Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật thi hành án hì...

Tài liệu Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật thi hành án hình sự việt nam

.PDF
85
39
94

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN TREO ........... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo......................................................................................................... 9 1.2. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo .................................................................................. 26 Chương 2. THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIỮ, ÁN TREO THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................................................................................. 36 2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo ........ 36 2.2. Kết quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam ......................................................................... 38 2.3. Nhận xét, đánh giá về tình hình thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo ...................................................................................................... 51 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN TREO Ở VIỆT NAM ..58 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo....................................................................................................... 59 3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo ....................................................... 65 3.3. Đảm bảo các điều kiện cần thiết và chế độ chính sách cho cán bộ làm công tác thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo .......................... 69 3.4. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo................................................................................... 73 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Án treo: AT Bộ luật hình sự: BLHS Bộ luật tố tụng hình sự: BLTTHS Cải tạo không giam giữ: CTKGG Thi hành án hình sự: THAHS Tố tụng hình sự: TTHS Ủy ban nhân dân: UBND Viện kiểm sát: VKS Viện kiểm sát nhân dân: VKSND MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án hình sự (THAHS) là lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, phức tạp, liên quan đến quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Công tác THAHS có vị trí quan trọng trong phòng, chống tội phạm và bảo vệ pháp luật. Đây là hoạt động mang tính hành chính, tư pháp liên quan đến quyền con người và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định thi hành bản án hình sự được thực hiện thống nhất, nghiêm minh. Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ (CTKGG), án treo (AT) là một bộ phận của hoạt động THAHS ở nước ta. Thi hành hình phạt CTKGG, AT được giao cho Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã thực hiện nhiệm vụ giám sát, giáo dục người chấp hành án. Đặc trưng quan trọng của việc thi hành hình phạt CTKGG, AT là người phải chấp hành án không bị cách ly khỏi xã hội, được sống, học tập trong môi trường bình thường dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án học tập, công tác. Vì vậy, việc thi hành có hiệu quả hình phạt CTKGG, AT có ý nghĩa quan trọng và góp phần thể hiện mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống. Xác định được ý nghĩa quan trọng của thi hành hình phạt CTKGG, AT, vì thế, trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt CTKGG, AT (bao gồm các quy định về trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành hình phạt CTKGG, AT; quyền, nghĩa vụ của người đang chấp hành án và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan trong thi hành hình phạt CTKGG, AT; rút ngắn thời gian thử thách của AT; việc giảm, 1 miễn thời hạn chấp hành án phạt CTKGG và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại ...) phân công cụ thể nhiệm vụ cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng AT, thi hành hình phạt CTKGG; tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan và gia đình trong việc giúp đỡ, giáo dục người chấp hành án; ... Nhờ đó, công tác thi hành hình phạt CTKGG, AT ngày càng đi vào nề nếp và đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần bảo đảm thi hành pháp luật được nghiêm minh, phục vụ có hiệu quả công tác phòng, chống các loại tội phạm, giữ vững an ninh, trật tự. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thi hành hình phạt CTKGG, AT còn bộc lộ sơ hở, thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phòng, chống tội phạm và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án như việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác giám sát, quản lý, giáo dục người chấp hành AT, CTKGG của các cơ quan có thẩm quyền chưa hiệu quả; sự phối hợp giữa các cơ quan Tòa án, Công an, Tư pháp, UBND cấp xã chưa chặt chẽ nên không nắm được số lượng và tình hình giáo dục, cải tạo của người thi hành hình phạt CTKGG, AT ở đơn vị, địa phương mình; biên chế, kinh phí, phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giám sát, quản lý, giáo dục người chấp hành án của chính quyền địa phương chưa được quy định cụ thể, rất khó triển khai thực hiện; cán bộ theo dõi thi hành án ở cấp xã không chuyên trách, trình độ, năng lực còn hạn chế, thường xuyên thay đổi, thiếu ổn định về tổ chức... Mặt khác, mặc dù Luật THAHS đã được thông qua từ năm 2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011, nhưng cho tới nay còn nhiều quy định liên quan đến thi hành hình phạt CTKGG, AT chưa có văn bản hướng dẫn; bên cạnh đó, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 2013) với các quy định cụ thể hơn về bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân, trong đó có lĩnh vực THAHS; Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2 2015 đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018, nội dung của các đạo luật này có nhiều quy định mới liên quan đến thi hành hình phạt CTKGG, AT nhằm tăng cường tính cưỡng chế của hình phạt CTKGG, AT. Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt CTKGG, AT theo quy định của Luật THAHS được đặt ra như một yêu cầu khách quan. Chính vì vậy, học viên chọn vấn đề: "Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THAHS nói chung, hình phạt CTKGG, AT nói riêng đã được các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn quan tâm. Nhờ đó, trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu, đề cập dưới các góc độ khác nhau, trong đó, đáng chú ý là các công trình sau: - ThS. Lê Văn Thư (2001), Công an nhân dân trong việc tổ chức thi hành án hình sự - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội; - PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (2008), Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật về công tác quản lý thi hành án ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Kỷ yếu Hội thảo Quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tư pháp, Hà Nội; - PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh và TS. Lê Văn Thư (2009), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thi hành án phạt tù, NXB Lao động, Hà Nội; 3 - Đặng Thị Thanh (2009), Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong thi hành án hình sự, Hội thảo quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc tế do Bộ Tư pháp phối hợp với UNDP tổ chức, Hà Nội, tháng 5/2009; - Vũ Hùng (2009), Vai trò, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát thi hành án hình sự, Hội thảo quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc tế do Bộ Tư pháp phối hợp với UNDP tổ chức, Hà Nội, tháng 5/2009; - GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (2011), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật thi hành án hình sự năm 2010 (Chủ biên), NXB Lao động, Hà Nội; - GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (2012), Bình luận khoa học Luật thi hành án hình sự, (Chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội; - GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh, Đại tá, TS. Lê Văn Thư, ThS. Phạm Thị Chung Thủy, CN. Công Phương Vũ (2012), Hỏi - đáp pháp luật về thi hành án hình sự Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội; - Nguyễn Minh Khuê (2016), Các hình phạt chính không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Tuy nhiên, do mục đích, cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các tác giả ở những góc độ khác nhau nên các công trình nêu trên mới chỉ dừng lại ở mức độ tổng kết từng mặt công tác thuộc về quản lý nhà nước, tổ chức và hoạt động công tác THAHS và đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót đối với mặt công tác đó dưới góc độ khoa học tội phạm học, giáo dục học, tâm lý học. Việc xây dựng và đánh giá việc thi hành các quy định của pháp luật về THAHS, bao gồm cả thi hành hình phạt CTKGG, AT chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì thế, việc nghiên cứu ở bình diện pháp luật cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động thi hành hình phạt CTKGG, AT từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao 4 hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành hình phạt CTKGG, AT là vấn đề mới, không trùng lặp với các công trình đã công bố và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành hình phạt CTKGG, AT; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt CTKGG, AT trong thời gian tới, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, bảo vệ quyền con người, tạo môi trường thuận lợi để đất nước phát triển kinh tế - xã hội. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: + Dưới góc độ lý luận, nghiên cứu làm sáng tỏ các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động THAHS nói chung, thi hành hình phạt CTKGG, AT nói riêng; + Phân tích, đánh giá thực trạng thi hành hình phạt CTKGG, AT theo quy định của pháp luật THAHS ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, đánh giá, ưu, nhược điểm và làm rõ nguyên nhân, tồn tại, hạn chế của việc thi hành hình phạt CTKGG, AT; + Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành hình phạt CTKGG, AT trong thời gian tới, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn thi hành hình phạt CTKGG, AT theo quy định của pháp luật THAHS Việt Nam. 5 - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Cụm từ viết tắt: “thi hành hình phạt CTKGG, AT” trong luận văn được hiểu là CTKGG là hình phạt còn AT là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ khoa học Luật hình sự, Luật TTHS và Luật THAHS, phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành hình phạt CTKGG, AT trên quy mô toàn quốc trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2017 (từ khi Luật THAHS có hiệu lực thi hành) thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Công an nhân dân. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống tội phạm nói chung, về THAHS nói riêng. - Trong quá trình thực hiện luận văn, học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Luật hình sự và TTHS cùng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, bao gồm: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phương pháp này được học viên sử dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn để phân tích các nguồn tài liệu đã được công bố về những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn, trên cơ sở đó tổng hợp để rút ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu. + Phương pháp phân tích: phương pháp phân tích được học viên sử dụng để phân tích các tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp, giúp học viên nắm rõ được tất cả các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Tài liệu sơ cấp bao gồm các văn bản pháp luật có liên quan, các báo cáo, số liệu thống kê chính thức của Cơ quan quản lý THAHS (Tổng cục VIII 6 Bộ Công an); các số liệu thống kê do học viên thực hiện thông qua tư vấn chuyên gia. Tài liệu thứ cấp bao gồm các bài báo đăng trên tạp chí, các kết luận đã được công bố. + Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để tổng hợp các số liệu, tri thức có được từ kết quả của phương pháp phân tích. Việc tổng hợp nhằm mục đích đưa ra những luận cứ, nhận xét và đề xuất của chính học viên về những vấn đề chung nhất của luận văn. + Phương pháp so sánh: trên cơ sở rà soát, tổng hợp các quy định trước đây và hiện nay của Đảng, Nhà nước và của Bộ Công an về thi hành hình phạt CTKGG, AT học viên phân tích làm rõ những điểm phù hợp và bất cập trong các quy định đó với cách nhìn nhận, đánh giá theo quan điểm lịch sử cụ thể, làm cơ sở để đề xuất các giải pháp. + Phương pháp tiếp cận hệ thống: những thông tin thu thập được về vấn đề nghiên cứu của luận văn sẽ được học viên hệ thống hóa theo một cấu trúc logic khoa học, qua đó giúp học viên có được nhận thức một cách biện chứng, tổng hợp, khái quát nhất về hoạt động thi hành hình phạt CTKGG, AT. + Phương pháp tổng kết thực tiễn: trong quá trình nghiên cứu luận văn, học viên thu thập, nghiên cứu những tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn về thi hành hình phạt CTKGG, AT theo pháp luật THAHS ở Việt Nam, qua đó phân tích, tổng hợp, thống kê để đưa ra những nhận định, kết luận về thực tiễn. + Phương pháp tư vấn chuyên gia: học viên lựa chọn những chuyên gia lý luận và những cán bộ làm công tác thực tiễn có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực THAHS nói chung, hình phạt CTKGG, AT nói riêng để đặt ra những câu hỏi nhằm khai thác sâu những thông tin về hoạt động này ở Việt Nam hiện nay. Thông tin thu thập được qua tư vấn chuyên gia là cơ sở quan trọng để học viên nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đưa ra 7 những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt CTKGG, AT ở Việt Nam trong tình hình mới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: từ việc nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động THAHS nói chung, thi hành hình phạt CTKGG, AT nói riêng, kết quả nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ và phong phú thêm những vấn đề lý luận, góp phần thống nhất nhận thức về tổ chức và hoạt động THAHS, thi hành hình phạt CTKGG, AT ở nước ta. - Về thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập của THAHS, thi hành hình phạt CTKGG, AT; đồng thời có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, hoạch định chính sách, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, bố trí lực lượng, phương tiện và các điều kiện bảo đảm khác trong công tác THAHS, thi hành hình phạt CTKGG, AT góp phần nâng cao hiệu quả công tác THAHS. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo. Chương 2. Thực trạng về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam. Chương 3. Các giải pháp nâng cao chất lượng thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo ở Việt Nam. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN TREO 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án hình sự 1.1.1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự THAHS là một trong những hoạt động quan trọng trong hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước ta. Đây là giai đoạn cuối trong hoạt động TTHS nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được đưa ra thi hành. Nó có vai trò quan trọng trong công tác quản lý, giáo dục đối với người phạm tội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực, hiệu quả của quyền lực Nhà nước. Việc làm rõ khái niệm về THAHS có ý nghĩa quan trọng cả ở bình diện lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu hoạt động THAHS ở Việt Nam hiện nay. Cho đến nay, các nhà khoa học pháp lý và hoạt động thực tiễn thường dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân chia các giai đoạn TTHS và trên cơ sở đó khẳng định vị trí của từng giai đoạn. Với quan niệm các giai đoạn TTHS là các phần độc lập, liên quan với nhau của quá trình TTHS, phân biệt với nhau bằng những quyết định tố tụng, có những nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau và những người tiến hành tố tụng tương ứng, có thủ tục, trình tự thực hiện các hành vi tố tụng và đặc tính của các quan hệ TTHS khác nhau, từ đó phân chia quá trình TTHS thành 5 (năm) giai đoạn khác nhau, đó là: (1) Khởi tố, điều tra vụ án; (2) Xét xử sơ thẩm; (3) Xét xử phúc thẩm; (4) Thi hành bản án và quyết định của Toà án; (5) Xét lại bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. 9 Trong khoa học luật TTHS, các nhà nghiên cứu lại chia quá trình TTHS thành các giai đoạn tương ứng với chức năng đặc thù của cơ quan và người tiến hành tố tụng, đó là: (1) Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; (2) Giai đoạn điều tra vụ án; (3) Giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; (4) Giai đoạn thi hành bản án và quyết định của Toà án. Căn cứ vào cách phân loại nêu trên, thì hoạt động thi hành bản án và quyết định của Toà án là một hoạt động độc lập, trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo luật định nhằm "hiện thực hoá" nội dung bản án và quyết định của Toà án về từng vụ án hình sự cụ thể. Vì thế, khi xem xét vị trí của hoạt động THAHS, không thể chỉ xem xét ở bình diện pháp luật TTHS về thi hành bản án và quyết định của Toà án. Luật TTHS chỉ điều chỉnh việc đưa bản án, quyết định hình sự của Toà án ra thi hành và giải quyết một số vấn đề thuộc về thủ tục phát sinh trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Toà án. Còn các quan hệ phát sinh sau khi bản án, quyết định hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nhiệm vụ thi hành bản án của người bị kết án, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức trong việc thi hành án, cũng như các quan hệ pháp lý khác nảy sinh trong quá trình thi hành án lại được điều chỉnh bằng Luật THAHS và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Vì những lý do đó, nên khi xem xét vị trí của hoạt động thi hành bản án và quyết định của Toà án đã có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà luật học, các cán bộ làm công tác thực tiễn, cụ thể là: Có ý kiến cho rằng: "Thi hành bản án và các quyết định của Toà án là giai đoạn của tố tụng hình sự". Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Toà án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật TTHS. Thực chất THAHS là hoạt động tố tụng của Toà 10 án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho bản án và quyết định của Toà án được thi hành nghiêm minh. Chủ thể chính của hoạt động tố tụng trong giai đoạn này là Toà án. Điều này cũng phù hợp với quy định của BLTTHS năm 2003 khi xác định nhiệm vụ của Bộ luật này là: "Quy định trình tự, thủ tục, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự" (Điều 1 BLTTHS năm 2003) [33]. Vì thế, việc thi hành bản án và quyết định của Toà án có vị trí là một giai đoạn của TTHS. Quan điểm khác lại cho rằng, thi hành bản án và quyết định của Toà án là một dạng của hoạt động chấp hành thuộc chức năng của cơ quan hành pháp. Xét về bản chất, giải quyết vụ án là hoạt động tố tụng, là quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án để ra quyết định xử lý vụ án theo thẩm quyền; chức năng giải quyết vụ án kết thúc khi Toà án ra bản án hoặc quyết định về giải quyết vụ án và bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật. Còn THAHS là giai đoạn thực hiện bản án, quyết định của Toà án trên thực tế và thuộc hoạt động chấp hành của cơ quan hành pháp. Vì vậy, hoạt động THAHS hoàn toàn mang tính hành chính mệnh lệnh của hoạt động hành pháp, tức là THAHS là hoạt động hành chính – tư pháp. Về mặt lý luận các quan điểm nêu trên đều có những lập luận xuất phát từ mục đích, bản chất, chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn của công tác THAHS. Các quan điểm về vị trí của THAHS đều có các khía cạnh hợp lý và đáng được nghiên cứu, xem xét. Tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng thi hành bản án và quyết định của Toà án không phải là giai đoạn TTHS như một số người quan niệm. Bởi vì, theo lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật thì căn cứ để phân định một ngành luật độc lập là dựa vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của ngành luật đó. Theo đó, toàn bộ hoạt động 11 trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Toà án cũng có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng. Đó là các quan hệ xã hội cụ thể nảy sinh trong quá trình thi hành, chấp hành bản án và quyết định của Toà án, giữa một bên là Nhà nước mà đại diện là hệ thống cơ quan, tổ chức THAHS và một bên là người bị kết án có nghĩa vụ phải chấp hành bản án, quyết định của Toà án. Để tổ chức thi hành các quy định của pháp luật về THAHS cần phải xác định cách thức tác động hay nói khác, đó chính là phương pháp điều chỉnh của pháp luật THAHS. Từ góc độ nghiên cứu này để xem xét thì thi hành bản án và quyết định của Toà án còn có phương pháp điều chỉnh riêng của mình - phương pháp quyền uy, mệnh lệnh. Mặt khác, theo nội dung quy định tại Điều 1 BLTTHS năm 2003 thì việc quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự... đều đi đến một mục đích cuối cùng là: "Nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội" [33]. Xem ở tiêu chí này thì các nhiệm vụ đặt ra của BLTTHS năm 2003 không do các cơ quan, tổ chức THAHS thực hiện. Việc xử lý tội phạm và người phạm tội đã kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Các cơ quan, tổ chức THAHS chỉ "hiện thực hoá" nội dung bản án và quyết định của Toà án mà thôi. Hay nói cách khác là bước thực hiện tiếp theo của hoạt động TTHS (điều tra, truy tố, xét xử). Lẽ đương nhiên, việc thực hiện bản án và quyết định của Toà án (còn gọi THAHS) phải theo trình tự, thủ tục luật định điều chỉnh. Theo quy định của Điều 27 BLTTHS năm 2003, các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Toà án không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà là cơ quan hành chính - tư pháp, điều này cũng đã được ghi nhận ở khoản 4 Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2011. Cùng đó, các quy định ở Chương III về người tham gia 12 tố tụng trong BLTTHS năm 2003 thì người bị kết án, cơ quan THAHS không được xác định là người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Từ những phân tích nêu trên, có thể đi đến kết luận, hoạt động thi hành bản án và quyết định của Toà án chủ yếu là hoạt động hành chính, tư pháp, nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự và TTHS. THAHS được hiểu là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành các hoạt động nhằm đưa các bản án, quyết định của Toà án về việc đưa bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế, bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. 1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án hình sự Từ khái niệm, vị trí của THAHS đã phân tích ở trên đây, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của THAHS, cụ thể như sau: Một là, THAHS là hoạt động mang tính quyền lực nhà nuớc, đặc điểm này thể hiện rõ nét ở việc đưa các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế, hoạt động THAHS phải do cơ quan, người có thẩm quyền được Nhà nước giao quyền thực hiện, nhằm thực hiện quyền lực nhà nước, mang tính chất chấp hành, điều hành. Hai là, THAHS phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Hoạt động THAHS là hoạt động nhạy cảm, phức tạp liên quan đến quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, có trường hợp liên quan đến việc tước tính mạng của một cá nhân - quyền cao nhất của con người (thi hành án tử hình), vì vậy, việc THAHS cần phải quy định chặt chẽ về trình trự, thủ tục để đảm bảo việc thi hành các bản án được cụ thể, rõ ràng tránh sai sót trong quá trình thực hiện. Ba là, THAHS mang tính bắt buộc thực hiện với tất cả các chủ thể kể cả chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước giao để đảm bảo việc thi hành án trên 13 thực tế và các chủ thể phải chấp hành án. Đối với các cơ quan, cá nhân được Nhà nước giao quyền, các tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện nhiệm vụ của mình và phối hợp chặt chẽ với nhau để bản án được thực thi hiệu quả; còn đối với người phải chấp hành án phải thực hiện nghiêm túc đầy đủ nghĩa vụ của mình mà bản án đã tuyên một cách bắt buộc không được quyền lựa chọn, nếu không sẽ chịu cưỡng chế của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 1.1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án hình sự THAHS là việc đưa các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Với quan niệm như vậy, THAHS là một hoạt động độc lập nhằm thực hiện bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, THAHS có ý nghĩa quan trọng, cụ thể là: Thứ nhất, nếu như Cơ quan điều tra, VKS, Toà án khi tiến hành các hoạt động TTHS là nhằm hướng tới mục đích là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, thì các cơ quan, tổ chức THAHS có trách nhiệm bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành kịp thời, triệt để, nghiêm minh, theo đúng các quy định của pháp luật. Với ý nghĩa này, THAHS trước hết nhằm thực hiện nguyên tắc công bằng và nguyên tắc không tránh khỏi hình phạt của luật hình sự. Thứ hai, THAHS còn có ý nghĩa là việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực THAHS chính là sự đòi hỏi các cơ quan và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án phải thực hiện đúng, nghiêm chỉnh, triệt để các quy định của pháp luật về THAHS. Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật về THAHS không những là nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức THAHS (trại giam, trại tạm giam, UBND xã, phường, thị trấn...) mà còn là trách nhiệm của tất cả những người bị Toà án 14 kết án. Họ phải tự giác chấp hành bản án, quyết định của Toà án, nếu không tự giác chấp hành hoặc trốn tránh thì sẽ bị Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế như áp giải thi hành án, truy nã... Trong khi chấp hành hình phạt, người chấp hành án phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định về quản lý, giám sát, giáo dục cải tạo của cơ quan, tổ chức THAHS có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Thứ ba, THAHS là phương tiện, là công cụ quan trọng, trực tiếp góp phần vào bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm, từng bước loại trừ những vi phạm pháp luật hình sự ra khỏi đời sống xã hội, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người chấp hành án. Xuất phát từ lợi ích của cả cộng đồng, Nhà nước bên cạnh việc thực hiện trừng trị người phạm tội, cũng có nhiệm vụ cải tạo, giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích cho xã hội. Còn người phạm tội khi đã bị Toà án kết án phải có nghĩa vụ chấp hành hình phạt, bị hạn chế những quyền, lợi ích như hạn chế tự do đi lại, tự do lựa chọn nơi cư trú, ... nhưng trong quá trình chấp hành án họ cũng có quyền được giáo dục, cải tạo và bảo đảm các quyền của mình. Trừng trị là biện pháp cần thiết để việc THAHS đạt được mục đích của mình là giáo dục và cải tạo người chấp hành án trở thành người có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa họ phạm tội mới. Thứ tư, THAHS còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa những người khác phạm tội. Nói cách khác, THAHS có đầy đủ ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Không thể giáo dục, cải tạo phạm nhân nếu như không giam giữ, quản chế họ chặt chẽ, buộc họ phải nghiêm chỉnh chấp hành quy chế, nội quy trại giam, không được trốn, chống phá trại giam hoặc tái phạm. Ngoài ý nghĩa phòng ngừa riêng đã nêu trên, thi hành án phạt tù còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh 15 chống và phòng ngừa tội phạm (phòng ngừa chung). Việc buộc người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân vào chấp hành án tại trại giam trong từng trường hợp cụ thể bao giờ cũng tác động đến tâm lý và hành động của các thành viên khác trong xã hội. Thứ năm, THAHS là một loại hoạt động áp dụng pháp luật. Hoạt động này ngoài mục đích giáo dục người chấp hành án trở thành người có ích cho xã hội, còn nhằm mục đích tổng kết, rút kinh nghiệm, bổ sung cho hoạt động lập pháp, hành pháp và hoạt động nghiên cứu khoa học. Thực tiễn THAHS thời gian qua cho thấy, để có thể đổi mới một cách cơ bản, đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động THAHS, từng bước khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động này cần có một hệ thống pháp luật về THAHS có tính pháp lý cao, được xây dựng một cách khoa học, đồng bộ, toàn diện, có tính khả thi và phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Thực tiễn THAHS sẽ là cơ sở, là nguồn tư liệu phong phú để nghiên cứu, thực hiện các đòi hỏi này. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo 1.1.2.1. Khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ Theo Từ điển Luật học, CTKGG là việc buộc người phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Từ sau năm 1945, CTKGG được quy định lần đầu tiên trong Luật Nghĩa vụ quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981: “Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, 16 bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm,…” [25]. Tại Điều 6 Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hóa hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, ….” [21]. Đến BLHS năm 1985 đã chính thức ghi nhận hình phạt CTKGG là một trong những hình phạt chính, tại Điều 24 BLHS năm 1985 và điểm 1, điểm 2 Nghị quyết số 02/1986/NQ-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định hình phạt này được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng và những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS năm 1985 quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn. Hình phạt CTKGG không áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng, kể cả trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. BLHS năm 1999 đã mở rộng diện áp dụng hình phạt CTKGG và tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người chấp hành án, phù hợp định hướng cải cách tư pháp, theo đó tại Điều 31 của BLHS năm 1999, hình phạt CTKGG được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội; tăng mức giới hạn thời gian CTKGG từ sáu tháng đến ba năm và việc khấu trừ phần trăm thu nhập là chế tài bắt buộc của hình phạt CTKGG, chỉ tùy nghi mức độ khấu trừ căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, thiệt hại gây ra cho xã hội và điều kiện, khả năng của người bị khấu trừ; Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản 17 án. Đến BLHS năm 2015 hình phạt CTKGG vẫn được quy định là một trong 07 hình phạt chính, so với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường tính giáo dục, cải tạo của hình phạt CTKGG, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình vận dụng pháp luật về hình phạt này, theo đó so với Điều 31 BLHS năm 1999, Điều 36 BLHS năm 2015 quy định về hình phạt CTKGG bổ sung các nội dung sau đây: Thứ nhất, không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự: theo Điều 4 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 thì thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân. Công dân phục vụ trong lực lượng Cảnh sát biển và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được coi là thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ. Thứ hai, trường hợp người bị phạt CTKGG không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian CTKGG. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Thứ ba, người bị kết án CTKGG phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định của Luật THAHS. Như vậy, có thể thấy hình phạt CTKGG là một loại hình phạt chính, về bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở việc người bị kết án dù được chấp hành án tại môi trường xã hội bình thường nhưng mọi việc làm của họ đều bị theo dõi, giám sát và việc áp dụng hình phạt này có nội dung, điều kiện và giới hạn áp dụng cụ thể riêng so với các hình phạt khác. Việc áp dụng hình 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan