THIẾT KẾ CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU DỊCH VỤ QUỐC GIA
Dự án VIE/61/94
(Xúc tiến Thương mại và Phát triển Xuất khẩu)
Báo cáo cuối cùng
Người thực hiện:
Bà Phạm Chi Lan
Hà Nội, Việt Nam
Tiến sĩ Dorothy I. Riddle, CMC
Vancouver, Canada
Ngày 31 tháng 10 năm 2005
2
Nội dung
Tóm tắt.................................................................................................3
1. Bối cảnh của thương mại dịch vụ của Việt Nam.............................5
2. Cơ sở cho Chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia Việt Nam.........8
3. Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của dịch vụ Việt Nam
12
3.1 Tóm tắt về những phát hiện của nghiên cứu............................12
3.2 Phân tích SWOT ....................................................................13
3.3 Khắc phục những vấn đề về quản lý chất lượng.....................18
3.4 Nâng cao khả năng tiếp thị dịch vụ, tiếng Anh thương mại
và các kỹ năng khác.......................................................................19
3.5 Lựa chọn dịch vụ mục tiêu cho chiến lược xuất khẩu............21
4. Các giai đoạn của Chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia............25
4.1 Giai đoạn 1: Chuẩn bị.............................................................25
4.2 Giai doạn 2: Xây dựng năng lực ............................................26
4.3 Giai đoạn 2b: Chuẩn bị các tài liệu bổ trợ.............................28
4.4 Giai đoạn 2c. Khắc phục những cản trở về chính sách và quy
định.....................................................................................................29
4.5 Giai đoạn 3a: Thúc đẩy năng lực xuất khẩu dịch vụ của Việt
Nam....................................................................................................31
4.6 Giai đoạn 3b: Xúc tiến các dịch vụ của Việt Nam.................32
4.7 Giai đoạn 4: Những sáng kiến chuyên ngành.........................33
5. Kết luận và các bước tiếp theo......................................................35
Các phụ lục:
A. Bản câu hỏi trong nghiên cứu và phản hồi...............................36
B. Các bảng dữ liệu.......................................................................41
C. Danh mục công việc cho Cục xúc tiến thương mại (Vietrade) và
các hiệp hội.........................................................................................43
Các bảng:
3
1. Tỉ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của ngành dịch vụ Việt Nam,
giai đoạn 1986-2003........................................................................5
2. Tỉ lệ phần trăm và tỉ lệ tăng trưởng của xuất khẩu Việt Nam
giai đoạn 1997-2003........................................................................5
3. Tỉ lệ phần trăm và tỉ lệ tăng trưởng của nhập khẩu Việt Nam
giai
đoạn
19972003..........................................................................................................
... 6
4. Cân bằng cán cân thương mại của Việt Nam, giai đoạn 1997-2003.6
5. Những dịch vụ mục tiêu được đề xuất trong Chiến lược xuất khẩu
dịch vụ quốc gia.................................................................................23
4
TÓM TẮT
Xuất khẩu dịch vụ có vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh
và phát triển của Việt Nam. Cho đến nay, Cục Xúc tiến Thương mại đã
tập trung vào xúc tiến xuất khẩu sản phẩm là hàng hoá hữu hình. Bên
cạnh đó, do đây là một lĩnh vực mà ban đầu chỉ là sự thúc đẩy một "lời
hứa thực hiện" nên xuất khẩu dịch vụ đòi hỏi một phương pháp tiếp cận
hoàn toàn khác. Vì vậy mà một nghiên cứu đã được tiến hành nhằm
chứng minh tiềm năng của Việt Nam về xuất khẩu dịch vụ thông qua
nghiên cứu được thực hiện với các công ty nước ngoài ở Việt Nam.
Những công ty nước ngoài này hiểu rõ về quy mô và chất lượng của dịch
vụ Việt Nam cũng như những tiêu chuẩn trong cạnh tranh quốc tế.
Nghiên cứu thực địa tiến hành với sự tham gia của 102 nhà lãnh đạo
của các tổ chức nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam. Những người
này được yêu cầu đưa ra những nhận xét về dịch vụ Việt Nam và khả
năng cạnh tranh của ngành này. Nghiên cứu này đã khẳng định lại những
phát hiện/kết quả từ một dự án trước đó "Những giải pháp và Khuyến
nghị về một Chiến lược Phát triển tổng thể cho ngành Dịch vụ ở Việt
Nam" là các công ty dịch vụ Việt Nam đã xuất khẩu rất nhiều loại hình
dịch vụ, đặc biệt thông qua Phương thức 2 (Mode 2) cho các công ty nước
ngoài ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng đã đưa ra những phân tích về điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức để có sơ sở cân nhắc thêm trong
quá trình thiết kế chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia, đó là:
a) Điểm mạnh: giá cả cạnh tranh được xem như một điểm mạnh đầu
tiên và cũng là điểm mạnh nhất cuả các nhà cung cấp dịch vụ Việt
Nam, đặc biệt là các công ty tư nhân trong nước. Điểm mạnh tiếp
theo chính là sự linh hoạt và tính thích ứng của các nhà cung cấp
dịch vụ Việt Nam.
b) Điểm yếu: Thiếu hệ thống quản lý chất lượng đạt chất lượng tốt là
điểm yếu nghiêm trọng nhất của các công ty dịch vụ Việt Nam, bao
gồm cả việc đáp ứng về mặt thời gian và sự sẵn sàng của dịch vụ.
Những điểm yếu tiếp theo là thiếu những nhà cung cấp dịch vụ có
năng lực cao, kỹ năng tiếp thị còn yếu kém, các chính sách và quy
định trong nước chưa cởi mở, và chưa đủ nguồn nhân lực có kỹ
5
năng phù hợp cho sự phát triển các ngành dịch vụ có tính cạnh tranh
cao.
c) Cơ hội: Việt Nam được xem như là một đối tác đầy hứa hẹn với rất
nhiều cơ hội cho xuất khẩu dịch vụ từ những nhu cầu lớn của các
công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam (Phương thức 2)
cũng như tiềm năng đầy khả quan về xuất khẩu dịch vụ thông qua
phương thức 1, 3 và 4 sang các nước láng giềng và một số thị trường
trọng điểm khác do môi trường ngày càng cạnh tranh và cởi mở ở
Việt Nam.
d) Nguy cơ và Thách thức: Sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường
quốc tế, khu vực và trong nước là thách thức lớn nhất đối với các
doanh nghiệp và ngành công nghiệp dịch vụ còn non trẻ của Việt
Nam.
Do đó, để đảm bảo cho một chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia
thành công, trước tiên cần tập trung vào khắc phục những điểm yếu chính
của các công ty dịch vụ Việt Nam, tiếp đó là xác định ra những dịch vụ có
khả năng cạnh tranh nhất và đề ra những biện pháp và chính sách phù hợp
để phát triển xuất khẩu các dịch vụ đó.
Dựa trên nghiên cứu với các công ty nước ngoài ở Việt Nam, các dịch
vụ sau được đề xuất để tập trung ưu tiên phát triển trong chiến lược xuất
khẩu dịch vụ quốc gia: dịch vụ phần mềm và máy tính, dịch vụ pháp lý,
dịch vụ tư vấn, dịch vụ công trình, dịch vụ kiến trúc, dịch vụ vận chuyển
hàng hoá và các dịch vụ về nghiên cứu và phát triển. Những dịch vụ này
đều được các công ty nước ngoài hiện đang hoạt động tại Việt Nam đánh
giá cao về khả năng cạnh tranh về các mặt giá cả, chất lượng và tính linh
hoạt. Bên cạnh đó, những dịch vụ này cũng đáp ứng đựơc những điều
kiện cơ bản của một ngành dịch vụ trọng điểm như có một hiệp hội ngành
hoạt động có hiệu quả, liên kết hỗ trợ kỹ thuật tốt, sẵn sàng về nguồn nhân
lực và có nhu cầu lớn trên thị trường khu vực và nội địa.
Để khắc phục những điểm yếu của các công ty dịch vụ Việt Nam, điểm
ưu tiên đầu tiên cần thực hiện là khắc phục những vấn đề về quản lý chất
lượng. Những biện pháp quan trọng nhất cần thực hiện là đào tạo về chất
lượng dịch vụ, cung cấp những chứng nhận và giấy phép chuyên môn, áp
dụng những bộ quy tắc ứng xử chuyên ngành, có được những chứng nhận
6
quốc tế và đưa ra những giải thưởng và các hình thức khuyến khích cho
những doanh nghiệp dịch vụ hoạt động có hiệu quả nhất. Nâng cao khả
năng về tiếp thị dịch vụ, khả năng tiếng Anh trong kinh doanh và đầu tư
phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo nghề nghiệp
liên tục cũng là những vấn đề rất cần thiết.
Chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia của Việt Nam sẽ cần phải có
bốn giai đoạn: Giai đoạn 1 là giai đoạn của các hoạt động chuẩn bị bao
gồm xác định các phương pháp thực hiện, tập hợp các hiệp hội ngành dịch
vụ và cả những nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam - những người mà
thậm chí chưa hiểu rõ là mình đã và đang thực hiện xuất khẩu dịch vụ của
mình- tham gia vào hoạt động. Giai đoạn 2 là giai đoạn xây dựng năng lực
với sự tham gia của chính phủ, hiệp hội, các giảng viên và các nhà cung
cấp dịch vụ thông qua hoạt động đào tạo, các tài liệu hỗ trợ cho quá trình
chuẩn bị, và khắc phục những hạn chế về chính sách và quy định. Giai
đoạn 3 tập trung vào các chiến lược chung nhằm nâng cao nhận thức và
thương hiệu Việt Nam với vị trí là nơi cung cấp dịch vụ xuất sắc. Giai
đoạn 4 là giai đoạn tạo dựng những sáng kiến cụ thể cho từng ngành, giai
đoạn này được định hướng thông qua sự phối hợp hoạt động giữa
VIETRADE và các hiệp hội ngành dịch vụ. Trong khi sự cạnh tranh quốc
tế về dịch vụ rất khốc liệt thì sự linh hoạt, khả năng thích ứng và nỗ lực
của các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam sẽ trở nên vô cùng mạnh mẽ khi
những rào cản và những mặt yếu kém được khắc phục, khi đó tiềm năng
phát triển xuất khẩu dịch vụ có giá trị gia tăng cao sẽ rất khả quan.
7
1. Bối cảnh của thương mại dịch vụ Việt Nam
Từ khi Việt Nam thực hiện chương trình Đổi mới vào năm 1986, đất
nước đã đạt được những bước tiến mạnh mẽ về tăng trưởng kinh tế với
tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tính theo đầu người là 5,9%. Bên
cạnh đó, chính sách mở cửa đã tạo đà cho sự tăng trưởng mạnh mẽ về
ngoại thương, tuy nhiên, Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu là những hàng
hoá có giá trị gia tăng thấp. Mặc dù ngoại thương đang gia tăng, nhưng
bình quân GDP theo đầu người trong năm 2003 vẫn ở mức thấp nhất
trong APEC là 480 USD/người.
Nhìn chung, giữa những năm 1986 và 1996, tỉ lệ tăng trưởng của
dịch vụ đạt mức bình quân cao hơn so với tăng trưởng kinh tế (xem Bảng
1). Trong suốt thời kỳ này, cơ chế thị trường đã được thực hiện và đã xoá
bỏ dần sự trợ cấp từ Nhà nước. Tuy nhiên, từ năm 1996, sự tăng trưởng
của dịch vụ đã giảm sút so với tỉ lệ tăng trưởng của kinh tế. Điều này trái
ngược với sự tăng trưởng của ngành dịch vụ toàn cầu, vì trong thời kỳ này
tăng trưởng của dịch vụ toàn cầu vẫn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng
GDP.
Bảng 1: Tỉ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của ngành dịch vụ
Việt Nam, giai đoạn
1986-2003.
5,7%Thời kỳ
Tăng trưỏng GDP
1990-19954,4%
1986-1990
1995-2000
2000-2003
8,2%
Tăng trưởng của
ngành dịch vụ
8,6%
7,0%
7,1%
5,7%
6,4%
Nguồn: Số liệu từ Tổng cục Thống kê (GSO), Niên giám số liệu (nhiều
năm)
Về thương mại quốc tế, Việt Nam đã thể hiện sức tăng trưởng trong
xuất khẩu dịch vụ (xem Bảng 2). Tuy nhiên, sức tăng trưởng đó không bắt
8
kịp được với sức tăng trưởng trong thương mại hàng hoá. Năm 2003, tỉ lệ
xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở dưới
với mức trung bình toàn cầu (20,3%) và thậm chí thấp hơn cả so với mức
trung bình của các nền kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi và đang phát triển
(15,6%). Đáng tiếc là phần được gọi là "những dịch vụ khác" mà không
được định rõ về khối lượng lại chiếm gần một phần tư trong xuất khẩu.
Việt Nam đã có những cam kết song phương và cam kết khu vực về tự do
tiếp cận thị trường đối với thương mại dịch vụ, nhưng điều quan trọng là
phải quan tâm tới việc đảm bảo cho Việt Nam có thể duy trì sức cạnh
tranh trong xuất khẩu dịch vụ.
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu và tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Việt
Nam giai đoạn
1997-2003.
Cơ cấu xuất khẩu (phần Tăng trưởng bình
Nguồn xuất
trăm trên tổng kim
quân hàng năm (%)
khẩu
ngạch XK)
1997
2000
2003
1997-00 2000-03
Hàng hoá
78,0
84,2
86,6
17,3
11,8
2,22,510,513,4Dị 22,0
15,8
13,4
2,2
5,0
ch vụ:
-26,0
10,5
7,1
289,0
10,5
9
Nguồn xuất
khẩu
-5,8
0,8
0,7
9,0
2,7
0,7
9,9
Du lịch18,5
0,1
0,8
17,7
Các dịch vụ
khác
Tài chính/Bảo
hiểm
Viễn thông
Khác
Vận tải
Dịch vụ của
Chính phủ
Cơ cấu xuất khẩu (phần Tăng trưởng bình
trăm trên tổng kim
quân hàng năm (%)
ngạch XK)
1997
2000
2003
1997-00 2000-03
0,3
0,3
0,6
26,0
32,6
3,0
0,2
1,9
0,1
2,2
0,1
-1,9
-1,5
5,7
16,6
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nhập khẩu dịch vụ đã tăng lên về mọi mặt, đặc biệt nhập khẩu dịch
vụ viễn thông và tỉ lệ gia tăng trong nhập khẩu cao hơn nhiều so với tỉ lệ
tăng trưởng xuất khẩu (xem Bảng 3). Trong khi khả năng cạnh tranh của
dịch vụ Việt Nam tăng lên, thâm hụt thương mại dịch vụ do tỉ lệ nhập
khẩu cao cũng tiếp tục tăng lên.
Bảng 3: Cơ cấu nhập khẩu và tỉ lệ tăng trưởng nhập khẩu của Việt
Nam giai đoạn
1997-2003.
10
Nguồn nhập
khẩu
Hàng hoá
Dịch vụ:
Các dịch vụ
khác
Tài chính/bảo
hiểm
Viễn thông
Khác
Cơ cấu nhập khẩu (%
trên tổng kim ngạch
NK)
1997
2000
2003
76,6
81,2
84,9
23,4
18,8
15,1
20,9
10,2
6,7
0,2
3,5
1,2
0,0
0,0
0,1
20,7
6,7
6,4
-36,6
212,1
38,7
-25,6
0,1
0,1
0,2
2,3
8,3
8,2
0,1
0,1
0,1
Du lịch
Vận tải
Dịch vụ của
chính phủ
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tăng trưởng bình
quân hàng năm (%)
1997-00
10,9
1,1
0,4
-23,3
14,5
9,3
2000-03
17,3
7,6
20,0
67,6
9,5
46,7
14,7
-1,6
Thâm hụt trong thương mại dịch vụ đã tăng lên về cơ bản là do sự
gia tăng thâm hụt trong dịch vụ vận tải (xem Bảng 4). Đội tàu của Việt
Nam đã khá cũ (lâu năm) và những hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng
tăng hiện nay phần lớn đều do các tàu nước ngoài chuyên chở. Hiện cũng
có sự thâm hụt ở mức vừa phải trong dịch vụ tài chính, tuy nhiên những
thiếu hụt này đang có xu hướng được hạn chế hơn. Với mục tiêu phù hợp,
Việt Nam hoàn toàn có khả năng bù đắp phần nhập khẩu về vận vận tải
thông qua sự tăng trưởng nhanh hơn của phần xuất khẩu "các dịch vụ
khác".
Bảng 4: Cán cân thương mại của Việt Nam, giai đoạn 1997-2003
(triệu USD).
Cán cân thương mại
Thay đổi bình quân
hàng năm
2003
1997-00 2000-03
-2.528
+577,7
-968,0
Các sản phẩm
Hàng hoá
1997
-1.357
2000
376
11
Cán cân thương mại
Thay đổi bình quân
hàng năm
2003
1997-00 2000-03
-1.040
+23,0
-163,3
656
+403,7
+43,7
-83
-41,7
+18,0
150
+8,7
+12,7
589
+436,7
+13,0
Các sản phẩm
1997
-619
-686
-12
86
-760
2000
-550
525
-137
112
550
Dịch vụ:
Các dịch vụ
khác
Tài chính/bảo
hiểm
Viễn thông
Khác
Du lịch
19
41
80
Vận tải
41
-1.117 -1.661
Dịch vụ cuả
7
1
6
chính phủ
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+7,3
-386,0
-2.0
+13,0
-181,3
+1.7
Một trong những nhận thức sai lệch rất phổ biến là Việt Nam hiện không
phải là một nước xuất khẩu dịch vụ có hiệu quả. Trên thực tế, nhiều doanh
nghiệp dịch vụ tư nhân đã phải xuất khẩu để tồn tại bởi thị trường trong
nước vẫn do các doanh nghiệp nhà nước chi phối. Bảng B1 liệt kê những
loại hình dịch vụ đã được xuất khẩu từ Việt Nam, tổng số là 69 loại. Xin
lưu ý rằng thực ra mỗi "loại hình" gồm nhiều dịch vụ cụ thể - ví dụ như
"dịch vụ tư vấn" gồm tư vấn về quản lý, tư vấn về thị trường, tư vấn về
thương mại quốc tế…
12
2. Cơ sở của Chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia.
2.1 Xuất khẩu dịch vụ có khác biệt gì?
Thực chất, các doanh nghiệp dịch vụ sẽ tiến hành bán một "lời hứa
thực hiện" (promise to perform). Trong tất cả các trường hợp, dịch vụ chỉ
xuất hiện khi khách hàng đồng ý mua. Thường thì một phần hoặc tất cả
dịch vụ được chi trả trước khi dịch vụ bắt đầu. Ví dụ như một người mua
một tấm vé máy bay mà không hề biết rằng liệu chuyến bay có xuất phát
hoặc đến nơi đúng giờ và liệu hành lý của họ có đến đúng đích hay không.
Điều này cho thấy có một yếu tố rủi ro khá lớn đối với người mua, và
khách hàng kiểm soát rủi ro này bằng cách hoặc thông qua những nhà
cung cấp đã quen biết, hoặc tìm kiếm thông tin về khả năng thực hiện của
nhà cung cấp dịch vụ mới có tiềm năng. Điều này có nghĩa là một cấu
phần khá quan trọng của chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia là xây
dựng lòng tin cho dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế để khách hàng
nước ngoài tin tưởng và chấp nhận rủi ro khi mua dịch vụ của Việt Nam.
Lòng tin có thể được xây dựng thông qua một loạt các chiến lược, bao
gồm những bước dưới đây:
Quảng cáo về những thành công trong xuất khẩu dịch vụ của Việt
Nam.
Nêu rõ/hiển thị các hoạt động xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam
trên các trang web về xúc tiến thương mại.
Đăng ký cho các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam trên các danh bạ
trực tuyến.
Chứng nhận cho các nhà cung cấp dịch vụ theo tiêu chuẩn và
chứng nhận được quốc tế thừa nhận
Các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam cần tăng cường thuyết trình
tại các cuộc hội thảo quốc tế
Để phần nào quản lý được rủi ro, khách hàng tiềm năng thường
thông qua sử dụng những hoạt động được giới thiệu cho họ ("ai cho bạn
biết về điều đó…") để lựa chọn ra những nhà cung cấp dịch vụ mới. Điều
này có nghĩa là các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam phải làm cho các tổ
chức cần dịch vụ biết đến mình. Điều này cũng có nghĩa là thông qua
13
công tác đào tạo, các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam cần được trang bị kỹ
năng về tiếp thị để xây dựng mạng lưới quan hệ kinh doanh.
Một cách khác mà các khách hàng tiềm năng sử dụng để quản lý rủi
ro là thông qua việc gặp gỡ với nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam để tự
mình đánh giá về khả năng của họ. Số lớn các dịch vụ không thể mang ra
thị trường một cách hiệu qủa thông qua các đại lý hoặc các nhà phân phối
trên thị trường như hàng hoá hữu hình. Do vậy, cần phải đào tạo kỹ năng
tiếp thị cho những người đứng đầu về lĩnh vực dịch vụ, những người mà
trước nay thường chỉ quan tâm đến những khía cạnh kỹ thuật của thiết kế
và chuyển giao dịch vụ. Điều này cũng có nghĩa là họ cần được đào tạo về
những vấn đề mang tính văn hoá để thiết lập nên quan hệ ban đầu tốt đẹp.
Trong khi các nhà xuất khẩu hàng hoá thu lời từ mạng lưới trong
nước thông qua các hệ thống đại lý hoặc nhà phân phối thì những nhà
cung cấp dịch vụ mới cho nước ngoài trước hết phải tạo ra mạng lưới
trong nước cho chính mình. Phương thức thực hiện bao gồm cộng tác với
các đối tác trong nước hoặc tham gia vào hiệp hội ngành dịch vụ trong
nước. Điều quan trọng ở đây là phải củng cố và có sự tham gia tích cực
của các hiệp hội ngành với vai trò là những đối tác xúc tiến thương mại
dịch vụ.
Tất cả các dịch vụ không được bảo hộ về cạnh tranh thông qua các
loại hình như quyền tác giả hay bằng sáng chế, mà cách tốt hơn là các
doanh nghiệp dịch vụ bảo vệ thị phần của mình thông qua những hoạt
động đổi mới, sáng tạo liên tục. Để thành công trên thị trường thế giới,
doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam cần phải có kỹ năng để có thể xác định
được những nhu cầu chưa được đáp ứng và tiến hành thiết kế những dịch
vụ để đáp ứng các nhu cầu này.
Thương mại hàng hoá thường tập trung vào những giao dịch qua
biên giới (cross-border). Khi Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ
(GATS) đã được đàm phán, một hiệp định đa phương đã được ký kết
trong đó dịch vụ được kinh doanh không chỉ qua biên giới mà còn thông
qua ba phương thức cung cấp được bổ sung (GATS 1:2):
Phương thức 1: Qua biên giới
14
“từ lãnh thổ một nước thành viên sang lãnh thổ nước thành viên
khác”
Ví dụ bao gồm email cho khách hàng ở nước ngoài, các bản vẽ thiết
kế trên mạng mở rộng (extranets) cho khách hàng ở nước ngoài, hoặc
giúp việc cho các văn phòng nước ngoài.
Phương thức 2: Tiêu thụ của khách nước ngoài
“từ lãnh thổ một nước thành viên cho khách hàng của dịch vụ thuộc
bất kì nước thành viên nào khác”
Ví dụ bao gồm dịch vụ cho khách du lịch nước ngoài, sinh viên
nước ngoài học ở Việt Nam, hoặc công ty dịch vụ Việt Nam cung cấp
dịch vụ cho các công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.
Phương thức 3: Đại diện thương mại
“của một nhà cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua
đại diện thương mại ở một nước thành viên khác”
Ví dụ văn phòng đại diện của các công ty dịch vụ ở nước ngoài,
như đại diện Hàng Không Việt Nam ở một số nước.
Phương thức 4: Có mặt của thể nhân
“thuộc một nhà cung cấp dịch vụ nước thành viên, thông qua sự có
mặt của một thể nhân ở lãnh thổ của bất kì nước thành viên nào khác”
Ví dụ là giảng viên, nhà thầu hay tư vấn người Việt Nam cung cấp
dịch vụ cho khách hàng trực tiếp qua chuyến làm việc ở nước ngoài, hoặc
cá nhân được thuê làm tạm thời ở nước ngoài.
Từ khi GATS có hiệu lực vào năm 1995, các hiệp định về thương
mại dịch vụ khác đã lấy bốn phương thức cung cấp này như một loại tiêu
chí cho thương mại dịch vụ. Bất kỳ chiến lược xuất khẩu dịch vụ nào
cũng cần xem xét năng lực sử dụng bốn phương thức cung cấp này.
Về chiến lược, đại bộ phận những nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam
đều có quy mô nhỏ và rất nhỏ. Do đó, xuất khẩu từ cơ sở ở Việt Nam sẽ
có hiệu quả tốt hơn về chi phí cho họ, so với đi ra nước ngoài hoặc thiết
lập hoạt động ở nước ngoài. Cách thức xuất khẩu ít đắt đỏ nhất là Phương
thức 2 – bán dịch vụ cho khách nước ngoài có mặt ở Việt Nam. Do đó,
chiến lược xuất khẩu dịch vụ quốc gia sẽ cần phải tập trung trước hết vào
15
việc làm thế nào để thúc đẩy cung cấp các dịch vụ của Việt Nam cho các
nhà đầu tư nước ngoài hiện có.
2.2 Trợ giúp xuất khẩu dịch vụ có gì khác biệt.
Một trong những vấn đề thách thức lớn nhất khi làm việc với các
nhà xuất khẩu dịch vụ là nhiều người trong số họ không xác định được
mình chính là nhà xuất khẩu. Đó là do một quan niệm thông thường rằng
"xuất khẩu" là phải đưa một sản phẩm ra khỏi biên giới. Chẳng hạn như
các luật sư về đầu tư, những người mà toàn bộ thân chủ của mình là người
nước ngoài (ở nước ngoài) có thể sẽ không nhận biết được rằng chính bản
thân họ là những nhà xuất khẩu do họ đang thực hiện các công việc về
luật pháp từ Việt Nam. Một ví dụ khác là phần lớn các nhà cung cấp dịch
vụ trung gian hiện đang cung ứng dịch vụ cho các công ty nước ngoài
cũng không xác định rằng mình là "nhà xuất khẩu". Bất cứ nghiên cứu
nào về các nhà xuất khẩu dịch vụ hoặc những sáng kiến dành cho họ cần
xác định rõ yếu tố nào tạo ra hoạt động xuất khẩu.
Nhìn vào triển vọng của việc trợ giúp, khu vực dịch vụ gồm nhiều
loại với trên 150 phân ngành dịch vụ khác nhau. Có ít nhất bốn loại hình
dịch vụ, mỗi loại hình cần những luồng thông tin thị trường và hình thức
trợ giúp phát triển thương mại khác nhau. Thứ nhất là dịch vụ liên quan
đến hàng hoá (chẳng hạn như đóng gói, giao nhận, môi giới hải quan, dịch
vụ vận tải). Do những dịch vụ này được kinh doanh giống như hàng hoá
nên chúng thường được gộp luôn vào những ý tưởng về xúc tiến thương
mại hàng hoá và có thể được thúc đẩy một cách có hiệu quả thông qua các
hội chợ thương mại. Thứ hai, một loại dịch vụ khác đã được thừa nhận có
những kênh riêng như giáo dục, du lịch và các dự án về vốn. Về cơ bản,
những dịch vụ này có thể được xúc tiến có hiệu quả khi tham gia vào các
hội chợ thương mại liên quan. Đối với dự án về vốn, thông tin dự thầu
nên luôn được duy trì trực tuyến. Thứ ba là dịch vụ chuyên môn, đây là
loại hình gặp phải một số thách thức. Những cản trở chủ yếu khi tiếp cận
thị trường là sự công nhận về chứng nhận chuyên môn, và đây cũng là
vấn đề nổi cộm trong các cuộc đàm phán thương mại. Về cơ bản, các dịch
vụ này được đưa ra thị trường thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề
hoặc những hoạt động quảng cáo khác. Thứ tư, có những dịch vụ "thuần
16
tuý", không liên quan đến hàng hoá và cũng không yêu cầu các tiêu chí
mang tính chuyên nghiệp. Những dịch vụ này có thể được đưa ra thị
trường thông qua các sự kiện quốc tế, tuy nhiên, thực ra chúng lại được
xúc tiến mạnh hơn thông qua những chiến lược làm theo yêu cầu của
khách hàng.
Trên thực tế từ trước đến nay, các nhà xuất khẩu dịch vụ thường
không dựa vào sự trợ giúp của chính phủ do những chủ trương về xúc tiến
thương mại quốc gia trước nay cơ bản chỉ hướng vào các nhà sản xuất
hàng hoá hữu hình. Kết quả là phần lớn các cơ quan chính phủ không hiểu
rõ về các loại hình dịch vụ xuất khẩu có hiệu quả ở Việt Nam. Nếu các
nhà xuất khẩu dịch vụ được tính đến trong các chủ trương/sáng kiến do
chính phủ định hướng thì những nhu cầu cần thiết sẽ được nêu ra và từ đó
có thể xác định những hình thức hỗ trợ thích hợp. Chẳng hạn như khi các
nhà cung cấp dịch vụ đến một văn phòng của Cục Xúc tiến Thưong mại,
họ có thể nhận được những tài liệu dành cho các nhà xuất khẩu dịch vụ,
không chỉ đơn thuần là những tài liệu dành cho các nhà xuất khẩu hàng
hoá.
Thông tin thị trường và tri thức thị trường (tin tức tình báo thị
trường), thường được gọi là cánh cửa cơ hội, thông thường chỉ có hiệu
quả trong vòng sáu tuần lễ. Điều này có nghĩa là ngoại trừ việc cung cấp
thông tin chung về các giải pháp xâm nhập thị trường, thì những nghiên
cứu thị trường ở phạm vi ngành dịch vụ không sử dụng được các thông tin
mau chóng bị lỗi thời. Các loại hình thông tin thị trường trên internet dành
cho các nhà xuất khẩu dịch vụ khác với thông tin thị trường cung cấp cho
các nhà xuất khẩu hàng hoá, cần bao gồm những loại sau:
Cơ sở hạ tầng viễn thông
Mức độ sử dụng Internet
Các yêu cầu kinh doanh mang tính tạm thời.
Các giải pháp về văn phòng mi-ni (ví dụ như Trung tâm Thương
mại thế giới)
Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, bao gồm cả các nhà cung
cấp của chính phủ.
Quan điểm đối với các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam (bao gồm
cả những mối liên hệ đặc biệt)
17
Hiệp hội ngành dịch vụ.
Cơ hội tại các hội thảo và trong mạng lưới.
Cơ hội đăng trên các báo
Những cuộc giao tiếp của người Việt Nam trên thị trường.
Các hình thức giao tiếp trên thị trường đã nghiên cứu ở Việt
Nam.
Về tri thức thị trường (tin tức tình báo thị trường), thông tin hữu ích
nhất chính là từ những phàn nàn của khách hàng, đó chính là những nhu
cầu chưa được đáp ứng.
Vai trò của các luồng thông tin thương mại trong quá trình lập kế
hoạch phát triển xuất khẩu dịch vụ cũng có khác biệt so với lập kế hoạch
xuất khẩu hàng hoá. Không giống như đối với hàng hoá trong đó số liệu
thương mại chi tiết hàng tháng giữa hai bên luôn sẵn có trong tài liệu hải
quan, số liệu thống kê thương mại dịch vụ thường được lấy từ báo cáo tài
chính hàng năm của các doanh nghiệp hay từ các ngân hàng trung ương,
do đó, sự chậm trễ sẽ là tất yếu và thông thường sẽ có độ trễ ít nhất 18
tháng. Thực tế, có rất ít số liệu thống kê thương mại dịch vụ của hai bên
và nếu có thì đó là những dữ liệu chủ yếu của những hoạt động trong/với
các nền kinh tế thị trường phát triển. Số liệu về thương mại dịch vụ luôn
có ở tổ chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc ngân hàng trung ương quốc gia, và
được báo cáo không theo hàng hoá dịch vụ trên thực tế mà theo một biểu
mẫu tổng hợp - đó là vận tải, du lịch, thông tin liên lạc, xây dựng, bảo
hiểm, dịch vụ tài chính, dịch vụ máy tính và thông tin, các dịch vụ khác
và dịch vụ cá nhân/văn hoá/giải trí. Do các cơ hội xuất khẩu dịch vụ cần
phải được nắm bắt và thực hiện nhanh chóng, nên về cơ bản thì các mạng
lưới liên lạc và tri thức thị trường sẽ thực sự hữu ích hơn so với các số
liệu thống kê trong việc xác định các thị trường mục tiêu có tiềm năng.
18
3. Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của dịch vụ
Việt Nam.
3.1 Tóm tắt về cách tiếp cận nghiên cứu và những phát hiện.
Để xác định được khả năng tiềm ẩn của dịch vụ Việt Nam, nghiên
cứu đã tiến hành trong các công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và
sử dụng công cụ khảo sát nêu trong Phụ lục A. 250 phiếu điều tra đã được
gửi theo email hoặc đường bưu điện đến các công ty nước ngoài và các
hiệp hội thương mại nước ngoài, trong đó có 102 đã gửi ý kiến phản hồi.
Trong số này, có 51 đơn vị (50%) là các nhà sản xuất nước ngoài, 46 đơn
vị (45%) là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và 5 đơn vị (5%) là các
hiệp hội nước ngoài. Về phân bổ địa lý của các công ty có phản hồi, 42
công ty châu Âu, 35 công ty Mỹ, 15 công ty Nhật và 5 công ty của Úc.
Bên cạnh đó, có 10 cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện với các nhóm
công ty, nhằm làm rõ hơn những vấn đề đã khảo sát qua phiếu và bám sát
hơn các vấn đề về khả năng cạnh tranh của các dịch vụ do các công ty
Việt Nam cung cấp.
Nghiên cứu đã khẳng định về những phát hiện của dự án "Giải pháp
và Khuyến nghị cho Chiến lược Phát triển tổng thể ngành Dịch vụ ở Việt
Nam đến năm 2020" (do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện), đó là các
công ty dịch vụ Việt Nam đang xuất khẩu nhiều loại hình dịch vụ thông
qua Phương thức 2 (sự tiêu thụ của người nước ngoài) cho các công ty
nước ngoài ở Việt Nam. Hầu hết các công ty nước ngoài mua những dịch
vụ này là những khách hàng quen. Các phát hiện khác gồm có:
a) Giá cả: 73,5% công ty tham gia khảo sát đánh giá về giá cả của
dịch vụ Việt Nam là tốt hoặc rất tốt.
b) Chất lượng: Chỉ có 37,3% đánh giá chất lượng của dịch vụ Việt
Nam là tốt và xuất sắc. Hầu hết những công ty tham gia khảo sát
cho rằng các công ty liên doanh hoặc công ty nước ngoài đang
hoạt động ở Việt Nam là những nhà cung cấp dịch vụ tốt hơn so
với công ty 100% vốn Việt Nam, đặc biệt là chất lượng của đội
ngũ cán bộ chuyên môn của họ.
19
c) Thời gian: 61,8% đánh giá thời gian cho việc chuyển giao dịch vụ
chỉ ở mức trung bình khá hoặc kém.
d) Các nhà cung cấp dịch vụ có đủ năng lực: 90,2% đánh giá mức
độ sẵn có các nhà cung cấp dịch vụ có đủ năng lực ở Việt Nam
chỉ ở mức trung bình hoặc kém.
e) Tiếp thị (marketing): Các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam cần cải
thiện hơn nữa kỹ năng tiếp thị của mình, đặc biệt là tiếp thị chính
bản thân mình để các tổ chức nước ngoài ở Việt Nam biết đến.
Hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài được điều tra đều phàn nàn
rằng rất khó có thể tìm ra được các nhà cung cấp dịch vụ trong
nước đáp ứng được yêu cầu, thậm chí tìm nguồn thông tin đáng
tin cậy về họ cũng khó.
Về triển vọng phát triển dịch vụ, 78,4% các công ty được khảo sát
đã đánh giá các ngành dịch vụ ở Việt Nam có triển vọng tốt hoặc rất tốt.
Tuy nhiên, chỉ có 42,1% các công ty tham gia khảo sát đánh giá phát triển
xuất khẩu dịch vụ từ Việt Nam sẽ có triển vọng tốt hoặc rất tốt. Trong các
cuộc phỏng vấn về chủ đề này, có một điều được làm rõ là mặc dù bốn
phương thức cung cấp đã được giải thích rõ ràng cho các công ty được
khảo sát (trong thư gửi cho họ), nhưng khi phúc đáp có một số người chỉ
xem xét về hoạt động xuất khẩu theo phương thức qua biên giới. Trong
quá trình phỏng vấn, khi được nghe giải thích lại, nhiều công ty thay đổi
quan điểm của mình và đánh giá cao tiềm năng xuất khẩu dịch vụ của
Việt Nam, đặc biệt là thông qua Phương thức 2 và cả Phương thức 1 và 4.
Thị trường cho các loại dịch vụ luôn sẵn có cho các công ty dịch vụ Việt
Nam, đặc biệt là nhu cầu từ các doanh nghiệp Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu
hiện đang hoạt động tại Việt Nam cũng như các nhà đầu tư và các công ty
từ các nước có thu nhập cao khác.
3.2 Phân tích SWOT
Những phân tích từ nghiên cứu và các hoạt động điều tra sử dụng
mô hình SWOT đã đưa ra một số phân tích về điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội và thách thức của các công ty xuất khẩu dịch vụ Việt Nam:
20
- Xem thêm -