1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào quyết định đến sự thành công hay thất bại
của doanh nghiệp. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt
giữa các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây
dựng cho mình một đội ngũ nhân lực chất lượng cao, làm việc hiệu quả nhằm phát
huy các thế mạnh của doanh nghiệp để giành được các lợi thế cạnh tranh trên thị
trường.
Thúc đẩy người lao động làm việc hiệu quả là vấn đề hết sức quan trọng trong
các tổ chức. Người lao động làm việc nhiệt tình, năng suất và hiệu quả công việc
cao thì các mục tiêu của tổ chức sẽ dễ dàng đạt được. Trong thực tế có rất nhiều các
công cụ tạo động lực, đó là khuyến khích vật chất như tiền lương tiền thưởng và các
phúc lợi khác, khuyến khích phi vật chất như điều kiện làm việc, đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí, sắp xếp công việc….Trong đó tiền lương là một công cụ hiệu quả để
tạo động lực lao động, giúp người lao động làm việc hăng say, gắn bó với công
việc, từ đó tạo ra năng suất hiệu quả cao trong công việc. Tiền lương với người lao
động không chỉ là nguồn thu nhập chính đảm bảo cuộc sống mà nó còn là sự ghi
nhận và đánh giá của doanh nghiệp về những đóng góp của người lao động, từ đó
làm cho họ nhận thức rõ được vai trò và vị trí của mình trong doanh nghiệp.
Công ty cổ phần Vinatex Đà Nẵng là một đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn
dệt may Việt Nam, là công ty có lực lượng lao động rất lớn, lại đang trong quá trình
khẳng định thương hiệu và vị trí trên thị trường, nên vấn đề tạo động lực cho người
lao động càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhận thức được điều này, trong
thời gian qua, lãnh đạo công ty đã xây dựng một loạt các chế độ, chính sách tạo
động lực cho người lao động. Có thể nói công tác tạo động lực đã và đang phát huy
tác dụng tốt, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, công tác này không tránh khỏi
một số hạn chế. Chính vì thế mà tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Tạo động lực thúc
2
đẩy người lao động tại Công ty cổ phần Vinatex Đà Nẵng”, làm hướng nghiên
cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. Tôi mong muốn đánh giá trung thực và chính
xác thực trạng công tác tạo động lực cho người lao động của Công ty. Từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và để công tác tạo động lực cho
người lao động ở công ty có thể đạt hiệu quả cao nhất
2. Mục đích nghiên cứu:
- Thứ nhất, hệ thống hóa những lý luận cơ bản về động lực lao động và tạo
động lực cho người lao động, chỉ ra các tiếp cận với tạo động lực cho người lao
động.
- Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng công tác tạo động lực thúc đẩy
người lao động tại Công ty cổ phần Vinatex Đà Nẵng trong thời gian qua, tìm ra
những nguyên nhân làm hạn chế động lực của người lao động tại Công ty cổ phần
Vinatex Đà Nẵng.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tạo động lực
thúc đẩy người lao động tại Công ty cổ phần Vinatex Đà Nẵng trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan
đến công tác tạo động lực thúc đẩy nguời lao động.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu và tìm hiểu một số nội dung chủ yếu liên
quan đến việc tạo động lực thúc đẩy người lao động. Trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp tạo động lực thúc đẩy người lao động tại Công ty cổ phần Vinatex Đà Nẵng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên thì đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp duy vật lịch sử
- Phương pháp toán
- Phương pháp thống kê
- Các phương pháp khác
3
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo
thì nội dung chính được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về việc tạo động lực thúc đẩy người lao động
trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác tạo động lực thúc đẩy người lao động tại Công
ty cổ phần Vinatex Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp tạo động lực thúc đẩy người lao động tại Công ty cổ
phần Vinatex Đà Nẵng.
4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC
TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1 Nhu cầu - lợi ích của người lao động
+ Nhu cầu của người lao động: là một trạng thái tâm sinh lý mà con người
cảm thấy thiếu thốn không thoả mãn về một cái gì đó và mong muốn được đáp ứng
nó. Nhu cầu chưa được thoả mãn tạo ra tâm lý căng thẳng, khiến con người phải tìm
cách để đáp ứng. Người lao động cũng như vậy, họ bị thúc đẩy bởi trạng thái mong
muốn, để có thể thoả mãn được những mong muốn này, họ phải làm việc, mong
muốn càng lớn thì nỗ lực càng cao và ngược lại.[11]
Nhu cầu của người lao động rất đa dạng và phong phú, nhu cầu và sự thoả
mãn nhu cầu đều gắn liền với nền sản xuất xã hội và sự phân phối các giá trị vật
chất lẫn tinh thần trong xã hội đó. Dù ở dạng nào thì nhu cầu cũng được chia ra làm
2 loại: Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất là nhu cầu hàng đầu, đảm bảo cho người lao động có thể
sống để tạo ra của cải vật chất, thoả mãn được những nhu cầu tối thiểu. Cùng với sự
phát triển xã hội, các nhu cầu vật chất của con người không ngừng được tăng lên cả
về số lượng và chất lượng.
Nhu cầu tinh thần của người lao động cũng rất phong phú, nó đòi hỏi những
điều kiện để con người tồn tại và phát triển về mặt trí lực nhằm tạo ra tâm lý thoải
mái trong quá trình sống và lao động.
Con người ở một khoảng không gian nhất định luôn có những nhu cầu khác
nhau, trong những nhu cầu đó nhu cầu nào đã chín muồi sẽ là động cơ mạnh nhất
quyết định hành vi của họ và khi nhu cầu đó đã được thoả mãn thì nó sẽ không còn
là động cơ thúc đẩy con người làm việc nữa mà nhu cầu mới xuất hiện sẽ đóng vai
trò này.
+ Lợi ích của người lao động:Lợi ích là mức độ thoả mãn nhu cầu của con
5
người trong một điều kiện cụ thể nhất định. Do đó lợi ích tạo ra sự thúc đẩy động
lực làm việc hăng say hơn, có hiệu quả hơn. Mức độ thoả mãn càng lớn thì động lực
tạo ra càng lớn và ngược lại mức độ thoả mãn càng nhỏ thì động lực tạo ra càng
yếu, thậm chí bị triệt tiêu.[11]
Lợi ích có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý, trong hoạt động lao động
của con người, nó tạo ra động lực mạnh mẽ cho các hoạt động của con người, nó
buộc con người phải động não, cân nhắc, tìm tòi phương thức có hiệu quả nhằm
thoả mãn nhu cầu của mình.
Như vậy, lợi ích là thành quả mà người lao động nhận được bằng vật chất
hay tinh thần thông qua bản thân. Khi họ tham gia sản xuất hoặc các hoạt động khác
trong tổ chức cũng như trong xã hội thì lợi ích xuất phát từ nhu cầu và việc xử lý
các nhu cầu khác nhau tạo ra các lợi ích khác nhau cho người lao động. Ngược lại
lợi ích người lao động thu được lại đem ra thoả mãn những nhu cầu của chính họ.
1.1.2 Động cơ thúc đẩy người lao động
Động cơ là mục đích chủ quan của con người trong mọi hoạt động (cộng
đồng, tập thể, xã hội), nó là động lực thúc đẩy con người hành động nhằm đáp ứng
nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đặt ra. Động cơ khó xác định vì nó luôn biến đổi theo
thời gian, tại mỗi thời điểm con người sẽ có nhu cầu và động cơ khác nhau, khó có
thể biết chính xác nhu cầu nào cụ thể ở từng thời điểm. Nó thường được che dấu
bản chất thực vì nhiều lý do khác nhau như: yếu tố tâm lý, quan điểm xã hội…
Động cơ rất phong phú đa dạng, phức tạp và thường mâu thuẫn với nhau.
Động cơ là thuật ngữ chung chỉ tập hợp tất cả những yếu tố bản năng về xu
thế, mơ ước, nhu cầu, nguyện vọng và những áp lực tâm sinh lý tương tự của con
người. Động cơ hay động lực là nguồn sức mạnh nội tại của con người thôi thúc và
hướng hành vi của con người tới việc đạt được mục tiêu nhất định. Động cơ xuất
phát từ bên trong con người, là những yếu tố sinh lý bắt nguồn từ nhu cầu sống còn
và phát triển, từ nhu cầu giao tiếp và thích nghi. Động cơ là nguồn động lực thúc
đẩy con người hành động.
Động cơ là mục đích chủ quan là mục tiêu mà mỗi con người đặt ra khi hành
6
động, là động lực thúc đẩy con người làm việc, nhằm đáp ứng những nhu cầu đã đặt ra.
Nếu mục đích đặt ra không phương hại đến người khác và của xã hội thì động
cơ đó được chấp nhận. Nếu mục đích đó gây thiệt hại cho người khác, gây phương
hại đến xã hội thì động cơ đó có thể trở thành động lực thúc đẩy người khác làm
việc tích cực để cảnh giác và để tìm ra những phương pháp đối phó, thậm chí triệt
tiêu động cơ của người đề ra mục đích xâm hại đến mình.
Vì vậy trong doanh nghiệp, việc quản lý con người chỉ có thể thành công khi
người lãnh đạo tạo ra được một động cơ chung, một mục tiêu chung gắn kết con
người lại với nhau để tạo thành một khối thống nhất, phục vụ cho tất cả các động cơ
riêng cũng như toàn doanh nghiệp.
1.1.3 Động lực thúc đẩy người lao động
Có rất nhiều khái niệm về động lực, nhưng có thể hiểu “Động lực là sự khát
khao và tự nguyện của con người nhằm tăng cường mọi sự nỗ lực để đạt được mục
tiêu hoặc một kết quả cụ thể nào đó” [02]. “Động lực của người lao động là những
nhân tố bên trong kích thích con người nổ lực làm việc trong điều kiện cho phép tạo
ra năng suất, hiệu quả cao. Biểu hiện của động lực là sự sẵn sàng nổ lực, say mê làm
việc nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức cũng như của bản thân người lao động”
[09].
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích. Vì vậy các nhà quản lý
luôn tìm cách để trả lời câu hỏi là tại sao người lao động lại làm việc. Để trả lời
được cho câu hỏi này họ phải tìm hiểu về động lực của người lao động và tìm cách
tạo động lực cho người lao động trong quá trình làm việc.
Động lực xuất phát từ bản thân của mỗi con người. Khi con người ở những
vị trí khác nhau, với những đặc điểm tâm lý khác nhau sẽ có những mục tiêu mong
muốn khác nhau. Vì vậy động lực của mỗi con người là khác nhau nên các nhà quản
lý cần có những cách thức tác động khác nhau đến mỗi người lao động.
Vậy vấn đề quan trọng của động lực đó là mục tiêu của người lao động,
nhưng để đề ra được những mục tiêu phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của họ, tạo
cho họ sự hăng say, nỗ lực trong quá trình làm việc thì nhà quản lý phải biết được
7
mục đích hướng tới của người lao động sẽ là gì. Việc dự đoán và kiểm soát hành
động của người lao động hoàn toàn có thể thực hiện được thông qua việc nhận biết
nhu cầu, lợi ích và động cơ của họ.
Động cơ làm việc của người lao động là lý do để bản thân người lao động
tham gia vào quá trình lao động, còn động lực lao động là mức độ hưng phấn, thôi
thúc họ tham gia làm việc. Động cơ vừa có thể tạo động lực mạnh mẽ cho người lao
động đồng thời nó cũng tạo ra ít động lực cho người lao động. Nhưng ngược lại,
nếu không có động lực thì không thể khai thác những tiềm năng, tính sáng tạo sẵn
có trong người lao động.
1.1.4 Tạo động lực thúc đẩy người lao động
Tạo động lực được hiểu là một hệ thống, chính sách, biện pháp, cách thức tác
động vào quá trình làm việc của NLĐ, đây chính là khả năng tiềm tàng nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả công tác của tổ chức, đây cũng là trách nhiệm của các nhà
quản trị, của những người quản lý trong quá trình tạo ra sự gắng sức tự nguyện của
NLĐ, có nghĩa là tạo được động lực làm việc cho nhân viên của mình. [7]
Tạo động lực cho người lao động là quá trình phức tạp. Xét dưới góc độ quản
lý thì đó là những tác động của nhà quản lý làm nảy sinh động lực trong cá nhân
người lao động (các đối tượng quản lý). Trong lịch sử đã diễn ra hai loại tác động:
Một là, cưỡng bức người lao động thông qua các biện pháp siêu kinh tế và
cưỡng bức kinh tế. Các biện pháp này diễn ra trong các chế độ tư hữu, rõ rệt nhất là
thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay không được áp dụng rộng rãi.
Hai là, kích thích người lao động thông qua các biện pháp khuyến khích vật
chất và tinh thần đối với người lao động để tạo ra động lực làm việc. Loại tác động
thứ hai này ngày nay được áp dụng rộng rãi trong các tổ chức, doanh nghiệp.
1.2. CÁC HỌC THUYẾT VỀ TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY NGƯỜI LAO
ĐỘNG
1.2.1. Học thuyết phân cấp nhu cầu của A.Maslow
8
Hành vi của con người được quyết định bởi nhu cầu mạnh nhất của họ. Theo
Maslow nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự gồm 5 cấp bậc. Khi nhu
cầu này đã được thoả mãn sẽ nảy sinh ra các nhu cầu khác cao hơn.
Tự
hoàn thiện
Nhu cầu
được tôn trọng
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh lý
Hình 1.1: Sơ đồ phân cấp nhu cầu hình tháp của A.Maslow
* Nhu cầu sinh lý: Đó là những nhu cầu cơ bản và thiết yếu để tồn tại. Bao
gồm những nhu cầu như ăn, ở, mặc, ... Nhu cầu sinh lý thường không kích thích
nhân viên đạt hiệu quả tốt hơn trong công việc của mình.
* Nhu cầu an toàn: Khi các cá nhân nghĩ đến việc bảo đảm cho tương lai thì
có nghĩa là họ đang có những nhu cầu về an toàn trong công ăn việc làm, trong tiết
kiệm, trong việc đóng BH, ...
* Nhu cầu xã hội: Nhu cầu giao tiếp với người khác và gặt hái những lợi ích từ
các mối quan hệ với bên ngoài xã hội, muốn có cảm giác được là thành viên của
một tập thể, một hội đoàn, một nhóm bè bạn.
* Nhu cầu được tôn trọng: Bây giờ con người lại mong muốn cảm thấy mình
là người có ích trong một lĩnh vực nào đó, được người khác công nhận và đánh giá
cao và xứng đáng được như vậy. Đấy là những nhu cầu nhận được sự tôn trọng từ
những người khác. Đây có thể là nguồn động viên rất lớn trong công việc.
* Nhu cầu tự khẳng định mình: Nhu cầu này thúc đẩy con người phải thực
9
hiện được điều gì họ mong ước, đạt được những mục tiêu mà họ đã đề ra, phát triển
tiềm năng cá nhân trong lĩnh vực mà họ đã chọn.
Trong hệ thống nhu cầu này Maslow đã sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao
về tầm quan trọng, nhưng trong những điều kiện xã hội cụ thể thì thứ tự này có thể
sẽ bị đảo lộn và những nhu cầu nào đã được thoả mãn thì nó sẽ không còn tác dụng
tạo động lực nữa. Nhà quản trị sẽ tạo ra động cơ thúc đẩy người lao động làm việc
tốt hơn, giúp họ yên tâm với công việc hơn bằng cách thoả mãn những nhu cầu hiện
tại của họ, nhưng điều quan trọng đối với nhà quản trị là phải thực hiện phương
châm "đói cho ăn, khát cho uống", tức là phải tìm hiểu xem nhân viên của mình
đang ở nấc thang nhu cầu nào, từ đó đưa ra được các cách giải quyết hợp lý, tạo
động lực làm việc tốt nhất cho họ.
1.2.2. Học thuyết thúc đẩy theo nhu cầu của Mc.Celland
* Nhu cầu quyền lực: Những người có nhu cầu cao về quyền lực sẽ quan tâm
nhiều đến việc tạo ra ảnh hưởng và kiểm tra. Họ mong muốn tác động, ảnh hưởng
và có khả năng kiểm soát đối với những người khác, các cá nhân có nhu cầu này
thường thích nắm giữ trọng trách cố gắng gây ảnh hưởng đến những người khác,
thích những tình huống cạnh tranh, hướng vào địa vị và thường quan tâm hơn đến
việc có được uy tín, ảnh hưởng đến những người khác hơn là với kết quả hoạt động
hữu hiệu.
* Nhu cầu liên kết: Những người có nhu cầu này họ thường cố gắng duy trì
mối quan hệ xã hội, muốn có tình cảm thân thiết và cảm thấy muốn thân mật với tất
cả mọi người. Các cá nhân có nhu cầu này mong muốn những người khác yêu quý
và chấp nhận mình, họ thường phấn đấu để có được tình bạn, ưa thích các tình
huống hợp tác hơn là các tình huống cạnh tranh.
* Nhu cầu về sự thành đạt: Những người có loại nhu cầu này họ có mong
muốn mạnh mẽ về sự thành công và cũng sẽ bị thất bại, họ muốn được thử thách, để
tự đánh giá các vấn đề và tự điều khiển công việc của mình. Họ tìm kiếm các cơ hội
mà trong đó họ có thể có trách nhiệm cá nhân đối với việc tìm ra giải pháp cho các
vấn đề. Họ thích giải quyết một vấn đề khó và chấp nhận trách nhiệm cá nhân đối
10
với sự thành bại hơn là để mặc kết quả cho những người khác có dịp làm và hành
động.
Theo thuyết này những nhà lãnh đạo thường có nhu cầu cao về quyền lực
nhưng lại thấp về nhu cầu liên kết, còn người lao động lại có nhu cầu cao về sự liên
kết. Như vậy để tạo động lực cho người lao động làm việc tốt thì doanh nghiệp phải
vừa động viên, khích lệ về vật chất lại vừa phải động viên khích lệ về mặt tinh thần.
1.2.3. Học thuyết 2 nhân tố của Frederick Herzberg
Frederick Herzberg đã phát triển một thuyết động cơ thúc đẩy phổ biến khác
là thuyết 2 nhân tố. Ông đã phỏng vấn hàng trăm nhân viên vào những thời điểm
khác nhau, khi họ được kích thích cao độ để làm việc và những lúc không được kích
thích trong công việc và tác động của những kích thích này đem lại sự thoả mãn hay
không thoả mãn của họ trong công việc như thế nào. Những khám phá của ông dã
chỉ ra rằng những yếu tố của công việc đem lại sự không thoả mãn là rất khác so với
những yếu tố đem lại sự thoả mãn. Chính điều này đã gợi lên ý niệm rằng hai nhân
tố đó đã ảnh hưởng tới động lực thúc đẩy làm việc của nhân viên.
* Những yếu tố duy trì: Nó liên quan đến sự không thoả mãn của nhân viên
đối với công việc như: điều kiện làm việc, , lương, các chế độ của công ty, mối quan
hệ giữa các cá nhân. Khi các yếu tố duy trì mà không tốt thì nhân viên không thoả
mãn. Tuy nhiên, nếu các yếu tố duy trì được đảm bảo tốt thì điều đó chỉ đơn giản là
loại bỏ sự không thoả mãn chứ không phải tự nó đã đem lại cho con người sự thoả
mãn hay nỗ lực trong công việc.
* Những yếu tố thúc đẩy: Là những yếu tố liên quan đến các nhu cầu cao
cấp bao gồm: sự thành đạt, sự thừa nhận, trách nhiệm và cơ hội thăng tiến,
Frederick Herzberg tin rằng khi không có động lực thúc đẩy thì nhân viên vẫn làm
việc bình thường, nhưng khi có sự hiện diện của các yếu tố thúc đẩy thì nhân viên
tích cực và thoả mãn cao hơn. Như vậy, yếu tố duy trì và yếu tố tạo động lực thúc
đẩy thể hiện sự khác nhau đối với động lực thúc đẩy của nhân viên. Những yếu tố
duy trì chỉ nằm ở khu vực không thoả mãn. Những điều kiện làm việc không an
toàn hay môi trường làm việc ồn ào sẽ làm cho nhân viên không thoả mãn nhưng
11
chúng được cải tiến cũng không tạo động lực và sự thoả mãn. Những yếu tố tạo
động lực thúc đẩy như: sự thử thách, trách nhiệm và sự thừa nhận phải được đặt ra
trước khi nhân viên tiến hành công việc của họ.
Học thuyết hai nhân tố đối với các nhà quản trị là hết sức rõ ràng. Cho dù
yếu tố duy trì sẽ loại bỏ sự không hài lòng của người lao động nhưng nó không kích
thích người lao động đạt được thành tựu cao. Mặt khác sự thừa nhận, thử thách và
cơ hội cho sự thăng tiến cá nhân là những động lực rất mạnh mẽ và sẽ đem lại sự
hài lòng và thực thi công việc tốt hơn. Vai trò của nhà quản trị là loại bỏ những yếu
tố làm cho người lao động không thoả mãn, bằng cách cung cấp đầy đủ những yếu
tố duy trì để đáp ứng nhu cầu cơ bản, sau đó sử dụng các yếu tố tạo động lực thúc
đẩy để đáp ứng những nhu cầu bậc cao hơn, đưa người lao động đến sự thành đạt và
thoả mãn hơn.
1.2.4. Học thuyết về sự kỳ vọng của Victor Vroom
Học thuyết kỳ vọng của Victor Vroom cho rằng động cơ thúc đẩy phụ thuộc
vào sự mong đợi của cá nhân về khả năng thực hiện nhiệm vụ của họ và về việc
nhận được các phần thưởng mong muốn. Thuyết kỳ vọng không chỉ quan tâm đến
việc xác định loại nhu cầu mà còn nghiên cứu quá trình để các cá nhân nhận được
phần thưởng.
* Các yếu tố của thuyết kỳ vọng: Thuyết kỳ vọng dựa trên mối quan hệ nỗ
lực cá nhân, sự thực hiện (đồng hành) và kết quả đầu ra mà họ mong muốn. Mấu
chốt của thuyết kỳ vọng là sự kỳ vọng cho mối quan hệ giữa nỗ lực, hành động và
kết quả đầu ra cùng với giá trị của kết quả đầu ra đối với cá nhân.
* Các gợi ý dành cho các nhà quản trị: Trách nhiệm của nhà quản trị là giúp
đỡ cấp dưới thoả mãn được nhu cầu của họ và đồng thời đạt được những mục tiêu
của tổ chức. Thúc đẩy cấp dưới nhà quản trị phải tìm ra sự phù hợp giữa kỹ năng,
khả năng, nhu cầu về công việc của cấp dưới để đạt được kết quả đầu ra. Các nhà
quản trị có thể sử dụng những qui tắc của thuyết kỳ vọng trong những thiết kế hệ
thống động viên cho việc xác định đầu ra mong muốn của tổ chức và đem lại cho
mỗi nhân viên những phần thưởng như nhau. Bí quyết để thành công ở đây là thiết
12
kế một hệ thống phù hợp với khả năng và nhu cầu của nhân viên.
1.2.5. Học thuyết công bằng của J. Stacy Adams
Theo J.Stacy Adams, người lao động trong tổ chức luôn muốn được đối xử
một cách công bằng bao gồm cả công bằng bên trong và công bằng bên ngoài.
Công bằng bên trong có nghĩa là người lao động mong muốn được đánh giá
chính xác những thành tích đóng góp của họ đối với doanh nghiệp và được nhận
mức lương, phần thưởng và các đãi ngộ xứng đáng với những đóng góp hay công
sức mà họ đã bỏ ra. Nếu người lao động cho rằng những gì họ nhận được không
xứng đáng với công sức họ bỏ ra thì họ sẽ bất mãn, từ đó làm việc không hết khả
năng hoặc thậm chí sẽ ngừng việc. Nếu họ cho rằng họ nhận được những phần
thưởng và đãi ngộ xứng đáng thì họ sẽ duy trì mức năng suất cũ, còn nếu họ nhận
thấy rằng phần thưởng và đãi ngộ cao hơn so với điều họ mong muốn thì họ sẽ làm
việc chăm chỉ hơn. Tuy nhiên khi đó sẽ có xu hướng làm giảm giá trị phần thưởng
và về lâu dài không còn tác dụng khuyến khích.
Công bằng bên ngoài là việc người lao động luôn mong muốn được đối xử
công bằng như những người lao động khác. Vì thế họ luôn có xu hướng so sánh tỷ
lệ quyền lợi/đóng góp của mình với tỷ lệ quyền lợi/đóng góp của những người khác.
Các quyền lợi cá nhân
Đóng góp của cá nhân
>=<
Các quyền lợi của những người khác
Đóng góp của những người khác
Người lao động sẽ cảm thấy được đối xử công bằng khi nhận thấy tỷ lệ quyền
lợi/đóng góp của mình ngang bằng với tỷ lệ đó của những người khác từ đó họ sẽ
cảm thấy thỏa mãn trong công việc, tăng hiệu quả thực hiện công việc. Nhưng
ngược lại nếu tỷ lệ này là không ngang bằng, họ cho rằng không được đối xử công
bằng thì khi đó họ sẽ những hành vi bất mãn, phản ứng lại nhằm thiết lập lại sự
công bằng như: giảm nỗ lực làm việc, làm méo mó các đầu vào hay đầu ra của
chính bản thân hoặc của những người khác, vắng mặt nghỉ việc nhiều hơn hoặc
thậm chí tự ý bỏ việc...
Do vậy để thiết lập và duy trì sự công bằng trong tổ chức nhằm tạo động lực
13
cho người lao động làm việc, doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống đánh giá
tốt, với những tiêu thức đánh giá hợp lý phù hợp, phương pháp đánh giá chính xác
công bằng, tiến hành đánh giá một cách công bằng, công khai nhằm mục đích phản
ánh chính xác kết quả công việc và đóng góp của người lao động. Đồng thời tiến
hành chi trả lương, thưởng và các hoạt động quản trị nhân lực khác phải dựa trên
kết quả đánh giá thực hiện công việc. Bên cạnh đó, cần phải tránh sự phân biệt đối
xử giữa những người lao động trong tập thể vì bất kỳ lý do nào như giới, tuổi, dân
tộc hay tôn giáo...
Từ việc phân tích học thuyết nhu cầu của Maslow và học thuyết công bằng
của J. Stacy Adams cho thấy để tạo động lực cho người lao động phải đưa ra
những biện pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu của người lao động trên cơ sở đảm bảo
sự công bằng.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VIỆC TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY NGƯỜI
LAO ĐỘNG
1.3.1 Xác định nhu cầu của người lao động
Theo Maslow, con người luôn bị chi phối bởi 5 nhóm nhu cầu có thứ bậc từ
thấp đến cao, nhưng trong đó nhu cầu mạnh nhất tại một thời điểm nhất định sẽ dẫn
đến hành động của con người và khi một nhu cầu được thỏa mãn thì nó không còn
tạo ra động lực nữa, khi đó một nhu cầu khác trở nên mạnh hơn và trở thành động
lực thôi thúc người lao động hành động. Hành vi làm việc của người lao động cũng
để nhằm đạt được thỏa mãn nhu cầu của bản thân như có mức lương cao, có cơ hội
thăng tiến, được người khác tôn trọng... Vì vậy, để tạo động lực cho người lao động
hăng say làm việc trước tiên phải xác định được nhu cầu, mong muốn của người lao
động đối với công việc là gì, đặc biệt là phải xác định được nhu cầu nào đang là ưu
tiên hàng đầu của người lao động để từ đó có những biện pháp thỏa mãn nhu cầu đó
một cách phù hợp.
Trong tập thể, mỗi người lao động là những cá nhân khác nhau về, giới tính,
tuổi tác, vị trí, trình độ chuyên môn và chính những đặc điểm khác nhau này sẽ tạo
ra sự khác nhau về nhu cầu cũng như mong muốn đối với công việc của mỗi người
14
lao động. Ví dụ như nhu cầu của một nhân viên trẻ mới ra trường là lương cơ bản
cao, được làm công việc yêu thích và thỏa mãn cao trong khi đó nhu cầu của một
nhân viên làm việc lâu năm có nhiều kinh nghiệm bao gồm thưởng tiền hàng năm,
sự an toàn của vị trí làm việc, sự thăng tiến đều đặn, trách nhiệm đối với công việc,
vị trí trong nhóm làm việc. Do đó để tạo động lực một cách hiệu quả thì cần phải
xác định xem trong số các nhu cầu của người lao động thì nhu cầu nào đang là nhu
cầu cấp thiết nhất của đại bộ phận người lao động trong công ty và sau đó phải phân
loại nhu cầu theo từng nhóm đối tượng như nhu cầu của lao động quản lý, nhu cầu
của công nhân, nhu cầu của lao động nam, lao động nữ... từ đó xây dựng kế hoạch
công tác tạo động lực một cách hợp lý, thỏa mãn những nhu cầu cấp bách trước, có
sự ưu tiên thỏa mãn nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau.
Nhu cầu của người lao động có thể xác định thông qua phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi với hệ thống các câu hỏi được thiết kế sẵn hoặc thông qua phương
pháp phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với người lao động. Trên cơ sở kết quả thu thập
được cần tiến hành phân loại nhu cầu của người lao động theo các nhóm đối tượng
từ đó có thể xây dựng các biện pháp phù hợp nhằm thỏa mãn nhu cầu của từng
nhóm đối tượng.
1.3.2 Các công cụ tạo động lực thúc đẩy người lao động
1.3.2.1 Tạo động lực bằng yếu tố vật chất
* Tiền lương:
Tiền lương là yếu tố rất quan trọng mà bất kỳ người lao động nào cũng quan
tâm vì nó là công cụ giúp con người thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của người lao
động, đó là nhu cầu sinh lý trong hệ thống nhu cầu của Maslow. Mặt khác, tiền
lương không chỉ thể hiện giá trị công việc, mà nó còn thể hiện giá trị, địa vị của
người lao động trong gia đình, trong tổ chức và xã hội.
Để tiền lương thực sự trở thành một công cụ tạo động lực cho người lao động
thì hệ thống của doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Trước hết phải đảm bảo tuân thủ theo những qui định về tiền lương của nhà
nước đó là tiền lương của người lao động không được thấp hơn tiền lương tối thiểu
15
chung của nhà nước, người lao động phải được hưởng các chế độ phụ cấp, tiền
lương làm thêm giờ, tiền lương làm vào các ngày nghỉ và các chế độ khác theo qui
định của nhà nước.
- Tiền lương được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động căn cứ vào vị trí công việc, mức độ phức tạp của công việc,
phạm vi trách nhiệm của công việc và những yêu cầu về trình độ, kỹ năng kinh
nghiệm của người thực hiện công việc.
- Tiền lương, tiền công chi trả cho người lao động phải được xác định dựa
trên kết quả thực hiện công việc của người lao động sao cho xứng đáng với những
đóng góp của người lao động nhằm đảm bảo sự công bằng trong tiền lương. Muốn
vậy, cần phải xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả và đáng tin cậy, phản ánh chính
xác kết quả thực hiện công việc của người lao động.
* Khen Thưởng:
Khen thưởng cũng là biện pháp tạo động lực cho người lao động. Hình thức
khen thưởng thông qua tiền thưởng, phần thưởng không những thỏa mãn một phần
nào đó nhu cầu vật chất của người lao động mà còn có tác dụng kích thích tinh thần
của người lao động, thể hiện sự đánh giá, ghi nhận năng lực và những đóng góp của
người lao động. Người lao động được khen thưởng sẽ cảm thấy tự hào trước doanh
nghiệp và đồng nghiệp do đó sẽ có động lực để cố gắng phấn đấu hơn nữa trong
công việc.
Do đó hệ thống khen thưởng được xây dựng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Khen thưởng phải gắn liền với kết quả thực hiện công việc của người lao
động. Việc bình chọn, xét duyệt người được thưởng phải được tiến hành công khai,
nghiêm túc, nhằm đảm bảo sự công bằng và chọn được đúng người xứng đáng.
Người được khen thưởng phải là những người hoàn thành xuất sắc công việc được
giao, có những phát minh sáng kiến đem lại nhiều lợi ích cho công ty.
- Việc khen thưởng cần tiến hành kịp thời và đúng lúc, thời gian khen thưởng
tiến hành sau khi người lao động có hành vi được thưởng càng sớm càng tốt.
- Phải làm cho người lao động thấy rằng những nỗ lực của họ trong công việc
16
sẽ đem lại kết quả cao và với kết quả đó họ sẽ được nhận phần thưởng xứng đáng.
Đồng thời hình thức thưởng đưa ra phải đa dạng và có ý nghĩa thỏa mãn nhu cầu
nào đó mà cá nhân người lao động đang theo đuổi. Các tiêu chuẩn xét thưởng phải
cụ thể, rõ ràng, hợp lý, không được quá khó dẫn đến tâm lý chán nản cho người lao
động nếu không đạt được hoặc quá dễ dẫn đến tâm lý coi thường, không phấn đấu.
Mức thưởng phải hợp lý, có tác dụng kích thích không được quá cao hoặc quá thấp.
* Phúc lợi
Phúc lợi là phần thù lao gián tiếp được chi trả dưới dạng hỗ trợ cuộc sống cho
người lao động. Các loại phúc lợi có ý nghĩa lớn trong việc đảm bảo cuộc sống cho
người lao động cũng như góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động, làm cho họ yên tâm làm việc, dành nhiều thời gian hơn trong công
việc, gắn bó hơn với tổ chức từ đó đưa đến kết quả là tăng năng suất lao động. Do
đó, trước hết doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh các phúc lợi bắt buộc theo
qui định của nhà nước như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội nhằm thỏa mãn phần nào
nhu cầu an toàn của người lao động. Hơn nữa, doanh nghiệp nên nghiên cứu xây
dựng và nâng cao chất lượng các chương trình phúc lợi tự nguyện để có thể hỗ trợ
tốt hơn nữa cuộc sống của người lao động ví dụ như chương trình xây dựng nhà ở
cho người lao động hoặc cho người lao động vay tiền với lãi xuất thấp hoặc không
lấy lãi... Đồng thời chương trình phúc lợi phải được xây dựng rõ ràng, thực hiện
một cách công bằng và bình đẳng đối với tất cả mọi người.
1.3.2.2 Tạo động lực bằng yếu tố tinh thần
Nâng cao động lực thúc đẩy người lao động bằng yếu tố tinh thần tức là dùng
lợi ích tinh thần để nâng cao tính tích cực, khả năng làm việc của người lao động.
Yếu tố tinh thần là những yếu tố thuộc về tâm lý của con người và không thể định
lượng được như: khen, tuyên dương, ý thức thành đạt, sự kiểm soát của cá nhân đối
với công việc và cảm giác công việc của mình được đánh giá cao, củng cố lại cách
hành xử của các cấp quản lý đối với người lao động và phát động phong trào văn
thể mỹ trong tập thể cán bộ công nhân viên…
Các yếu tố này đem lại sự thỏa mãn về tinh thần cho người lao động, sẽ tạo
17
ra tâm lý tin tưởng, yên tâm, cảm giác an toàn cho người lao động. Nhờ vậy, họ sẽ
làm việc bằng niềm hăng say và tất cả sức sáng tạo của mình.
Phần thưởng tinh thần thường luôn là động lực có tác dụng thúc đẩy mạnh
mẽ đối với người lao động. Nếu người lao động làm việc với tinh thần phấn chấn thì
công việc sẽ rất hiệu quả.
Muốn nâng cao động lực thúc đẩy người lao động làm việc bằng yếu tố tinh
thần thì doanh nghiệp phải tìm hiểu những tồn tại làm ảnh hưởng đến tinh thần
người lao động, làm hạn chế và kìm hãm lòng nhiệt tình, sự hăng say và khả năng
sáng tạo của người lao động, đấy là việc người lao động không được nhìn nhận
đúng mức những thành quả do họ tạo ra, không được khen, tuyên dương trước tập
thể với những nỗ lực, phấn đấu của bản thân…Chính vì vậy, để có thể tạo ra động
lực thúc đẩy người lao động làm việc tốt, doanh nghiệp phải tìm ra những vướng
mắc làm giảm sút tinh thần làm việc, từ đấy, đưa ra biện pháp cụ thể để giải quyết
từng vấn đề.
1.3.2.3 Cải thiện môi trường và điều kiện làm việc
Môi trường và điều kiện làm việc là nơi mà người lao động phải tiếp xúc
hàng ngày, nó có ảnh hưởng lớn đến khả năng làm việc, sức khỏe, thái độ lao động
và hiệu quả công việc của người lao động. Môi trường và điều kiện làm việc tốt sẽ
làm cho người lao động yên tâm làm việc, có nhiều điều kiện để phát huy năng lực.
Ngược lại, môi trường và điều kiện làm việc không tốt sẽ khiến cho người lao động
làm việc trong tâm lý căng thẳng, bất an, mệt mỏi cả về thể lực lẫn tinh thần, chán
nản và bất mãn trong công việc. Do đó để duy trì trạng thái làm việc tốt cho người
lao động cần phải cung cấp cho họ một môi trường làm việc với đầy đủ các trang
thiết bị máy móc phục vụ cho công việc, nơi làm việc được thiết kế và bố trí một
cách khoa học nhằm tạo điều kiện tối đa cho người lao động thực hiện công việc.
Cung cấp đủ các trang thiết bị bảo hộ lao động đảm bảo đạt tiêu chuẩn nhằm bảo vệ
sức khỏe của người lao động, đảm bảo cho người lao động luôn được làm việc trong
môi trường an toàn, điều kiện sức khỏe tốt, tinh thần thoải mái...
Mở rộng tinh thần dân chủ thật sự, khuyến khích người lao động tham gia
18
xây dựng các chương trình kế hoạch, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nhất là
các ý tưởng sáng tạo của cá nhân, không có ý tưởng nào là thừa.
Xây dựng một bầu không khí lao động tập thể thân thiện, hợp tác, chia sẻ
thông qua các hoạt động làm việc nhóm như tổ chức các phong trào thi đua, đoàn
thể, các phong trào thể thao, văn nghệ, tham quan dã ngoại... tại đó người lao động
có cơ hội tiếp xúc giao lưu, hiểu hơn về nhau, trao đổi, học hỏi các kiến thức kinh
nghiệm từ những người khác, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn
trong công việc cũng như trong cuộc sống. Khi đó người lao động sẽ cảm thấy gắn
bó với tổ chức với đồng nghiệp hơn, yêu thích công việc hơn, làm việc với tinh thần
thoải mái, có mối quan hệ thân thiết giữa những người lao động, hợp tác giúp đỡ lẫn
nhau vì mục tiêu chung của tổ chức.
1.3.2.4 Thay đổi vị trí làm việc
Cùng với thời gian, yêu cầu của sản xuất kinh doanh ngày càng thay đổi đòi
hỏi việc chuyên môn hóa đội ngũ nhân viên là nền tảng và mong muốn của bất kỳ
hệ thống quản lý nào. Nhiệm vụ của doanh nghiệp ngày càng phức tạp thì số lượng
ngành nghề cũng như vị trí của công việc cũng phát triển không ngừng. Cùng lúc
đó, sự gia tăng các đòi hỏi, nhu cầu cá nhân từ phía người lao động: họ không còn
chấp nhận giậm chân tại chỗ, mà còn có khát vọng vươn lên và phát triển chính
mình. Người lao động mong muốn thay đổi vị trí làm việc.
Thay đổi vị trí làm việc có nghĩa là đặt người lao động vào những vị trí công
việc mới, khác hẳn so với những công việc đang làm.
Bằng cách thay đổi vị trí làm việc, có thể tạo ra động lực thúc đẩy người lao
động làm việc hiệu quả hơn bởi vì người lao động ngày nay có những mối quan tâm
hay sở thích mới, muốn học hỏi thêm nhiều kỹ năng và kiến thức trong khi đó sẽ
không thể thực hiện việc này nếu vẫn giữa vị trí, công việc hiện tại…Nếu trong một
thời gian dài phải thực hiện những công việc và nhiệm vụ quen thuộc đến độ tẻ
nhạt, sẽ đánh mất khả năng đánh giá tinh tường, sắc sảo, khách quan và lòng tự tin
có thể trở thành nguyên nhân của những sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng. Sự thay
đổi đúng lúc sẽ giúp nhân viên tích lũy được kinh nghiệm mới, công ty sẽ giữ được
19
một nhân viên trung thành mà không cần tuyển dụng từ bên ngoài, còn vị trí làm
việc mới có thể để cho một nhân viên khác trong công ty đảm nhiệm. Tuy nhiên,
một lý do phổ biến hơn cả là người lao động mong muốn thử sức mình trong vai trò
mới, tích lũy thêm các kinh nghiệm chuyên môn, tìm cơ hội khẳng định bản thân.
1.3.2.5 Công tác đào tạo
Trong điều kiện của môi trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng, đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực trở thành một yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của tổ chức. Bên cạnh đó, người lao động được đào tạo, có năng lực, có trình
độ cao thì sẽ tiếp cận nhanh với sự thay đổi của môi trường, nhanh chóng xác định
được mục tiêu và thực hiện công việc với hiệu quả cao hơn. Ngày nay sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp không còn là sự cạnh tranh về vốn, về tài nguyên mà chính là
sự cạnh tranh về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có trình độ cao sẽ giúp doanh
nghiệp giảm chi phí khấu hao vô hình về công nghệ.
Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến
thức, kỹ năng cho người lao động, xây dựng chương trình đào tạo có chất lượng
cao, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người lao động, bù đắp được những
thiếu hụt về mặt kiến thức, kỹ năng của người lao động. Ngoài ra có thể tạo điều
kiện cho người lao động học tập thông qua việc hỗ trợ kinh phí, bố trí thời gian làm
việc linh hoạt. Đặc biệt là phải quan tâm đến vấn đề sử dụng sau đào tạo để nhằm
tận dụng được những kiến thức kỹ năng người lao động được đào tạo vào thực hiện
mục tiêu của doanh nghiệp.
1.3.2.6 Sự thăng tiến hợp lý
Xây dựng “nấc thang thăng tiến, phát triển” trong nghề nghiệp. Có thể nói, đa
phần người lao động đều có khao khát tìm kiếm cơ hội thăng tiến phát triển trong
nghề nghiệp vì sự thăng tiến chính là cách để khẳng định vị thế trong doanh nghiệp
và trước đồng nghiệp, thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng của người lao động. Việc
đề bạt và tạo cơ hội cho người lao động được thăng tiến vào những vị trí làm việc
có chức vụ cao hơn, với quyền hạn và trách nhiệm lớn hơn có tác động khuyến
20
khích người lao động vì điều đó không chỉ thể hiện sự ghi nhận của tổ chức đối với
những thành tích người lao động đạt được mà còn thể hiện sự tạo điều kiện của tổ
chức cho các cá nhân phát huy hết khả năng của chính mình.
Để thực hiện công tác này một cách có hiệu quả thì người quản lý cần phải
vạch ra những nấc thang vị trí nhảy vọt kế tiếp trong nghề nghiệp của người lao
động, đồng thời phải xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp đi kèm nhằm bồi
dưỡng cho người lao động những kiến thức kỹ năng cần thiết cho nhiệm vụ mới.
Việc thăng chức phải được xem xét một cách nghiêm túc, công bằng, tiến
hành công khai trong tập thể lao động dựa trên những đóng góp, thành tích và kết
quả thực hiện công việc và năng lực của người lao động nhằm đề bạt đúng người
phù hợp với vị trí công việc và được mọi người ủng hộ.
1.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CÔNG TY DỆT MAY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ TỚI VIỆC TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY NGƯỜI LAO ĐỘNG
Dệt may là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt
Nam trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành Dệt may hiện
nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh.
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn
nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và
ngoài nước với sự tham gia của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu
thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối đầu với nhiều
thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như
Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Hàn Quốc…
Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động,
chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Lợi thế của ngành
công nghiệp dệt may là nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp hơn so với
các nước trong khu vực. Tuy nhiên tốc độ phát triển công nghiệp và đầu tư nước
ngoài chắc chắn sẽ khiến tranh chấp và sự thiếu hụt lao động tại các thành phố lớn
ngày càng căng thẳng hơn.
Để có thể ổn định nguồn lao động, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
- Xem thêm -