là ở con người. Mọi quan niệm cho rằng tư duy, tinh thần hay ý niệm tồn tại độc lập, bên ngoài đầu óc con người, đều là quan niệm tư duy phi chủ thể, hoặc là tạo ra một chủ thể siêu nhiên đối lập với con người. Nhưng cả tư tưởng và tư duy sẽ không nảy sinh được nếu không có ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư tưởng. ‚Không có ngôn ngữ thì tư duy chỉ là những dự báo mơ hồ, những phản ứng có tính bản năng trước hiện thực. Không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là tiếng kêu bập bẹ của trẻ sơ sinh mà thôi. Tư duy làm cho ngôn ngữ phát triển phong phú, tinh xảo. Ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư duy đi sâu được vào bản chất của sự vật hơn‛ [64, 19]. 1.1.2. Quan niệm về tư duy nghệ thuật Tư duy nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người trong lĩnh vực nghệ thuật. Có nhiều quan điểm về vấn đề này, tuy nhiên chúng tôi thống nhất với quan điểm của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học NXB Giáo dục 2006 và ý kiến của tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam NXB văn học Hà Nội 1996. Trong Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: ‚Tư duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Bản chất của nó do phương thức thực tiễn tinh thần của hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng quy định. Sự chuyên môn hoá lối tư duy này tạo thành đặc trưng nghệ thuật và tiềm năng nhận thức của nó. Tư duy nghệ thuật là một phương thức hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hoá hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mỹ. Phương tiện của nó là các biểu tượng, tượng trưng có thể trực quan được. Cơ sở của nó là tình cảm. Dấu hiệu bản chất của tư duy nghệ thuật là: ngoài tính giả định, ước lệ, nó hướng tới sự nắm bắt những sự thật đời sống cụ thể, cảm tính mang nội dung khả nhiên (cái có thể có) có thể cảm thấy, theo xác suất khả năng và tất yếu. Chính nhờ đặc điểm này mà nội dung khái quát của nghệ thuật thường mang tính phổ quát hơn, triết học hơn so với sự thật cá biệt. Bằng trí tưởng tượng sáng tạo vốn là chất xúc tác của hoạt động tư duy nghệ thuật, nghệ sĩ xây dựng các giả thiết, làm sáng rõ các bộ phận còn bị che khuất của thực tại, lấp đầy các ‚lỗ hổng chưa biết‛ tính cấu trúc của tư duy nghệ thuật gắn với năng lực nhìn thấy thế giới một cách toàn vẹn, nắm bắt nó qua những dấu hiệu phát sinh, đồng thời phát hiện các mối liên hệ mới chưa được nhận ra… Tư duy nghệ thuật đòi hỏi một ngôn ngữ nghệ thuật làm ‚hiện thực trực tiếp cho nó. Ngôn ngữ đó là hệ thống các ký hiệu nghệ thuật, các hình tượng, các phương tiện tạo hình và biểu hiện. Nó có mã nghệ thuật, tức là hệ thống năng động gồm các quy tắc sử dụng ký hiệu để gìn giữ tổ chức và truyền đạt thông tin. Điểm xuất phát của tư duy nghệ thuật vẫn là lý tính, là trí tuệ có kinh nghiệm, biết nghiền ngẫm và hệ thống hoá các kết quả nhận thức. Đặc điểm của tư duy nghệ thuật là tính lựa chọn, tính liên tưởng, tính ẩn dụ. Trên cơ sở của tư duy nghệ thuật người ta tạo ra các tư tưởng và ‚quan niệm nghệ thuật‛ lựa chọn các phương tiện, biện pháp nghệ thuật. Dạng tư duy này chỉ phát huy hiệu quả khi gắn với tài năng, biết cảm nhận được một cách nhạy bén về viễn cảnh lịch sử, nắm bắt tinh thần thời đại, dự báo tương lai và tài năng sáng tạo nghệ thuật [26, 381382]. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái quát những vấn đề về tư duy nghệ thuật Tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam đã bàn nhiều về vấn đề tư duy nghệ thuật nói chung và tư duy thơ nói riêng và đi đến kết luận: ‚Tư duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hoá hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan. Tư duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân sinh quan của người sáng tạo‛. Tư duy nghệ thuật khác với tư duy khoa học ở chỗ: tư tưởng tình cảm không chỉ là năng lượng của tư duy mà còn là đối tượng nhận thức của tư duy. Hình tượng nghệ thuật được coi là hình tượng của cảm xúc, nghĩa là ‚năng lượng‛ tình cảm còn đọng lại trong hình tượng như là một yếu tố nội dung, một bộ phận hợp thành. Tuy vậy, nếu đối lập lý trí với tình cảm, tư duy khoa học với tư duy nghệ thuật, chúng ta sẽ đi đến chỗ coi nghệ thuật chỉ bao hàm những yếu tố trực giác, những ấn tượng cảm tính mà không có ý nghĩa sâu sắc, không mang nội dung trí tuệ‛ [64, 54-55]. Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Tư duy thơ là phương thức nhận thức và biểu lộ tình cảm của con người bằng hình tượng ngôn ngữ. ‚Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể hiện của cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình, coi trọng sự biểu hiện cái chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài thơ… Do sự chi phối của quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định… Tư duy thơ phản ánh những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại‛ [64, 56]. So với tư duy lôgích thì tư duy hình tượng có được một phạm vi rộng rãi hơn cho sự liên tưởng và quyền tưởng tượng của người sáng tạo. Tư duy thơ chấp nhận một khả năng tưởng tượng của tư duy khoa học là ở chỗ trừu tượng hoá, vô hình hoá các sự vật và hiện tượng. Còn nhà thơ thì cụ thể hoá, hình tượng hoá hiện thực khách quan theo một đường dây liên tưởng. Tư duy thơ có khả năng hướng nội, hướng ngoại, và kết hợp giữa hướng nội và hướng ngoại. Hướng ngoại là nhằm vào đối tượng miêu tả, trình bày nó dưới ánh sáng của một quan niệm thẩm mỹ. Hướng nội là tác giả tự nghĩ về mình, tự quan sát và biểu hiện cái tôi nội cảm của mình. Tìm hiểu tư duy thơ là tìm hiểu sự vận động của hình tượng thơ. Ngôn ngữ đối với nhà thơ vừa có ý nghĩa phương tiện vừa có ý nghĩa mục đích, nó là một thứ ‚công cụ‛ trực tiếp của tư duy. Khả năng tự do của tư duy thơ phụ thuộc vào yếu tố ngôn ngữ, phụ thuộc vào cấu trúc thể loại… 1.2. Quan niệm thơ Lê Đạt . 1.2.1. Thơ như là một sự thể nghiệm Trong kháng chiến chống pháp, Lê Đạt làm việc ở Ban tuyên huấn Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, ông tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực văn hoá- nghệ thuật. Cùng với một số trí thức, văn nghệ sĩ, ông đã kiên trì đòi hỏi xây dựng một môi trường tự do cho sáng tạo, cho sự phát triển lành mạnh của nền văn hoá nghệ thuật nước nhà. Theo quan niệm thơ chính thống thì thơ phải phản ánh thực tại, phải là vũ khí, tuyên truyền, phục vụ chính trị, phục vụ nhân sinh, phục vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khác với quan niệm thơ chính thống, theo Lê Đạt thơ là ‚cuộc chơi‛ mà thi nhân đem cả đời người để thử nghiệm. Ông phản đối lối thơ tuyên truyền, làm chính trị một cách giản đơn theo những công thức tầm thường dễ dãi, ông đòi hỏi thơ ca nói chung và bản thân mình nói riêng phải bứt phá khỏi cánh đồng bằng phẳng, yên ổn mà thưa thớt cá tính sáng tạo. Ông ghét lối thơ đơn nghĩa và gọi nó là ‚thơ lộ thiên‛ ông muốn một thứ thơ không vần mở ra nhiều nghĩa bất chấp cái đa nghĩa nhiều khi làm người đọc khó hiểu. Quan niệm này của ông rất giống với quan niệm của Trần Dần và một số nhà thơ khác trong nhóm văn học Nhân văn- Giai Phẩm. Lê Đạt muốn chống lại thứ văn nghệ độc tôn, thực hiện tự do sáng tác và đã mạnh dạn nói lên khát vọng của mình trong các tác phẩm. Với Lê Đạt, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng không chỉ là một bánh xe lăn mãi một con đường mòn đã cũ, phải dựa trên cơ sở, cá tính độc đáo của từng nghệ sĩ mà phát huy và lãnh đạo. Trong thơ, ông đòi hỏi sự tự do trong tư tưởng vì nếu không có tự do tư tưởng thì không thể có nghệ thuật chân chính. Là một trong những nhà thơ tiên phong đi đầu trong phong trào Nhân văn- Giai phẩm, Lê Đạt luôn mong muốn cách tân thơ Việt. Ông muốn dấn thân đến cùng vì yêu cầu sinh tử của nghệ thuật. Nhà thơ khao khát phá vỡ sự độc tôn của những nguyên tắc thi pháp cũ. Chính quan niệm về thơ này của Lê Đạt, cũng như của Trần Dần và một số nhà thơ khác trong nhóm văn học Nhân văn- Giai phẩm đã làm bùng lên cuộc tranh luận ồn ào đến nay vẫn chưa dứt. Và cũng từ quan niệm này của Lê Đạt sẽ sinh ra cái tôi bất hợp tác với hoàn cảnh trong Nhân văn- Giai phẩm mà chúng tôi sẽ bàn tới ở chương 2 của luận văn. 1.2.2. Thơ gắn với chữ, với ngôn từ nghệ thuật (từ sau vụ Nhân vănGiai phẩm) Trong suốt hơn 30 năm đại hạn Nhân văn, Lê Đạt có nhiều thời gian suy nghĩ về thơ mình cũng như về thơ nói chung. Trong Đường chữ, ông viết: ‚Tôi buồn rầu nhận ra rằng thơ tôi chưa có cái cách tân triệt để- về cấu trúc mà nói, nó vẫn chưa thoát khỏi thơ ‚Mới‛ những năm 1930 … Nhưng triệt để như thế nào tôi vẫn chưa hình dung được‛ [21, 620]. Lê Đạt không có cái may mắn của Trần Dần, bạn thơ cùng thời, là ngay từ đầu nhận ra ngay ‚con đường chữ‛ của mình để đi một mạch. Có lúc Lê Đạt phải qua những khúc quanh nhận thức, có những đoạn dừng lại tự xỉ vả mình vô dụng để ‚mặc cảm tội lỗi‛ và ‚tự tu lập‛ bước qua. Nhưng có vẻ như cái chìa khoá của ‚sự tu‛ lại là một chữ ‚chơi‛ đầy hào sảng và khí phách trong thơ của nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ: Trời đất cho ta một chữ tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi, là cuộc gặp lại triết học ‚trò chơi‛ trong câu nói của Freud: ‚Mọi đứa trẻ khi chơi, ứng xử như một nhà thơ với ý nghĩa nó tạo ra cho mình một thế giới hay nói chính xác hơn, nó chuyển dịch những đồ vật của thế giới nó đương sống sang một trật tự mới phù hợp. Nó coi trò chơi của mình là rất nghiêm túc‛. Từ một cuộc dằn vặt nhận thức, Lê Đạt bước vào công cuộc ‚phu chữ‛ để tạo ‚vân chữ‛ cho mình chống lại ‚thiên mệnh‛ đặt bày trong bàn tay thời cuộc luôn không ngừng can thiệp. Thời kỳ ‚làm người vô dụng‛ ông tìm cách bắt tay với quan niệm chữ và sáng tạo thi ca của Freud, Mallarmé, Lacan, Trang tử , Niezsche, Heiclerger và Roland Barthes….Một thời kỳ khổ ải đến mức những cửa thư viện he hé mở rồi lườm nguýt khép lại. Ông viết đầy hài hước và chua chát: ‚Trên đất nước bốn nghìn năm văn hiến ai ngờ đọc sách mà cũng gian nan thế‛ [21, 623]. Trong thời kỳ bị kỷ luật, Lê Đạt không bị áp lực của việc xuất bản nên ông có nhiều thời gian nghĩ về thơ và càng đọc nhiều ông càng cảm thấy thơ mình bỏ qua một khoảng mênh mông của chữ. Và bằng tài năng, sự nỗ lực, lòng đam mê, kiên trì không mệt mỏi, Lê Đạt đã ‚mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ ‚[34]. Như vậy, cuộc tìm ‚bóng chữ‛, ‚đường chữ‛, ‚vân chữ‛ của Lê Đạt là cuộc tự nhận thức sau sự cố Nhân văn- Giai phẩm. Ông đã đi từ trong sương mù bất định của nhận thức, đến giải quyết cho cái câu hỏi da diết từ nội tại được đặt ra: ‚Đâu là điểm tự do xa nhất chữ có thể đạt tới, đâu là điểm cực hạn nhất thiết không được bước qua?‛. Trong những nhà thơ cùng trang lứa, Lê Đạt (cùng với Trần Dần ) là nhà thơ vị chữ. Ông đề cao tinh thần lao động chữ của nhà thơ đến mức ông gọi nhà thơ là ‚phu chữ‛. Phu hay culi cũng đều thể hiện sự vất vả, cực nhọc muôn phần trong sáng tạo nghệ thuật. Lê Đạt nghét thứ thơ đơn nghĩa và gọi nó là ‚thơ lộ thiên‛. Vì vậy, ông chủ trương đào sâu vào chữ để tìm ra nhiều vỉa từ nhằm làm cho thơ đa nghĩa, cô đúc và sâu sắc. Nhà thơ Lê Đạt rất coi trọng chữ trong thơ. Đối với ông, chữ không chỉ đơn thuần là một kí hiệu giao tiếp mà như một sinh thể luôn cựa quậy, là một thứ mặc khải để thi nhân bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. Sự linh diệu của chữ chính là sự linh diệu của thơ. Đây là phép biện chứng trong sáng tạo thơ ca. Vì trọng chữ nên theo Lê Đạt: ‚Nhà thơ không coi rẻ chữ như những vật vô tri vô giác, những công cụ quẳng đi khi đã hết tác dụng mà tôn trọng chữ như những sinh vật có hồn, lắng nghe tiếng nói của chữ và trò chuyện với chữ như những nhà ngoại cảm lắng nghe và trò chuyện với thế giớ bên kia‛ [20, 131]. Không coi rẻ chữ, lắng nghe và trò chuyện với chữ, nghĩa là Lê Đạt đã đối thoại với thơ. Chữ trong thơ, vì thế đã trở thành người bạn tri âm của thi sĩ. Lựa chọn chữ, nghiêm khắc với chữ trong thơ cũng chính là sự chọn lựa của tình yêu và trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đó là sự tôn trọng chính mình và tôn trọng người đọc. Vì theo Lê Đạt: “Với đa số chữ là tình nghĩa/ Với nhà thơ chữ là tình yêu” [21, 419]. Chính vì rất đề cao vai trò của chữ trong thơ mà ông đã xác quyết: ‚Một nhà thơ có kinh nghiệm là nhà thơ biết im lặng để nghe chữ phát biểu‛ [21, 395]. Và ông rất tôn trọng sự ‚dân chủ’’của chữ khi cho rằng: ‚Những tác phẩm thơ hay thường là kết quả sự cưỡng lại của chữ [21, 402]. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà trong các sáng tác của mình, chữ được Lê Đạt nhắc đến với tần số cao. Chữ- cô đơn; chữ- cách tân; chữ- phong phú; chữ- bình đẳng; chữthái độ sống. Và chữ, nhiều lần được ông gọi là ‚cử tri‛ bầu lên nhà thơ, là ‚gene được cấy trong công nghệ sinh học của sáng tạo, là ‚đội vệ sĩ đông đảo hùng hậu‛ để ‚cứu cái phần người bao giờ cũng lâm nguy trong mỗi con người‛. Theo Lê Đạt: ‚Người làm thơ không phải bằng ý mà bằng chữ. Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa tiêu dùng, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ‛ [20, 116]. Hiện hữu của nhà thơ chính là hiện hữu của chữ trong thơ. Chữ trong thơ thế là một ‚nhãn hiệu cầu chứng‛ cho sự hiện tồn của thi nhân; là một trong những yếu tố quan trọng nhất nếu không nói là yếu tố quyết định tạo nên phong cách nhà thơ. Xuất phát từ một quan niệm giá trị như thế nên trong tư duy thơ của mình, Lê Đạt xem chữ như là một hệ quy chiếu để định vị nhà thơ và sự cách tân trong thơ. Và cũng từ quan niệm trọng chữ trong thơ mà Lê Đạt khi trò chuyện với phóng viên Vovnews đã nói về việc cách tân thơ xuất phát từ ý muốn sử dụng chữ một cách toàn diện: ‚Trong chữ có 2 phần: phần định nghĩa và phần hàm nghĩa. Xưa nay trong văn chương nói chung, hay thơ nói riêng, nói là người ta hoàn toàn không sử dụng hàm nghĩa thì không đúng nhưng người ta chú ý nhiều đến phần định nghĩa. Và như thế, cả một phần rất rộng lớn là hàm nghĩa thì mọi người ít để ý. Đó là một sự ‚đãng trí‛ rất lớn. Tôi chỉ muốn… như học cách đá bóng của Hà lan, họ đá bóng tổng lực, mình dùng chữ một cách tổng lực‛. Lê Đạt từ đầu đến cuối quan niệm ‚Chữ đẻ ra chữ‛, mỗi chữ chỉ là cái bóng, đè lên những chữ khác, ông lựa chọn chữ rất kĩ và công phu khi sử dụng để mưu cầu sự đa nghĩa. Quan niệm này chi phối sâu sắc thi pháp thơ Lê Đạt. Đến với thơ ông, độc giả phải chăm chú vào chữ, ‚Những con chữ trong câu thơ dẫn dắt trên con đường tâm thức ra khỏi lối ngữ nghĩa tiêu dùng một chiều quen thuộc hằng ngày (Bóng chữ). 1.2.3. Thơ là một nghề nhưng là “nghề của bề sâu” Biết bao nhà thơ cả đời luôn khao khát đi tìm bản thể thơ để trả lời câu hỏi thơ là gì? Lê Đạt cũng vậy. Suốt cuộc đời dấn thân vì thơ, ông luôn đối thoại với thơ như đối thoại với tâm linh của mình. Thơ hiện hữu trong tâm thức ông không chỉ có những câu thơ đa nghĩa như một thứ ‚Bóng chữ‛ mà còn có cả những ưu tư của ông về thơ. Với ông, thơ như là một thứ đạo, một thứ tôn giáo, một thứ cơ duyên. ‚Người đời ví thi nhân với kiếp tằm, Lê Đạt tự ví mình như một lá dâu, còn lại trơ gân, xác xơ thân xác‛ (Đặng Tiến). Theo Lê Đạt: ‚Thơ là một nghề. Đã là một nghề thì phải có kỷ luật lao động, không nên thụ động thắp hương chờ mà phải chủ động gọi hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật nghiệt ngã và gian khổ [20, 139]. Nói như vậy, nghĩa là Lê Đạt rất coi trọng sự sáng tạo của nghề thơ. Ông yêu cầu người làm thơ phải tận hiến cho thơ, phải chủ động ‚cày sâu cuốc bẫm‛ trên cánh đồng thơ để tìm thi hứng. Không chỉ có thế, với Lê Đạt thơ còn là một thứ nghiệp chướng không thể dứt bỏ được. ‚Không người làm thơ nào không trải qua những cơn tuyệt vọng muốn quẳng bút đi làm nghề khác cho nó khỏe. Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu đắm đuối [20, 143]. Nghề thơ trong quan niệm của Lê Đạt không chỉ có gian khổ mà còn là một nghề ‚hơi bị nguy hiểm… không nói đến cái nguy cơ bị ăn đòn bởi các nhà phê bình đao to búa lớn- thời nào cũng có những kẻ đao búa. Cái nguy hiểm trầm trọng hơn là tình trạng mà Rilke gọi là niềm ‚cô đơn không tận‛ của nghiệp thơ‛ [ 20, 142]. Cô đơn phải chăng là một yếu tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Không hít thở trong bầu khí quyển cô đơn ấy người nghệ sĩ không thể sáng tạo được những tác phẩm để đời. Bởi thế, Inrasara cho rằng ‚sở dĩ ta chưa có những tác phẩm lớn vì người nghệ sĩ hiện thời chưa đủ cô đơn cho sáng tạo‛. Cô đơn vì vậy, không chỉ là một phẩm chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn là một yếu tính của nghệ thuật, thiết yếu cho sáng tạo. Hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ luôn mang dấu ấn cá nhân. Điều đó không những thể hiện cá tính sáng tạo mà còn biểu lộ tài năng thi sĩ. Thơ là một nghề nhưng là ‚nghề của bề sâu‛, nghề thơ cũng như nghề giếng, chỉ có đi sâu mới tìm ra nước. Lao động thơ là một thứ lao ‚động’’ thầm lặng, chán nản, đơn độc, vất vả‛ [20, 149], là ‚sự giằng xé căng thẳng‛ [20, 136] từ trong sâu thẳm tâm thức của thi nhân. Theo Lê Đạt, con đường thơ gồm nhiều con đường riêng rất khác nhau của từng người. Không có đại lộ chung một chiều cho tất cả. Con đường thơ chính là số phận của một nhà thơ. Nhưng dẫu theo con đường nào, một nhà thơ cũng phải cúc cung tận tụy, đem hết tâm trí dùi mài, lao động: ‚Biến ngôn ngữ công cộng thành ngôn ngữ đặc sản độc nhất làm phong phú cho tiếng mẹ như một lão bộc trung thành của ngôn ngữ. Làm thơ là một lao động nhọc mệt, ít tiền và gian nan. Do đó các nhà thơ, các nhà phê bình thơ phải đùm bọc, giúp đỡ nhau, nên vì thơ hơn vì tên tuổi cá nhân mình, cần tránh thiên hướng bới lông tìm vết. Phải biết trân trọng đối thoại với cái khác, cái lạ của bạn. Con đường thơ là một chu kỳ mở, không ai được vỗ ngực độc quyền chân lý cũng như cho phép mình nói tiếng nói cuối cùng [20, 119]. Không những trong thơ mà trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có lẽ không thể có tiếng nói cuối cùng về bất cứ vấn đề gì. Cuộc sống luôn vận động và phát triển. Mọi sự vật và hiện tượng trong cõi nhân sinh luôn biến đổi. Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng nước như một lời triết gia đã nói. Sự hiện hữu bao giờ cũng là sự hiện hữu của khoảnh khắc vô thường. Hiện hữu và hư vô là hai mặt của một quá trình biện chứng. Thơ cũng thế! Thơ bao giờ cũng hiện hữu trong hư vô và hư vô trong hiện hữu. Thế nên, khi bàn về tính hiện đại trong thơ Lê Đạt cho rằng: ‚Thơ không sống bằng phủ định loại trừ mà bằng khẳng định bổ sung. Không phải chỉ có một cách hiện đại mà có nhiều cách hiện đại. Không có một tổng công ty độc quyền phát hành tín phiếu hiện đại. Thơ hiện đại không phải một trường hợp phải khép kín. Mà một trường hợp phải mở‛ [20, 107]. Và ‚Người làm thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ… Biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một thứ ngôn ngữ trò chơi (hiểu theo nghĩa mạnh) trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mơ mà Roland Barthes gọi là một sự chú ý bồng bềnh (Attention flottante )‛ [21, 627]. Khi bàn về thơ hay, Lê Đạt đã có một ý tưởng khá độc đáo và lý thú. Ông cho rằng: ‚Những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ ngộ kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lòng quỷ thần chứ không phải may rủi đơn thuần Làm thơ không phải đánh quả. Và không ai trúng số độc đắc suốt đời‛ [ 20, 117]. Thật vậy, ‚trúng số độc đắc‛ đã là một sự mầu nhiệm, và không thể có sự mầu nhiệm suốt đời. Làm được những câu thơ hay trong
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan