ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC TRUNG
THẾ CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2021
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC TRUNG
THẾ CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Thị Hải Yến
Hà Nội - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất
cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN ĐỨC TRUNG
i
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ ................................................................................................ 6
1.1. Khái quát chung về thế chấp ...................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm thế chấp.................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của thế chấp ............................................................................ 7
1.2. Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ ................................................. 11
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ ............................................................. 11
1.2.2. Đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ........................................................ 14
1.2.3. Các loại quyền sở hữu trí tuệ: ............................................................... 16
1.3. Khái niệm và đặc trƣng của thế chấp quyền sở hữu trí tuệ...................... 18
1.3.1. Khái niệm thế chấp quyền sở hữu trí tuệ .............................................. 18
1.3.2. Đặc trƣng của thế chấp quyền sở hữu trí tuệ: ....................................... 19
1.3.3. Thế chấp quyền sở hữu trí tuệ và các biện pháp bảo đảm khác............ 20
1.4. Pháp luật về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ .............................................. 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 25
CHƢƠNG 2 THẾ CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 27
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ ........... 27
2.1.1. Đối tƣợng thế chấp quyền sở hữu trí tuệ............................................... 27
2.1.2. Chủ thể thế chấp quyền sở hữu trí tuệ................................................... 40
2.1.3. Phạm vi nghĩa vụ dân sự đƣợc bảo đảm ............................................... 44
2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong thế chấp quyền sở hữu trí tuệ ... 46
ii
2.1.5. Hình thức thế chấp quyền sở hữu trí tuệ. .............................................. 50
2.1.6. Định giá tài sản thế chấp quyền sở hữu trí tuệ ...................................... 52
2.1.7. Chấm dứt thế chấp quyền sở hữu trí tuệ ............................................... 55
2.1.8. Xử lý tài sản thế chấp quyền sở hữu trí tuệ........................................... 56
2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về thế chấp quyền sở
hữu trí tuệ ........................................................................................................ 59
2.2.1. Kết quả đạt đƣợc ................................................................................... 59
2.2.2. Hạn chế còn tồn tại:............................................................................... 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 70
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM ...... 71
3.1. Cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam .. 71
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam ...................................................................................................72
3.2.1. Bổ sung, sửa đổi các quy định của pháp luật hiện hành ....................... 72
3.2.2. Xây dựng chính sách hỗ trợ thế chấp quyền sở hữu trí tuệ: ................. 79
3.2.3. Tăng cƣờng công tác quản lý, xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ: ..... 80
3.2.4. Tăng cƣờng năng lực của chủ thể nhận thế chấp quyền sở hữu trí tuệ: .... 81
3.2.5. Nâng cao năng lực nhận thức của chủ sở hữu: ..................................... 82
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85
iii
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tài sản trí tuệ nói chung là thành quả của lao động sáng tạo. Đó là một
loại tài sản vô hình đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng trong đời sống vật chất cũng nhƣ đời sống tinh thần của con ngƣời. Giá
trị của tài sản trí tuệ mang lại không dễ dàng tính toán thông qua việc cân
bằng giữa chi phí và lợi nhuận, mà phải xác định thông qua khả năng cạnh
tranh, hiệu quả kinh doanh, giá trị tinh thần… mà tài sản đó mang lại cho chủ
sở hữu. Chính bởi những vai trò to lớn của mình, trong nhiều doanh nghiệp,
tài sản trí tuệ đã trở thành một nguồn vốn khổng lồ, giúp nâng cao giá trị của
công ty lên gấp nhiều lần. Quyền sở hữu trí tuệ là loại tài sản trí tuệ đƣợc
pháp luật tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam thừa nhận,
đƣa ra những định nghĩa cụ thể và xây dựng hành lang pháp lý để bảo vệ.
Trong xu thế hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc
thƣơng mại hóa loại tài sản này càng đƣợc đẩy mạnh phát triển với rất nhiều
ƣu điểm nhƣ: giá trị cao, không bị giới hạn về kích thƣớc vật lý, dễ dàng
chuyển giao…. Do đó, đây là loại tài sản khá lý tƣởng khi đƣa vào các giao
dịch, không chỉ là đối tƣợng trực tiếp mà còn có thể là tài sản để thực hiện
biện pháp bảo đảm.
Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều giao dịch cần đến tài sản bảo
đảm. Tuy nhiên, phổ biến và dễ dàng nhận thấy nhất đó chính là các hợp đồng
tín dụng có thế chấp. Tài sản thế chấp có thể là động sản (ví dụ: ô tô, xe
máy…), bất động sản (ví dụ: nhà, quyền sử dụng đất…), có thể là tài sản đang
hiện hữu hoặc thậm chí là tài sản hình thành trong tƣơng lai. Với bối cảnh
hoạt động của các tổ chức tín dụng gặp nhiều rủi ro khi động sản mang thế
chấp có tỉ lệ khấu hao lớn, thị trƣờng bất động sản không mấy khởi sắc, hơn
1
thế còn gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ, dẫn đến việc định
giá tài sản đƣợc siết chặt hơn, nguồn vốn của doanh nghiệp hoặc cá nhân huy
động đƣợc thông qua cấp tín dụng cũng bị hạn chế hơn. Vì vậy, thêm một lựa
chọn tài sản thế chấp là quyền sở hữu trí tuệ sẽ mang lại một giải pháp mới
hiệu quả với cả hai phía.
Tuy nhiên, việc chấp nhận quyền sở hữu trí tuệ là tài sản thế chấp trong
các giao dịch tại Việt Nam còn rất nhiều điều vƣớng mắc. Bên cạnh thói quen,
tâm lý ngại thay đổi, ngại rủi ro, ƣa chuộng tài sản hữu hình thì hành lang
pháp lý nƣớc ta đang có nhiều lỗ hổng lớn khiến cho việc thực hiện các giao
dịch thế chấp quyền sở hữu trí tuệ trở thành bất khả thi, vô hình chung đã biến
một tài sản có giá trị cao trở nên vô nghĩa.
Xuất phát từ trực trạng này, học viên lựa chọn đề tài “Thế chấp quyền sở
hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam” để nhìn nhận, phân tích dƣới nhiều góc
độ lý luận pháp lý và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, học viên xây dựng
những kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt
Nam, đảm bảo tính thiết thực và nâng cao giá trị của quyền sở hữu trí tuệ nói
riêng và tài sản trí tuệ nói chung trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
2.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1.
Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Thế chấp quyền sở hữu trí tuệ là câu chuyện “cũ ngƣời, mới ta”, bởi hoạt
động này đã đƣợc triển khai ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chế định này cũng
đã xuất hiện trong rất nhiều bài nghiên cứu trƣớc và sau khi áp dụng hình thức
giao dịch bảo đảm này, để phân tích tính khả thi cũng nhƣ hiệu quả của việc
đƣa quy định vào thực tiễn. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan
đến hình thức thế chấp quyền sở hữu trí tuệ có thể kể đến nhƣ:
- Louise Gullifer (ed), Goode on Legal Problems of Credit and
Security, Sweet & Maxwell, 5th edn, 2013.
2
- Parsons (T-N.), Lingard’s Bank Security Documents, 5th edn, 2011.
- Brian W. Jacobs, Using Intellectual Property to Secure Financing after
the Worst Financial Crisis Since the Great Depression, 2011.
- Neumyer, D, Future of Using Intellectual Property and Intangible
Assets as Collateral, The Secured lender, 2008.
- Intellectual Property and Access to Finance for High Growth
SMEs, European Commission Directorate-General for Enterprise and
Industry, Discussion Paper, Brussels, November 14, 2006.
2.2.
Tình hình nghiên cứu trong nước:
Pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ ở nƣớc ta thuộc loại “sinh sau, đẻ
muộn”. Tuy nhiên, với những sự học hỏi, tiến bộ trong hoạt động lập pháp
cũng nhƣ thông qua tiến trình hội nhập, là thành viên của nhiều tổ chức thế
giới, ký kết nhiều điều ƣớc quốc tế về lĩnh vực này, vấn đề quyền sở hữu trí
tuệ tại Việt Nam ngày càng nhận đƣợc nhiều sự quan tâm hơn. Trong suốt quá
trình xây dựng và phát triển, có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
loại tài sản này. Đặc biệt, với tƣ cách là một loại tài sản trong giao dịch bảo
đảm, quyền sở hữu trí tuệ cũng xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm dƣới
nhiều góc nhìn từ kinh tế đến luật học, một số công trình tiêu biểu nhƣ:
- Trần Thị Thu Hƣờng, Cho vay dự trên tài sản đảm bảo là tài sản trí tuệ
- Cơ hội, thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí Khoa
học và Đào tạo ngân hàng, số 170, tháng 07/2016.
- Ths. Nguyễn Trƣờng Giang, Ths. Bùi Đức Giang, Đi tìm triết lý thế
chấp quyền tài sản trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 07,
tháng 04/2012.
- Vƣơng Khánh Huy, Thế chấp quyền tài sản theo pháp luật Việt Nam
hiện hành và thực tiễn thực hiện tại các ngân hàng thương mại, Luận văn
Thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội, 2018.
3
Mặc dù rất nhiều bài viết đều hƣớng đến đối tƣợng là tài sản trí tuệ, tài
sản vô hình hoặc quyền tài sản nói chung theo quy định của Bộ luật Dân sự,
tuy nhiên bên cạnh đó, có rất nhiều học giả nghiên cứu và phân tích theo khía
cạnh kinh tế, đặc biệt ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng mà không đi sâu vào
vấn đề lý luận lập pháp. Tóm lại, tính đến thời điểm hiện tại ở nƣớc ta chƣa có
một công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết và toàn diện về hình thức thế
chấp quyền sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn tập trung
nghiên cứu và tổng hợp một số vấn đề còn tồn tại cần thiết phải thay đổi, góp
một góc nhìn mới cho quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
3.
Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài này, luận văn hƣớng tới một số mục đích sau đây:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ
trong pháp luật Việt Nam;
- Trà lời đƣợc câu hỏi: “Tại sao, đến tận bây giờ, hình thức thế chấp
quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn còn là điều lạ lẫm?”. Đánh giá thực
trạng áp dụng quy định về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ ở nƣớc ta hiện nay
trong mối tƣơng quan với một số quốc gia trên thế giới;
- Nhận diện những nguyên nhân, khó khăn và thách thức trong môi
trƣờng pháp lý tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần
xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và kiếm tìm thêm những giải pháp
mới cho hoạt động giao dịch bảo đảm.
4.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu của bài luận văn, học viên giới hạn đối
tƣợng và phạm vi nghiên cứu tập trung vào các nội dung cụ thể sau đây:
- Các vấn đề lý luận về hình thức bảo đảm thế chấp và quyền sở hữu trí
tuệ trong tƣ cách là tài sản thế chấp;
- Các quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ƣớc quốc tế mà Việt
Nam ký kết, tham gia liên quan đến lĩnh vực này cùng tình hình thực tế khi áp
dụng các quy định đó;
4
- Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu hành lang pháp lý về chế định này và
thực tiễn triển khai tại một số quốc gia khác.
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Với hệ thống đối tƣợng và các mục đích đƣợc xây dựng ở trên, việc nghiên
cứu đề tài này đƣợc thực hiện trên nền tảng những phƣơng pháp sau đây:
- Phƣơng pháp luận triết học Mác – Lênin, nghiên cứu khoa học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phƣơng pháp phân tích, luận giải đối với các khái niệm pháp lý;
- Phƣơng pháp điều tra, thống kê khi đánh giá tình hình thực tiễn;
- Phƣơng pháp đối chiếu, so sánh, tổng hợp… để dễ dàng thấy đƣợc
những điểm mạnh và hạn chế còn tồn tại của hệ thống pháp luật nƣớc nhà.
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Công trình nghiên cứu này hƣớng tới một đề tài về thế chấp quyền sở
hữu trí tuệ, không hoàn toàn mới nhƣng mang giá trị học thuật chuyên sâu và
các góc nhìn cận cảnh hơn trong vấn đề này. Luận văn làm sáng tỏ nhiều góc
khuất khi áp dụng chế định này tại Việt Nam từ góc độ lý luận đến thực tiễn.
Đặc biệt, cùng với sự học hỏi kinh nghiệm của một số nƣớc, những kiến nghị,
giải pháp đƣợc đề xuất trong luận văn đảm bảo tính khả thi cao. Kết quả
nghiên cứu này sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị ứng dụng trong
việc củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
7.
Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn đƣợc xây dựng thành ba chƣơng, cụ thể:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về thế chấp quyền sở hữu trí tuệ.
Chƣơng 2: Thế chấp quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thế chấp quyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam.
5
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẾ CHẤP QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ
1.1. Khái quát chung về thế chấp
1.1.1. Khái niệm thế chấp
Thế chấp tài sản theo giải thích của Từ điển Tiếng Việt là dùng vật bảo
đảm, thay thế cho số tiền vay nếu không có khả năng trả đúng kỳ hạn [44]. Cách
định nghĩa này đã phần nào cho thấy đƣợc sự phổ biến của một hình thức bảo
đảm trong giao dịch dân sự nói chung và hoạt động cấp tín dụng nói riêng.
Trong quan hệ nghĩa vụ và hợp đồng, bên có nghĩa vụ phải thực hiện
đúng và đầy đủ nghĩa vụ trƣớc bên có quyền. Tuy nhiên, trên thực tế vì các lý
do chủ quan hoặc khách quan, việc không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ của một bên sẽ dẫn đến hậu quả là xâm phạm quyền lợi
của bên còn lại. Trong những trƣờng hợp đó, các biện pháp bảo đảm đƣợc áp
dụng nhằm góp phần hạn chế thiệt hại, ngăn chặn rủi ro cho bên mang quyền.
Thế chấp tài sản là một biện pháp bảo đảm đƣợc áp dụng một cách phổ biến
và rộng rãi. Đối tƣợng của thế chấp thƣờng là những tài sản có giá trị lớn và
biện pháp này xuất hiện nhiều trong việc bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán
khoản vay tại các ngân hàng thƣơng mại hoặc tổ chức tín dụng.
Khái niệm thế chấp tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam đã có nhiều
thay đổi đáng kể trong lịch sử lập pháp. Bộ luật Dân sự năm 1995 đã xác định
rất rõ: “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền”
[2, Điều 346]. Quy định này có sự tƣơng đồng về đối tƣợng so với quan điểm
của các nhà làm luật của Pháp trong Bộ luật Dân sự. Cụ thể, tại Điều 2114 Bộ
luật này định nghĩa: “Thế chấp là một quyền tài sản đối với bất động sản
6
được sử dụng đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ”, và đƣợc khẳng định lại rõ
ràng hơn tại Điều 2119: “Động sản không thể trở thành đối tượng của thế
chấp” [32]. Điểm khác biệt là trong Bộ luật Dân sự Pháp, các nhà lập pháp
nhìn nhận thế chấp dƣới góc độ là một quyền tài sản (vật quyền) chứ không
phải một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Tuy nhiên, BLDS năm 2005 và gần đây nhất là BLDS năm 2015 có một
sự thay đổi vô cùng quan trọng: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây
gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế
chấp) [4, Điều 317]. Quan điểm này có sự thay đổi khá nhiều so với nội dung
trong Bộ luật năm 1995, đồng thời cũng là một quan điểm phổ biến, xuất hiện
tại hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong Bộ luật Dân sự
và Thƣơng mại Thái Lan, các nhà lập pháp định nghĩa thế chấp theo khía
cạnh là một giao dịch hợp đồng, cụ thể Điều 702 Bộ luật này quy định: “Hợp
đồng thế chấp là hợp đồng qua đó người gọi là người thế chấp nhượng một
tài sản cho một người khác, gọi là người nhận thế chấp như một bảo đảm để
thi hành một nghĩa vụ, nhưng không giao tài sản đó cho người nhận thế
chấp” [40].
Xét trong mối tƣơng quan giữa các biện pháp bảo đảm thì thế chấp và
cầm cố có nhiều nội dung tƣơng đồng. Điểm khác biệt cơ bản nhất là việc có
chuyển giao hay không chuyển giao tài sản bảo đảm cho bên có quyền. Nếu
bên có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên có quyền giữ thì là biện pháp
cầm cố, ngƣợc lại nếu tài sản bảo đảm vẫn do bên có nghĩa vụ giữ thì đó là
biện pháp thế chấp.
1.1.2. Đặc điểm của thế chấp
Thế chấp là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự, vì vậy thế chấp mang những đặc điểm chung của các biện pháp bảo đảm:
7
- Biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính: Điều
đó có nghĩa, thế chấp chỉ đƣợc áp dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ chính nếu
nghĩa vụ đó vẫn còn hiệu lực và chƣa đƣợc thực hiện. Nếu nghĩa vụ chính
chấm dứt thì quan hệ thế chấp cũng chấm dứt.
- Đƣợc xác lập theo sự thỏa thuận giữa các bên trong giao dịch dân sự:
Thế chấp cũng nhƣ các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác
không phải là yếu tố bắt buộc trong các giao dịch dân sự. Tùy theo khả năng
và nhu cầu của các bên tham gia giao dịch, một hoặc một số biện pháp bảo
đảm có thể đƣợc sử dụng, phù hợp với mục đích của giao dịch dân sự.
- Đối tƣợng sử dụng là các lợi ích vật chất: Phần lớn các biện pháp bảo
đảm đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 sử dụng tài sản để bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tài sản hay các lợi ích vật chất có
đặc điểm là có thể định giá và từ đó có thể xác định đƣợc phạm vi bảo đảm
đối với nghĩa vụ dân sự chính.
- Phạm vi bảo đảm không vƣợt quá phạm vi nghĩa vụ chính: Các biện
pháp bảo đảm gắn liền và có ý nghĩa bổ sung cho nghĩa vụ chính. Vì vậy,
phạm vi bảo đảm của các biện pháp này cũng không đƣợc vƣợt quá phạm vi
của nghĩa vụ chính.
- Chỉ đƣợc áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ dân sự đƣợc bảo đảm:
Điều kiện để thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm là sự vi phạm nghĩa vụ dân
sự chính đƣợc bảo đảm. Theo đó, khi nghĩa vụ chính đƣợc hoàn thành theo
thỏa thuận, quan hệ thế chấp cũng mặc nhiên chấm dứt.
Bên cạnh những đặc điểm chung, thế chấp còn thể hiện những bản chất
mang tính đặc thù, khác biệt so với các biện pháp bảo đảm còn lại:
- Là biện pháp bảo đảm đối vật nhƣng quyền của bên nhận thế chấp là
quyền đối nhân:
Thế chấp là việc sử dụng tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
8
dân sự. Do đó, quyền của bên nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp là vật
quyền bảo đảm.
Một là, thế chấp tài sản hạn chế quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản.
Thay vì phải chuyển giao tài sản cho bên có quyền thì chủ sở hữu vẫn tiếp tục
đƣợc chiếm hữu, sử dụng tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, quyền định đoạt thì đã
đƣợc tạm thời kiểm soát bởi ngƣời nhận thế chấp.
Hai là, tính ƣu tiên thanh toán. Thế chấp tài sản cho phép bên nhận thế
chấp thực hiện quyền ƣu tiên thanh toán của mình đối với tài sản bảo đảm
trƣớc những chủ thể khác xác lập vật quyền sau. Trong đặc điểm này, quy
định về việc đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ quan có thẩm quyền đƣợc
quan tâm hàng đầu trong vấn đề xác lập thứ tự ƣu tiên.
Ba là, tính đối kháng với ngƣời thứ ba. Đặc điểm này có thể coi là một
quyền phái sinh của quyền ƣu tiên. Tuy nhiên, để đối kháng với ngƣời thứ ba
có giá trị pháp lý thì bắt buộc các bên tham gia quan hệ dân sự phải tiến hành
đăng ký giao dịch bảo đảm theo luật định. Khi tài sản bảo đảm đã đƣợc công
khai với bên thứ ba theo cơ chế này, quyền ƣu tiên đƣợc xác lập trực tiếp trên
tài sản mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể hƣởng quyền khác.
Bốn là, tính theo đuổi. Thế chấp cho phép chủ thể thực hiện quyền của
mình đối với tài sản bảo đảm ngay cả khi tài sản đó đang thuộc sự chiếm hữu
của chủ thể khác. Điều này thể hiện rất rõ nét trong các trƣờng hợp tài sản bảo
đảm đang đƣợc bên thế chấp cho thuê, mƣợn... theo quy định pháp luật.
Bản chất thế chấp là vật quyền bảo đảm nhƣng quan hệ thế chấp là quan
hệ giữa hai chủ thể, chứ không phải là quan hệ có tác dụng xác lập quyền trực
tiếp của bên nhận thế chấp đối với tài sản. Trong quan hệ thế chấp, bên nhận
thế chấp có quyền yêu cầu bên thế chấp phải thực hiện nghĩa vụ quản lý tài
sản bảo đảm để không bị suy giảm giá trị tài sản, không đƣợc chuyển nhƣợng
cho ngƣời thứ ba. Ngoài ra, bên thế chấp phải chuyển giao tài sản cho bên thế
9
chấp nếu không thực hiện nghĩa vụ dân sự đƣợc bảo đảm.
- Không có sự chuyển giao tài sản thế chấp:
Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt thế chấp với các biện pháp bảo
đảm khác, đặc biệt là cầm cố. Tài sản bảo đảm do bên thế chấp giữ hoặc các
bên có thể thỏa thuận giao cho ngƣời thứ ba giữ tài sản thế chấp. Chính bởi
điều này, bảo đảm nghĩa vụ bằng thế chấp có tác dụng tạo ƣu thế ƣu tiên của
chủ nợ trong mối quan hệ với các chủ thể mang quyền khác liên quan đến
việc xử lý tài sản bảo đảm. Chính vì vậy, đặc điểm này đã khiến cho thế chấp
trở thành một giải pháp tuyệt vời trong các giao dịch dân sự có tài sản bảo
đảm. Thay vì phải chuyển giao tài sản cho bên có quyền thì bên thế chấp chỉ
cần chuyển giao các tài liệu, hồ sơ pháp lý liên quan đến tài sản thế chấp nhƣ
giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy tờ bắt buộc khác để ngăn chặn việc
định đoạt tài sản. Trong khi đó, bên thế chấp vẫn có thể khai thác giá trị của
tài sản mà lợi ích của các bên tham gia vẫn đạt đƣợc.
Những tài liệu, giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc liên quan đến tài
sản thế chấp có thể là giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu tài sản theo quy
định của pháp luật nhƣ: giấy đăng ký xe ô tô, xe mô tô...; giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất; hợp
đồng, chứng từ mua bán tài sản hình thành trong tƣơng lai.... Các loại tài liệu
này đƣợc giao cho bên nhận thế chấp quản lý nhằm ngăn chặn khả năng định
đoạt tài sản của bên thế chấp trong thời gian hợp đồng thế chấp vẫn còn hiệu
lực. Mặc dù vậy, các chủ thể trong quan hệ thế chấp vẫn đƣợc pháp luật trao
quyền thỏa thuận và quyết định việc bàn giao các giấy tờ liên quan đến tài sản
thế chấp cho bên nhận thế chấp.
- Một tài sản có thể thế chấp trƣớc nhiều bên nhận thế chấp để bảo đảm
cho nhiều nghĩa vụ khác nhau.
Đối chiếu với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có sử
10
dụng tài sản bảo đảm thì thế chấp thể hiện đƣợc tính ƣu việt khi có thể sử
dụng một tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ của các chủ thể quyền khác
nhau. Điều 296 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rất rõ: “Một tài sản có thể
dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị tại thời điểm xác
lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Đối với
biện pháp cầm cố quy định này không thể hiện thực hóa trên thực tế bởi lẽ
một tài sản cầm cố không thể chuyển giao cùng một lúc cho nhiều bên nhận
cầm cố. Tuy nhiên, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật nêu
trên, một tài sản vẫn có thể vừa sử dụng để thế chấp và cầm cố để bảo đảm
cho nhiều nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ: Anh Nguyễn Văn X sử dụng tài sản là
chiếc ô tô Vinfast Lux A 2.0 trị giá 1,2 tỷ đồng thế chấp tại ngân hàng A để
bảo đảm cho khoản vay 100 triệu đồng, đồng thời vẫn tài sản đó, anh X thế
chấp tại ngân hàng B để vay 200 triệu đồng. Sau đó, anh X cầm cố tài sản này
tại công ty F để vay 500 triệu đồng. Nhƣ vậy chỉ một tài sản nhƣng biện pháp
thế chấp đã thể hiện đƣợc tính linh hoạt để giá trị của tài sản bảo đảm đƣợc
khai thác một cách triệt để nhất.
1.2. Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên đƣợc ban hành, những quy định rõ ràng
về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ đã tạo một dấu mốc quan
trọng trong công tác lập pháp ở lĩnh vực này. Tuy nhiên, sau khi Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 đƣợc thông qua, quyền sở hữu trí tuệ thực sự trở thành các đối
tƣợng đƣợc chú trọng, đánh dấu một bƣớc tiến trong chính ngành lập pháp.
Có rất nhiều các cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
hiện nay. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO đã định nghĩa: “Sở hữu trí
tuệ, theo nghĩa rộng, là quyền hợp pháp xuất phát từ hoạt động trí tuệ trong
11
các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật” [51, tr.13]. Điểm
đáng chú ý của cách giải thích này là khái niệm “hợp pháp”, có nghĩa rằng
quyền đó phải đƣợc quy định trong hệ thống pháp luật. Điều này thể hiện rất
rõ trong việc quy định cụ thể từng loại quyền sở hữu trí tuệ đi kèm các quyền
năng riêng biệt của chủ sở hữu.
Cần có sự phân biệt rành mạch giữa khái niệm quyền sở hữu trí tuệ và tài
sản trí tuệ. Thuật ngữ “tài sản trí tuệ” cũng xuất hiện trong quy định tại Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2005: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” [8, Điều
4]. Theo cách định nghĩa này, tài sản trí tuệ chính là các đối tƣợng của quyền
sở hữu trí tuệ, bao gồm: các đối tƣợng của quyền tác giả, quyền liên quan đến
quyền tác giả, gồm: tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chƣơng trình phát sóng; các đối tƣợng của quyền sở hữu
công nghiệp, gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thƣơng mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và
các đối tƣợng của quyền đối với giống cây trồng gồm: vật liệu nhân giống và
vật liệu thu hoạch. Mặc dù vậy, thuật ngữ “tài sản trí tuệ” vẫn chƣa đƣợc định
hình một cách cụ thể và sử dụng phổ biến, thƣờng xuyên trong các văn bản
pháp lý. Trong khi đó, khoản 2 Điều 3 Thông tƣ liên tịch số 39/2014/TTLTBKHCN-BTC ban hành ngày 17/12/2014 quy định việc định giá kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách
nhà nƣớc quy định: “Tài sản trí tuệ bao gồm đối tượng được bảo hộ và đối
tượng không được bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ...” [24].
Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ và khái niệm tài sản trí tuệ không đồng nhất
với nhau. Theo đó, bên cạnh các đối tƣợng đƣợc pháp luật bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, tài sản trí tuệ còn bao gồm cả các đối tƣợng không đƣợc bảo hộ
12
theo quy định của pháp luật Việt Nam nhƣ sáng kiến, giống vật nuôi, thiết kế
kỹ thuật... Bên cạnh đó, thuật ngữ “tài sản trí tuệ” thƣờng đƣợc tiếp cận dƣới
góc độ kinh tế với phạm vi nội hàm rộng hơn nhằm hƣớng tới xác định loại
tài sản gắn với trí tuệ, liên quan đến hoạt động tƣ duy, sáng tạo của con ngƣời
có thể đƣợc pháp luật bảo hộ hoặc không đƣợc bảo hộ nhƣng vẫn mang lại
những giá trị nhất định cho chủ thể nắm giữ.
Hai thuật ngữ cũng thƣờng xuyên bị mập mờ trong cách hiểu và sử dụng
liên quan đến lĩnh vực này là “sở hữu trí tuệ” và “quyền sở hữu trí tuệ”. Bản
thân tên đạo luật là Luật Sở hữu trí tuệ nhƣng nội dung của văn bản này lại
quy định các vấn đề xung quanh quyền sở hữu trí tuệ. Bởi lẽ, sở hữu trí tuệ là
quan hệ sở hữu đối với tài sản trí tuệ, hay nói cách khác là đối với các đối
tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ nhƣ phân tích ở trên. Còn các quyền sở hữu trí
tuệ là hình thức thể hiện ở khía cạnh pháp lý của quan hệ sở hữu đó. Tuy
nhiên, do bản chất các đối tƣợng sở hữu trí tuệ rất đa dạng và có tính đặc thù,
vì vậy thay vì có khái niệm trực tiếp về quyền sở hữu trí tuệ theo đúng bản
chất của loại quyền này thì các công trình nghiên cứu hoặc văn bản quy
phạm pháp luật thƣờng đƣa ra dƣới dạng liệt kê các nhóm quyền theo từng
nhóm đối tƣợng sở hữu trí tuệ. Điều này dễ dàng thấy đƣợc ở nội dung
khoản 1 Điều 4 định nghĩa quyền sở hữu trí tuệ trong Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005. Quyền sở hữu trí tuệ theo định hƣớng lập pháp của Bộ luật Dân
sự năm 2015 là một quyền tài sản, tức là một loại tài sản đƣợc sử dụng để
bảo đảm trong quan hệ thế chấp. Tuy nhiên, theo Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005, quyền sở hữu trí tuệ có thể hiểu là quyền đối với một loại tài sản, cụ
thể là tài sản trí tuệ.
Là hình thức thể hiện pháp lý, quyền sở hữu trí tuệ có thể đƣợc tiếp cận
dƣới các góc độ khác nhau:
Nhìn nhận dƣới góc độ lý luận, quyền sở hữu trí tuệ có thể hiểu theo hai
13
phƣơng diện: (i) về phƣơng diện khách quan, quyền sở hữu trí tuệ đƣợc tiếp
cận theo hƣớng là một ngành luật, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập, sử dụng và
định đoạt các đối tƣợng sở hữu trí tuệ; (ii) về phƣơng diện chủ quan, quyền sở
hữu trí tuệ là tập hợp các quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức đối với đối
tƣợng sở hữu trí tuệ.
Nhìn nhận dƣới góc độ thực tiễn, quyền sở hữu trí tuệ đƣợc chia theo các
nhóm đối tƣợng quyền bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả; quyền sở hữu công nghiệp; quyền đối với giống cây trồng. Các nhóm
quyền này cũng đƣợc xây dựng theo hình thức liệt kê theo từng đối tƣợng
quyền phổ biến cụ thể.
Ở cả hai hƣớng tiếp cận, quyền sở hữu trí tuệ vẫn có thể hiểu một cách đơn
giản và khái quát là các quyền bảo hộ cho thành quả của lao động, sáng tạo và
đầu tƣ. Các quyền đó bao gồm: quyền sử dụng và cho phép ngƣời khác sử dụng,
quyền ngăn cấm ngƣời khác sử dụng và định đoạt quyền sở hữu trí tuệ. Trong
đó, quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản. Đối với
từng loại đối tƣợng quyền thì quyền sở hữu trí tuệ đƣợc quy định các quyền nhân
thân và quyền tài sản khác nhau. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005,
quyền nhân dân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho ngƣời khác, trừ một số trƣờng hợp luật khác có quy định khác. Trong
quan hệ thế chấp, đối tƣợng sử dụng để bảo đảm phải là tài sản, có khả năng
chuyển giao cho ngƣời khác. Do đó, quyền nhân thân trong quyền sở hữu trí tuệ
không phải là tài sản thế chấp. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn
này, thuật ngữ “quyền sở hữu trí tuệ” trong đề tài đƣợc tiếp cận theo nghĩa là các
quyền tài sản đối với các đối tƣợng sở hữu trí tuệ.
1.2.2. Đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ
- Tài sản vô hình: Đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ là kết quả của quá
trình tƣ duy sáng tạo, không tồn tại hiện hữu dƣới các dạng thức vật chất cụ
14
thể. Quyền sở hữu trí tuệ đƣợc xác định là loại tài sản vô hình theo Tiêu
chuẩn thẩm định giá số 13 ban hành kèm theo Thông tƣ số 06/2014/TT-BTC
ngày 07/01/2014 của Bộ Tài chính: “Tài sản vô hình bao gồm các loại sau:
Tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu
trí tuệ” [27]. Mặc dù vậy, đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ có thể đƣợc xác
định thông qua các dạng thông tin, hình ảnh, công thức... để con ngƣời có thể
nhận biết, lƣu trữ và sử dụng.
- Căn cứ phát sinh và xác lập quyền: Tùy theo từng đối tƣợng tài sản trí
tuệ khác nhau, quyền sở hữu trí tuệ cũng đƣợc xác lập theo các hình thức khác
nhau. Đối với quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền đối với
bí mật kinh doanh, quyền đối với tên thƣơng mại thì chỉ cần đáp ứng theo các
điều kiện theo quy định của pháp luật là đã đƣợc bảo hộ tự động mà không
cần thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trong khi
đó, các quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: quyền đối với nhãn hiệu, sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, chỉ dẫn địa
lý, quyền đối với giống cây trồng muốn đƣợc bảo hộ phải thực hiện đăng ký.
Các quyền này đƣợc xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ
quan quản quản lý nhà nƣớc đã đăng ký.
- Khả năng định giá và trao đổi: Một sản phẩm trí tuệ đƣợc sáng tạo ra
có thể biểu hiện dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣng có trị giá đƣợc tính
bằng tiền và có thể trao đổi. Tuy nhiên, khả năng trao đổi thông qua các giao
dịch dân sự chỉ áp dụng đối với các quyền tài sản của quyền sở hữu trí tuệ bởi
các quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với cá nhân và không thể
chuyển giao cho ngƣời khác.
- Tính giới hạn: Quyền sở hữu trí tuệ có tính giới hạn về thời gian và giới
hạn về không gian. Về thời gian, pháp luật các nƣớc trên thế giới đều đặt ra
thời hạn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để đảm bảo các lợi ích cộng đồng. Theo
15
- Xem thêm -