MAI THE DƯƠNG (Chủ biên)
TĂNG CƯỜNG
CttNG TÁC 6IÁM SÁT
^
CỦA ĐẢNG
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QL^ỔC GIA
Mã số:
3KV5
CTQG - 2013
MAI THẾ DƯƠNG (Chỏ biên)
TẴNG CƯỜNG
CttNG T íc 6UÍM SẤT
CỈA i Ang
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT
HÀ NỘI-2013
TẬP THỂ TÁC GIẢ
Mai Thế Dương (Chủ biên)
THÀNH VIÊN
Hà Hữu Đức
Nguyễn Mạnh cầm
Vu Ngọc Thái
Nguyễn Quang Huy
Nguyễn Thế Toàn
Trần Văn Đức
Nguyễn Minh Chính
Nguyễn Băng Thanh
Ngô Minh Tuấn
Lê Văn Đức
Nguyễn Đức Mười
Triệu Văn Chiến
Cao Văn Thống
Trương Kim Sơn
Ngô Quốc Thái
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong quá trình hoạt động, Đảng ta rất quan tâm
đến công tác kiểm tra, giám sát. Điều 30 Điều lệ Đảng
quy định rõ: “Kiểm tra, giám sát là những chức nàng
ỉãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công
tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu
sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Các cấp ủy đảng lành
đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng
viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng”; Điều 32 bổ sung một
trong những nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các cấp là:
“Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ điện cấp ủy
cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưối về thực hiện
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết
của cấp ủy và đạo đức, lốì sống theo quy định của Ban
Chấp hành Trung ương”. Đây là một bước tiến trong
nhận thức của Đảng về giám sát và công tác giám sát
và một lần nữa khẳng định vị trí, tầm quan trọng của
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, là cơ sỏ pháp lý
để các tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát. Nhò đó, công tác giám sát của Đảng đã có những
chuyển biến tích cực và đạt được kết quả bước đầu
quan trọng, góp phần tích cực trong việc ngăn ngừa và
phát hiện các vi phạm từ khi còn manh nha của tổ chức
đảng và đảng viên, góp phần vàọ xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, công tác giám sát là
nhiệm vụ mới nên cơ chế, quy trình giám sát chưa đồng
bộ, hoàn chỉnh; nhận thức của một số tổ chức đảng và
đảng viên về công tác giám sát còn hạn chế, chất lượng
công tác giám sát chưa cao, Do vậy, việc tăng cường
công tác giám sát của Đảng là rất quan trọng và cần
thiết trong tình hình hiện nay.
Nhằm góp phần nâng cao nhận thức và thực hiện
tôt công tác giám sát của Đảng, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốh sách Tăng cường
công tác giám sát của Đảng do đồng chí Mai Thế
Dương, Phó Chủ nhiệm Thường trực ủy ban Kiểm tra
Trung ương làm chủ biên. Cuốn sách trình bày khái
quát cơ sở lý luận về công tác giám sát, tập trung đi
sâu vào thực trạng của công tác giám sát của Đảng
trong thòi gian qua và đưa ra một sô" giải pháp nhằm
thực hiện tốt công tác giám sát của Đảng trong thời
gian tới.
Xin giới thiệu cuốn sách và rất mong nhận được sự
góp ý của các đồng chí và các bạn,
Tháng 6 năm 2013
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT
6
Chương ỉ
Cơ SỞ LÝ LUẬN VỂ CÔNG TÁC GIÁM SÁT
CỦA ĐẢNG
I.
KHÁI NIỆM GIÁM SÁT
VÀ ĐẶC TRƯNG CỒNG TÁC GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
ỉ. Khái niệm gỉám sát
- Theo Từ điển tiếng Việt, "Giám sát là theo dõi
và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều
quy định không" \ Nếu theo khái niệm này thì
giám sát đă bao gồm cả kiểm tra.
- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, "Giám sát
là một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước
hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc
sự chấp hành những quy tắc chung nào đó"^.
- Theo Từ điển Nghiệp vụ p h ổ thông, "Giám sát
là dùng lực lượng công an hoặc quần chúng để
1. Viện Ngôn ngữ học: Từ điền tiếng Việt, Nxb. Đà
Năng - Trung tâm Từ điển học, 2005, tr. 389.
2. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb, Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, 2002, tr. 420.
trực tiếp quan sát, theo dõi tại chỗ các biến động
của đốì tượng theo yêu cầu cụ thể"*.
- Theo Từ điển Luật học, "Giám sát là sự theo
dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động
thưòng xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng
các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,
quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã
được xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật
được tuân theo nghiêm chỉnh"^.
- Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
(số 05/2003/QHll ngày 17-6-2003), "Giám sát là
việc Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của ủy ban thưòng vụ Quốc hội". Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực
hiện quyền giám sát tối cao đối vối toàn bộ hoạt
động của Nhà nước.
1. Viện Nghiên cứu khoa học Công an: Từ điên Nghiệp
vụ phổ thông, Hà Nội, 1977, tr. 224.
2. Viện Khoa học pháp lý: Từ điển Luật học, Nxb. Từ
điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 174.
8
Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng
khóa X (Ban hành theo Quyết định số 25-QĐ/TW,
ngày 24-11-2006 của Bộ Chính trị), "Giám sát của
Đảng là việc các cấp ủy, tổ chức đảng theo dõi,
xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy
định của Ban Chấp hành Trung ương"’ và theo
Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong
Chưdng VII và Chương VIII Điểu lệ Đảng khóa XI
(Ban hành theo Quyết định số 46-QĐ/TW ngày
01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương),
"Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động nhằm kịp thời
tác động để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điểu lệ Đảng, chủ trưđng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng"^,
1. ủy Kiểm tra Trung ương; Hướng dẫn thực hiện các
quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng, Nxb. Lao động •Xã hội, Hà Nội, 2006, tr. 119.
2. ửy ban Kiểm tra Trung ương: Hướng dẫn thực hiện
các quy định về công tác kiểm tra, giám sát vá kỷ luật của
Đảng, Sđd, tr. 133.
9
Như vậy, ngay trong nội bộ Đảng, khái niệm
giám sát trong mỗi nhiệm kỳ cũng được bổ sung
theo hưống ngày càng rõ hơn. Nhưng, khái niệm
trên đã đồng nhất giám sát của Đảng vối giám sát
trong Đảng (giám sát nội bộ Đảng). Song, ỏ nước
ta, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thông chính trị và xã
hội nên giám sát của Đảng có phạm vi, đối tượng
rất rộng, vì giám sát là một trong những chức
năng lãnh đạo của Đảng, ố đâu có sự lãnh đạo của
Đảng thì ỏ đó có sự giám sát của Đảng. Do vậy,
giám sát của Đảng là hoạt động lãnh đạo của
Đảng nhằm hướng các đối tượng chịu sự giám sát
thực hiện đúng kỷ luật - các quy định của Đảng,
Nhà nước và của các đoàn th ể chính trị - xã hội
mà mọi thành viên của các tổ chức đó phẢi nghiêm
chỉnh thực hiện.
Từ các khái niệm giám sát và thực tiễn giám
sát của Đảng thòi gian qua, có thể rút ra khái
niệm giám sát trong Đảng như sau: Giám sát
trong Đảng là việc các cấp ủy, tổ chức đảng theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng
và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của N hà nước
và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương. Cuốh sách này chủ yếu để cập
công tác giám sát của Đảng theo nghĩa hẹp - tức là
giám sát trong Đảng.
10
Hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau
về giám sát. Nhưng qua các khái niệm trên cho
thấy bản chất chung nhất của giám sát là sự quan
sát, theo dõi của chủ thể đốì vói khách thể để xem
khách thể có thực hiện đúng những quy định của
chủ thể đã đề ra không, từ đó tác động vào khách
thể để khách thể phải thực hiện đúng các quy
định mà chủ thể đã đặt ra. Vậy, bản chất của công
tác giám sát trong Đảng là việc quan sát, theo dõi
của tổ chức đảng có thẩm quyển đối vói các tổ
chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát để xem
xét các tổ chức đảng và đảng viên đó có thực hiện
đúng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và các đoàn thể chính trị - xã hội mà mình là
thành viên không, từ đó tác động vào đôi tượng
giám sát để buộc đốỉ tượng giám sát phải thực
hiện đúng các quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nưóc...
2. Đặc trưng của giám sát
Giám sát là hoạt động không thể thiếu trong
hoạt động lãnh đạo và quản lý của bất kỳ tổ
chức nào trong xã hội, diễn ra trong tất cả các
khâu của quy trình lãnh đạo và quản lý của mọi
tổ chức; là hoạt động có mục đích, có chủ định từ
trưóc của chủ thể giám sát đối vối đối tượng
giám sát. Do vậy, giám sát có một số đặc trưng
cơ bản sau:
11
Thứ nhất, giám sát là sự quan sát, theo dõi,
nắm tình hình hoạt động mang tính chủ động,
trực tiếp, thường xuyên của chủ thể giám sát đối
với đổi tượng giám sát. Hoạt động giám sát cần
xác định rõ phạm vi, nội dung, đối tượng, hình
thức, phương pháp giám sát một cách cụ thể trong
từng thồi điểm, thời gian, không có hoạt động
giám sát một cách chung chung, hình thức.
Thứ h ai, hoạt động giám sát n h ằm bảo đảm
cho các quy định của chủ thể giám sát được
chấp hành, thực hiện nghiêm túc, đúng quỹ
đạo, mục tiêu, yêu cầu đã được xác định từ
trưóc có chất lượng.
Thứ ha, qua giám sát, chủ thể giám sát xem xét,
nhận xét, đánh giá đốỉ với đốì tưỢng giám sát nhằm
phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm
trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện; phát hiện
những nhân tố mới, những vấn đề cần nghiên cứu,
đê xuất để hoàn chỉnh các quy định của chủ thể
giám sát. Ngăn chặn sai phạm từ lúc manh nha,
nếu phát hiện thấy đối tượng giám sát có những
hoạt động chưa đúng với các quy định hoặc có thiếu
sót, khuyết điểm thì chủ thể giám sát kịp thòi nhắc
nhở, cảnh báo, yêu cầu hoặc đề nghị thực hiện đúng
quy định, nếu thấy có những việc làm có biểu hiện
sai trái thì kiến nghị với tổ chức có thẩm quyền chỉ
đạo giải quyết hoặc kiểm tra, xem xét, quyết định.
Thứ tư, theo quy định hiện hành của Đảng,
hiện nay chỉ có tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ
12
chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tố chức đảng và
đảng viên thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự
phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN,
Tư TƯỞNG HỔ CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG TA
VỀ GIÁM SÁT
1. Quan điểm của chủ nghĩa M ác - L ênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về giám sá t
1.1. v ề vị tri, vai trồ củ a g iá m sá t
Theo C.Mác, để đạt kế hoạch, mục tiêu đã đề ra
phải tiến hành giám sát, kiểm tra, kiểm soát. Giám
sát, kiểm tra, kiểm soát là phương thức hành động
quan trọng để thực hiện mục tiêu đã đưỢc xác định.
Trong Điều lệ của Liên đoàn những ngưòi Cộng
sản, C.Mác đã đề cập đến công tác giám sát.
Nhưng do điều kiện lúc đó còn khó khăn, nên hình
thức giám sát của tổ chức cấp trên vối tổ chức cấp
dưới và hội viên chủ yếu bằng hình thức gián tiếp
hoặc giám sát trực tiếp thông qua hội nghị, đại
hội. Điều 11, ghi: "Mọi hội viên của Liên đoàn, khi
thay đổi chỗ ở, đều phải báo cáo trưốc việc đó vối
chủ tịch chi bộ mình"^ Điểu 20, ghi cách giám sát
của Ban Chấp hành Trung ương, của Đại hội với
1. C.Mác và Ph.Ảngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.733.
13
tổng khu bộ là: "Các tổng khu bộ phải báo cáo
công tác với cơ quan quyền lực tốỉ cao là đại hội,
còn giữa các kỳ đại hội thì báo cáo với Ban chấp
hành trung ương"'. Điểu 21, quy định việc giám
sát của Đại hội đối với Ban Chấp hành Trung
ương là: "Ban chấp hành trung ưđng là cơ quan
chấp hành quyền lực của toàn Liên đoàn và với tư
cách đó, phải báo cáo công tác vói Đại hội"^. Điều 28,
cũng ghi rõ phướng thức giám sát của các tổ chức
của Liên đoàn thông qua việc liên lạc và báo cáo,
xem xét báo cáo, đó là; "Mỗi hội viên của Liên
đoàn phải liên lạc ít nhất ba tháng một lần, còn
mỗi chi bộ phải liên lạc mỗi tháng một lần vối ban
chấp hành khu bộ của mình. ít nhất là cứ hai
tháng một, mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình
công tác của địa phương mình vói tổng khu bộ, ít
nhất ba tháng một lần, mỗi tổng khu bộ phải báo
cáo tình hình công tác của địa phương mình với
Ban chấp hành trung ương"^.
Điều 23 Điều lệ Liên đoàn cũng quy định việc
giám sát của Ban Chấp hành Trung ương là; "Ban
chấp hành trung ương giữ liên lạc với các tổng
khu bộ. Cứ ba tháng một lần Ban chấp hành
trung ưđng lập bản báo cáo về tình hình của toàn
Liên đoàn""'. Điều 29, còn quy định việc giám sát
của cd quan cấp trên đối vôi cơ quan giúp việc của
1,
2, 3, 4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.735,
,736, 738.
14
Liên đoàn là; "Mỗi Cđ quan của Liên đoàn phải thi
hành những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự an
toàn của Liên đoàn và tăng cưòng sự hoạt động
của Liên đoàn, tự mình phụ trách hoạt động theo
Điều lệ và lập tức báo cáo mọi việc cho cơ quan
cấp trên biết"'. Ngoài ra, Điểu 48 Điều lệ còn quy
định giám sát đốì với việc thu chi, sử dụng kinh
phí của Liên đoàn, của khu bộ. Đó là: "Các ban
chấp hành khu bộ, chậm nhất là ba tháng, phải
báo cáo với các chi bộ về tình hình thu chi. Ban
chấp hành trung ương trình trưóc Đại hội bản báo
cáo về việc sử dụng kinh phí của Liên đoàn và về
tình hình về quỹ của Liên đoàn. Mọi sự biển thủ
kinh phí của Liên đoàn sẽ bị nghiêm trị"^.
V.I.Lênin luôn coi công tác giám sát là một công
cụ hữu hiệu và là một trong những nội dung lãnh
đạo, quản lý quan trọng đốỉ với tổ chức đảng, cđ
quan nhà nưóc, đoàn thể chính trị - xã hội... Theo
Ngiíòi, muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã để
ra thì những ngưòi cộng sản phải nắm chắc công cụ
giám sát, kiểm soát, coi đó như là: "những nhiệm vụ
đã trỏ thành tự nhiên đốì với những người xã hội
chủ nghĩa sau khi đã giành được chính quyền"^.
V.I.Lênin khẳng định, giám sát là một trong
những chức năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và
1, 2. C.Mác và PLẪngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr, 736, 738.
3.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốic gia, Hà
Nội, 2006, t.36, tr. 298.
15
Nhà nước; "kiểm soát phải được đặt thành vấn đề
nổi bật trong toàn bộ việc quản lý nhà niíóc"'.
Người yêu cầu; "Để khuyên khích đến mức cao
nhất tinh thần phát huy sáng kiến, tính chủ động
và phạm vi hoạt động rộng lổn của địa phương,
cũng như để lấy kinh nghiệm địa phưđng và sự
giám sát của địa phương mà kiểm tra công tác của
cơ quan trung ương và ngược lại, do đó tẩy trừ tác
phong lề mề, quan liêu"^. Đảng và Nhà nước phải
nắm chắc công tác giám sát, kiểm tra, nếu buông
lỏng "thì chính quyền của những người lao động,
nền tự do của họ, sẽ không thể nào duy trì được và
nhất định họ sẽ phải sốhg trở lại dưới ách của chủ
nghĩa tư bản"^... Vì vậy, muốh thực sự có chủ nghĩa
xã hội phải thực hiện nghiêm chế độ giám sát, vì
"thực hiện sự kiểm soát nghiêm ngặt và sự kiểm kê
đỐì với sản xuất, - đó là bước đầu của chủ nghĩa xã
hội"^ V.I.Lênin còn chỉ rõ: "Kiểm kê và kiểm soát;
thực chất của chủ nghĩa xã hội"®. Người còn nhấn
mạnh: "Từ nay cho đến khi giai đoạn “cao” của chủ
nghĩa cộng sản xuất hiện, những người xã hội chủ
nghĩa yêu cầu xã hội và nhà nước kiểm soát thật
nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu
dùng"® và "không có chế độ kế toán và kiểm soát
trong sự sản xuất và phân phôi sản phẩm, thì những
mầm mống của chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt"’.
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. V.I.Lênm: Toàn tập, Sđd, t.36, tr. 166; t.43,
tr. 324-325; t.36, tr. 224, 225; t.35, tr. 68, 224; t.33, tr, 119.
16
Nêu như các cán bộ lãnh đạo và các cơ quan của
Đảng và Nhà nước chỉ "bù đầu, bù tai" vào những
công việc vụn vặt, chìm đắm trong "cái biển" giấy
tò và cái vũng lầy chủ nghĩa quan liêu mà quên
mất nhiệm vụ trọng tâm: lựa chọn cán bộ, kiểm
tra, kiểm soát, phát triển kinh tế, thì tất cả mệnh
lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn".
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát
triển lý luận của Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta. Theo Hồ Chí Minh, "Lãnh đ ạo đúng
nghĩa là: Phải quyết định mọi vấn đề một cách
cho đúng... Phải tổ chức sự thi hành cho đúng...
Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát
đúng thì phải có quần chúng giúp mới được"'...
Theo Ngưồi, khi mục đích, nhiệm vụ chính trị đã
đưỢc xác định, nghị quyết đã được thông qua thì
nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu.
Điều cốt yếu là chuyển trọng tầm từ việc soạn
thảo các nghị quyết, chỉ thị sang việc lựa chọn
ngưòi lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực
hiện. Đó là vấn để then chốt đối vói đảng cầm
quyền; tìm ngưồi, kiểm tra, giám sát công việc tất cả là ở đó. Sự đúng đắn, chính xác của các
quyết định của Đảng phụ thuộc vào nhiểu yếu tố,
trong đó công tác kiểm tra, giám sát là yếu tố rất
1.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995. t.5, tr. 285-286.
17
quan trọng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng có hiểu
rõ tình hình thì đặt chính sách môi đúng. Mà
muôn Đảng hiểu rõ thì đảng viên và cán bộ, phải
điều tra và báo cáo rõ ràng tình hình từng xã,
từng huyện, từng tỉnh, từng khu". Nếu không biết
rõ tình hình mà đặt chính sách thì kết quả là "nồi
vuông úp vung tròn" không ăn khớp gì hết"'. Hồ
Chí Minh khẳng định: Có giám sát, "kiểm tra mới
huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát
của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm
của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thồi"^.
12. về mục đichị ỷ nghĩa của công tác giám sát
Theo V.I.Lênin, mục đích cao nhất của công tác
giám sát là nhằm: hoàn thiện quy trình lãnh đạo
của Đảng (bao gồm các khâu; ra quyết định, tổ
chức thực hiện, kiểm tra và giám sát; sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm...); phát hiện người tốt. việc
tốt; ngăn ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ luật của Đảng;
góp phần thực hiện có kết quả cao nhất các nghị
quyết đã để ra và xây dựng, củng cô”tổ chức đảng,
bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị - xâ hội
ngày càng trong sạch, vững mạnh.
V.I.Lênin cho rằng, ý nghĩa và tác dụng lớn
nhất của công tác giám sát là để; sửa chữa, uốn
1, 2. Hồ Chí Mmh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 307, 636.
18
nắn công việc, ngăn ngừa thiếu sót và sai lầm; chủ
động phòng ngừa, không để xảy ra vi phạm. Nghĩa
là ngăn ngừa trước hoặc giảm bớt ảnh hưởng của
những khuynh hướng tiêu cực trên cơ sỏ phân tích
có hệ thống vể chất lượng nội dung hoạt động của
cá nhân và tổ chức. Giám sát tạo ra tinh thần
trách nhiệm cao và kỷ luật nghiêm ỏ mỗi cán bộ,
đảng viên, mặt khác giám sát sẽ đẩy mạnh cuộc
đấu tranh "chông chủ nghĩa quan liêu, nhằm mở
rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát
hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi đảng những kẻ
lén lút chui vào đảng"'. Ngưòi còn cho rằng,
"nếu các xôviết thực hiện được sự kiểm soát và
giám sát" thì sẽ "biến cái khôi nhân viên của các
ngân hàng, của các xanh-đi-ca, của ngành
thương mại, V.V., V.V., "thành các nhân viên của
nhà nước"
Hồ Chí Minh đâ chỉ rõ, có giám sát mới biết rõ
cán bộ và nhân viên tốt hay xấu, mới biết rõ ưu
điểm và khuyết điểm của các cơ quan, mối biết rõ
tính đúng đắn, khả thi hay chưa phù hđp của các
nghị quyết, chỉ thị... "Muốn chống bệnh quan liêu,
bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được
thi hành không, thực hành có đúng không, muốn
biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một
cách, là khéo kiểm soát Kiểm soát khéo, bao
1, 2. V.I.Lênin: Toàn tập, S(M, t.43, tr. 109; t.34, tr. 405.
19
nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra
khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi"'. Đối
với cán bộ, đảng viên, công chức, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ phải tăng cưòng giám sát để
quản lý, giáo dục, rèn luyện họ, để giúp họ tự tu
dưỡng, trau dồi đạo đức cách mạng, tính tiên
phong gương mẫu của ngưồi cộng sản. Đặc biệt là
ngưòi lãnh đạo trong hệ thống chính trị phải luôn
luôn rèn luyện đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện
đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó có giám sát,
đặc biệt là sự giám sát của nhân dân đối vối cán
bộ, đảng viên. Người chỉ rõ: "Để thực hiện chữ
Liêm, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giẵo dục
và pháp luật, từ trên xuống, từ dưói lên... Vì vậy,
dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm
soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM"^.
Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao ý nghĩa, tác
dụng của công tác giám sát. Ngưòi đã thường
xuyên nhắc nhở; Đảng phải luôn luôn xem lại
những nghị quyết và chỉ thị của mình đã thi hành
thế nào. Nếu không như vậy, thì những nghị
quyết và chỉ thị đó không chỉ là lời nói suông mà
còn hại đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia - Sự
thật. Hà Nội, 2011, t.5, tr. 327.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 641.
20
- Xem thêm -