VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TIẾN HƯNG
TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PSG.TS.NGUYỄN VĂN HUYÊN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn của tôi với đề tài “Tái phạm và tái phạm
nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là kết
quả nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, nội dung bản án
được thu thập trung thực, chính xác. Nội dung luận văn chưa từng được công
bố trên các tài liệu khoa học khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2020
HỌC VIÊN
NGUYỄN TIẾN HƯNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM ... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tái phạm và tái phạm nguy hiểm ....................... 7
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tái phạm và tái phạm
nguy hiểm ........................................................................................................ 24
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH BẮC NINH.................................................................................. 31
2.1. Quy định của Bộ luật Hình sự 2015 về tái phạm và tái phạm nguy hiểm 31
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tái phạm và tái phạm
nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................ 36
2.3. Nhận xét về áp dụng pháp luật về tái phạm và tái phạm nguy hiểm từ thực
tiễn tỉnh Bắc Ninh ........................................................................................... 43
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TÁI PHẠM VÀ
TÁI PHẠM NGUY HIỂM............................................................................ 57
3.1. Yêu cầu của bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tái
phạm và tái phạm nguy hiểm .......................................................................... 57
3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự
về tái phạm và tái phạm nguy hiểm ................................................................ 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
VKS: Viện kiểm sát
HĐXX: Hội đồng xét xử
NQ: Nghị quyết
HĐTP: Hội đồng thẩm phán
Tr: Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực được thể hiện dưới dạng
những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ. Do đó, khi một người bị tuyên là tội phạm thì phải
chịu sự trừng phạt của pháp luật về những hành vi mà họ gây ra.
Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực
hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Theo đó, việc bị áp
dụng tình tiết tái phạm thể hiện mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi ở
lần phạm tội này là nguy hiểm hơn so với các tội phạm được thực hiện tương
tự. Tính nguy hiểm không phải chỉ thể hiện ở chỗ người phạm tội đã thực hiện
nhiều tội phạm mà quan trọng hơn đó là người phạm tội đã từng gánh chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình hoặc từng được cơ quan
chức năng giáo dục, cải tạo nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Ngoài ra, trường hợp
tái phạm nguy hiểm cũng là một dạng đặc biệt của tái phạm và mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn so với tội phạm tái phạm. Bởi vậy, tình tiết tái phạm
và tái phạm nguy hiểm là tình tiết khi được áp dụng sẽ gây bất lợi về hậu quả
pháp lý nặng nề hơn so với các tội phạm thông thường không bị áp dụng các
tình tiết trên.Điều nàythể hiện đường lối xử lý nghiêm khắc hơn đối với người
tái phạm, tái phạm nguy hiểm so với trường hợp phạm tội thông thường.
Nhận thức được tính nguy hiểm cao cho xã hội trong trường hợp tái
phạm, tái phạm nguy hiểm nên ngay trong Bộ luật hình sự lần đầu tiên của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua ngày
27/6/1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986 đã ghi nhận tái phạm và
tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Phần
1
chung vừa là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều loại tội trong
Phần riêng của Bộ luật hình sự. Chế định này tiếp tục được kế thừa những
quy định hợp lý và được sửa đổi, bổ sung trong BLHS năm 1999, tiếp tục
được sửa đổi, bổ sung ở BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Và cho đến
nay, Bộ luật Hình sự hiện hành (Bộ luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017) ra đời tiếp tục ghi nhận chế định này và được sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với sự phát triển của xã hội. Điều này đánh dấu một bước tiến quan trọng,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và tội phạm tái phạm, tái phạm nguy hiểm nói riêng.
Tuy nhiên, kể từ khi BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có
hiệu lực cho đến nay, trong thực tế áp dụng chế định này bên cạnh những kết
quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập như: xác định
nhầm lẫn tái phạm, bỏ lọt tái phạm, không thống nhất về áp dụng tái phạm
giữa các cơ quan áp dụng pháp luật. Thực trạng này dẫn đến việc xử lý tội
phạm không chính xác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội. Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm đã được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học pháp lý, tuy nhiên việc nghiên cứu đa
phần từ các công trình nghiên cứu theo BLHS 1999, hoặc các công trình đề
cập một số khía cạnh có liên quan mà thiếu đi tính chuyên sâu và tổng quát cả
về lý luận và thực tiễn. Do vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề
lý luận về tái phạm, tái phạm nguy hiểm và thực tiễn áp dụng quy định này là
cấp thiết. Vì vậy, học viên xin lựa chọn nghiên cứu luận văn tốt nghiệp với đề
tài: “Tái phạm và tái phạm nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”.
2. Tình hình nghiên cứu
2
Trong những năm trở lại đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa
học pháp lý đề cập đến nội dung tái phạm và tái phạm nguy hiểm theo pháp
luật hình sự Việt Nam. Có thể kể đến như:
Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ: Lê Thị Ngọc, “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về tái phạm theo Luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ năm
2013; Nguyễn Thanh Tùng,“Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2014; Nguyễn Thị Thanh Phương, “Tái phạm, tái phạm nguy
hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận
văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, năm 2017; Nguyễn Văn Long, “Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội, năm 2017…
Các sách, giáo trình nghiên cứu: Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), “Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung”, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb. Công an nhân dân năm 2018; TSKH. PGS Lê Cảm, “Những vấn đề cơ
bản trong khoa học Luật hình sự”, phần chung, chương IV, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội năm 2005; PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), “Nhiều tội
phạm (Chương XV, giáo trình Luật hình sự Việt Nam)”; TS. Lê Văn Đệ,
“Nhiều tội phạm”, NXB Công an nhân dân năm 2010; GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa (Chủ biên), “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa
đổi, bổ sung năm 2017-(Phần chung)”, Nxb. Tư pháp;Đinh Văn Quế, “Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần thứ nhất: Những quy định
chung”, Nxb. Thông tin và truyền thông; Đinh Văn Quế, “Chuyện pháp
đình”, Nxb. Thông tin và truyền thông…
Các tạp chí khoa học: Trương Thị Hằng (2006), Bàn về việc xác định
tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong trường hợp có quy định về định lượng
3
giá trị tài sản bị chiếm đoạt, Tạp chí kiểm sát Số 21/2006, tr. 31 – 34; Đỗ Văn
Chỉnh (2012), Quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm và những nội dung
cần sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14/2012, tr. 24 – 34; Đỗ Văn Chỉnh
(2015), Tái phạm và những vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Tòa án nhân dân số
6/2015, tr. 19 – 26; Trần Văn Độ (1996), Vấn đề tái phạm và hoàn thiện chế
định tái phạm trong luật hình sự Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số
6/1996, tr. 47 – 49; Phạm Văn Thiệu (2001), Vấn đề tái phạm, tái phạm nguy
hiểm trong Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí kiểm sát số 9/2001, tr. 19; Nguyễn
Nông (2001), Về tình tiết tái phạm và tái phạm nguy hiểm trong Bộ luật Hình
sự 1999, Tạp chí kiểm sát số 4/2001, tr. 16 - 17, 34; Đỗ Văn Chỉnh (2009),
Xoá án tích với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, Tạp chí Tòa án
nhân dân, Số 2/2009, tr. 25 - 32, 36.
Các công trình nêu trên đa phần được phân tích theo BLHS 1999, một
số ít các công trình nghiên cứu quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
theo BLHS 2015 và thường tập trung vào các giáo trình của các trường đại
học. Có một số đề tài luận văn đề cập về quy định tái phạm, tái phạm nguy
hiểm nhưng ở phạm vi tỉnh thành khác. Hiện nay, chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các vấn đề về tái phạm, tái phạm
nguy hiểm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ một tỉnh cụ thể là Bắc Ninh.
Do đó luận văn đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các đề tài đã được
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tái phạm và tái phạm nguy hiểm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
+ Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận chung về tái phạm và tái
phạm nguy hiểm.
+ Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về tái phạm, tái phạm
nguy hiểm;
+ Phân tích, đánh giá tình hình áp dụng chế định tái phạm, tái phạm
nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đánh giá những kết quả đạt được,
những hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
+Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi áp dụng chế định
tái phạm và tái phạm nguy hiểm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quy định của pháp luật hiện hành về Tái phạm
và tái phạm nguy hiểm, các báo cáo, số liệu tổng kết của tỉnh Bắc Ninh về tái
phạm và tái phạm nguy hiểm.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận,
quy định BLHS 2015và thực trạng áp dụng cácquy địnhvề tái phạm, tái phạm
nguy hiểm.
+ Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu việc áp dụng quy
định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
+ Thời gian nghiên cứu: Các số liệu, kết quả thu thập trong 05 năm từ
năm 2015-2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở ý lý luận của luận văn là lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật; chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
5
về chiến lược cải cách tư pháp, về chính sách đấu tranh, phòng, chống tội
phạm; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách
chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật
hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới.
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ
bản như: phân tích tổng hợp, thống kế, khảo sát, so sánh,… nhằm làm sáng tỏ,
luận giải các nội dung nghiên cứu đề tài.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn
đề lý luận về tái phạm và tái phạm nguy hiểm.
- Ý nghĩa thực tiễn:Luận văn có giá trị tham khảo thiết thực đối với các
nhà lập pháp hình sự trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật hình
sự cũng như đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp
dụng pháp luật. Cùng đó, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo bổ ích trong
quá trình giảng dạy hình sự và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Nội dung của Luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam
về tái phạm và tái phạm nguy hiểm
Chương 2: Quy định của bộ luật hình sự năm 2015 về tái phạm và tái
phạm nguy hiểm và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định
của pháp luật hình sự về tái phạm và tái phạm nguy hiểm
6
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TÁI PHẠM VÀ TÁI PHẠM NGUY HIỂM
1.1. Những vấn đề lý luận về tái phạm và tái phạm nguy hiểm
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về tái phạm
1.1.1.1. Khái niệm
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm” được sử
dụng rộng rãi, tuy nhiên, nội dung tái phạm ở mỗi ngành luật lại được định
nghĩa, giải thích khác nhau. Cụ thể:
Tái phạm trong quan hệ hành chính được ghi nhận tại khoản 5 Điều 2
Luật xử lý vi phạm hành chính được hiểu như sau: “Tái phạm là việc cá
nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được
coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, kể từ ngày chấp hành xong quyết
định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc kể từ ngày
hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành
chính đã bị xử lý”.[45, khoản 5 Điều 2]
Tái phạm trong quan hệ lao động được ghi nhận tại khoản 3 Điều 125
Bộ luật lao động được hiểu như sau: “Tái phạm là trường hợp người lao động
lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy
định tại Điều 126 của Bộ luật này” [44, khoản 3 Điều 125]
Trong quan hệ pháp luật hình sự, tái phạm được ghi nhận trong tất cả
các BLHS năm 1985, 1999 và nay tiếp tục được ghi nhận trong BLHS 2015.
Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái niệm tái phạm trong pháp luật hình sự chưa
được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, xây dựng. Theo đó, người phạm
tội bị coi là tái phạm khi có đủ các điều kiện sau:
7
Một là, người phạm tội đã bị kết án và chưa được xóa án tích. Điều
kiện đã bị kết án là điều kiện tiên quyết trước khi xem xét người đó có tái
phạm hay không, việc đã bị kết án được hiểu là một người đã bị Tòa án nhân
dân kết án mà không phân biệt tội phạm bị kết án là tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm đó được
thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý thì đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của điều
kiện trên. Tuy nhiên cần lưu ý rằng không phải tất cả những người đã bị kết
án đều bị coi là có án tích. Các trường hợp đã bị kết án nhưng không bị coi là
có án tích được quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS và tại khoản 1 Điều 107
BLHS (đối với người bị kết án dưới 18 tuổi). Như vậy, người đã bị kết án mà
không thuộc các trường hợp này mới bị coi là có án tích. Tuy nhiên, án tích sẽ
được xóa theo quy định tại các điều từ khoản 1 Điều 69 đến Điều 73 và khoản
2 Điều 107 BLHS.
Hai là, người đang có án tích đã phạm tội mới và tội phạm đó là tội
phạm do cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Người đang có án tích là người vẫn đang thuộc đối tượng được quan tâm,
chăm sóc, giáo dục trong quá trình hòa nhập, tái cộng đồng, đây là giai đoạn
nhạy cảm khi tư tưởng, thái độ, ý thức pháp luật của họ dần thay đổi theo
chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực sau khi chấp hành hình phạt tù của bản án
trước. Việc họ tiếp tục phạm tội mới trong giai đoạn này sẽ được suy đoán ý
thức pháp luật của họ chưa được thay đổi theo hướng tích cực, hình phạt trước
đối với họ chưa thể giáo dục họ hoàn lương do vậy cần áp dụng hình phạt
nghiêm khắc hơn ở lần phạm tội này. Điều lưu ý là tội phạm người đang có án
tích thực hiện phải là tội phạm mới, đồng nghĩa với việc các tội phạm mà
trước đây họ thực hiện nhưng chưa bị phát hiện mà nay bị phát hiện và chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ mới bị xem xét áp dụng tái
phạm. Bên cạnh đó, ở điều kiện tiếp theo ghi nhận tội phạm mới này phải là
8
tội phạm do cố ý (không phân biệt tội phạm thực hiện mới này là loại tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm
trọng) hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, khái niệm tái phạm được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau có thể kể đến:
Quan điểm thứ nhất: Cho rằng tái phạm là tình trạng một người trước
đãbị kết án về một tội, về sau lại phạm và bị truy tố nữa [13, tr.82]. Theo
đó,cácđiều kiện của tái phạm gồm: 1) Người thực hiện hành vi phạm tội đã bị
kết ánđối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước đó; 2) Người phạm tội lại
phạmtội mới.
Quan điểm thứ hai: Tái phạm là trường hợp của người đã từng bị kết
tội
bởi một bản án có hiệu lực pháp luật, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
lần nữa [24, tr.12].
Quan điểm thứ ba: Tái phạm là trường hợp phạm tội sau khi đã bị xử
phạt và chưa được xoá án tích về tội đã phạm trước đó [26, tr.107].
Về bản chất các quan điểm nêu trên đều được xây dựng dựa trên quy
định của BLHS về các điều kiện áp dụng tái phạm, tuy nhiên việc luận giải,
diễn đạt và sử dụng một số thuật ngữ trong nội dung các khái niệm trên có sự
khác nhau. Từ sự phân tích trên, học viên đồng tình với khái niệm tái phạm
được ghi nhận trong BLHS 2015 đã thể hiện đầy đủ bản chất cũng như dấu
hiệu, điều kiện xác định tái phạm, đó là: Tái phạm là trường hợp người thực
hiện hành vi phạm tội mới do cố ý hoặc do vô ý về tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong thời gian chưa được xóa án tích về tội
phạm trước đã bị kết án. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm có tính
nguy hiểm cao hơn người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội lần đầu vì họ
9
đã bị kết án nhưng phạm tội lại trong thời gian chưa được xóa án tích về tội
đã bị kết án.
1.1.1.2. Đặc điểm
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái niệm tái phạm nêu trên, có thể
thấy tái phạm có một số đặc điểm sau:
Một là, tái phạm là hành vi phạm tội lặp lại. Bản chất của tái phạm là
sự lặp lại hành vi phạm tội do đó một trong các dấu hiệu khi nhắc đến tài
phạm đó chính là hành vi phạm tội lặp lại.
Hai là, người thực hiện tội phạm trước đây đã bị kết án và bị xử phạt
theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Điều này có nghĩa là trước khi
thực hiện hành vi phạm tội lần này (tội phạm lặp lại) người phạm tội đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó thoả mãn các dấu diệu của
cấu thành tội phạm độc lập. Hành vi phạm tội trước đó đã bị đưa ra xét xử và
người phạm tội đã bị Toà án kết tội và bị áp dụng hình phạt.
Ba là, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới trong một
khoảng thời gian nhất định sau khi bị kết án lần thứ nhất. Về mặt lập pháp,
các nhà làm luật thường đưa ra quy định “một khoảng thời gian nhất định” kể
từ ngày bị kết án lần thứ nhất tức là khi hết thời gian đó thì người bị kết án sẽ
không bị coi là người phạm tội lần nữa và hành vi phạm tội mới sẽ không bị
coi là tái phạm hay nói cách khác, hết khoảng thời gian đó thì người phạm tội
sẽ được xoá án tích.
Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành không có quy định cụ
thể thế nào là án tích nhưng dựa trên các quan điểm khác nhau của các nhà
nghiên cứu khoa học pháp lý và sự đúc kết từ bản thân học viên, học viên cho
rằng: Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết án bị áp dụng hình phạt
theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. Trong một khoảng thời gian
10
nhất định theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, người bị kết án mặc
dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt chính, hình phạt bổ sung và
các quyết định khác của Toà án) nhưng vẫn chưa hết án tích hoặc chưa được
xoá án tích theo các quy định của pháp luật hình sự.
Như vậy, khi nhắc đến án tích bao giờ cũng gắn với việc một người bị
kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án và được coi là xóa án tích
khi hết thời hạn thử thách mà pháp luật quy định.
Bốn là, tái phạm là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân
người phạm tội. Tái phạm là một tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội đồng thời bản thân người phạm tội cũng trở nên nguy hiểm
hơn đối với xã hội khi thực hiện hành vi phạm tội mới. Do đó, việc áp dụng
tình tiết tăng nặng TNHS là tái phạm sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý theo hướng
bất lợi hơn cho người phạm tội. Vì vậy, việc quy định về tái phạm và áp dụng
quy định pháp luật hình sự về tái phạm không thể tùy tiện. Như vậy, việc ghi
nhận tái phạm với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS trong Bộ luật hình
sự phản ánh chính sách hình sự nghiêm khắc và công bằng của Nhà nước ta.
Đồng thời, tái phạm cũng trở thành một trong những căn cứ để phân hoá
TNHS và cá thể hoá hình phạt đối với người phạm tội.
Năm là, tái phạm là thước đo kết quả của chấp hành hình phạt của
người bị kết án. Có thể nói, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với
tình tiết tái phạm là người đã từng bị xử lý về trách nhiệm hình sự, từng bị áp
dụng hình phạt mà vẫn không ăn năn, hối cải, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi
phạm tội mới thể hiện sự chống đối lại xã hội, coi thường pháp luật. Điều này
chứng tỏ hình phạt trước đây đã áp dụng đối với họ chưa đủ sức răn đe, cải
tạo họ. Vì thế, ở lần tái phạm này, cần phải áp dụng các hình phạt nghiêm
khắc hơn để phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Đồng thời,
11
hy vọng rằng với hình phạt nghiêm khắc hơn có đủ tính răn đe để họ có thể
cải tà quy chính, quay lại trở thành công dân có ích cho xã hội.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về tái phạm nguy hiểm
1.1.2.1. Khái niệm
Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đặc biệt của tái phạm, trong lịch sử
phát triển pháp luật hình sự chưa có một quy định nào đề cập, luận giải khái
niệm tái phạm nguy hiểm.
Trong dự thảo Thông tư ngày 16/3/1973 của liên bộ Toà án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an lần đầu tiên quy định về
định nghĩa tái phạm nguy hiểm, đó là: “Trường hợp trước đã bịxử án về một
tội nghiêm trọng sau cũng phạm một tội nghiêm trọng hoặc trước đã bị xử án
về tội không nghiêm trọng nay phạm vào một tội nghiêm trọng”[54].
Theo đó, để xác định hành vi phạm tội được coi là tái phạm nguy hiểm
thì phải đáp ứng các điều kiện sau: Đã bị kết án về một tội nghiêm trọng hoặc
không nghiêm trọng và nay lại phạm tội nghiêm trọng.
Trong cuốn Hệ thống hoá luật lệ về hình sự, tập II (1975 – 1978) do
Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1979 thì trường hợp tái phạm nguy
hiểm được hiểu như sau: “Đối với những tội nghiêm trọng chỉ cần tái phạm
một lần nữa đã được coi là tái phạm nguy hiểm. Đối với những tội ít nghiêm
trọng hơn, tái phạm hai, ba lần trở lên mới coi tái phạm nguy hiểm”[54].
Theo quan điểm này, thì tái phạm nguy hiểm được coi là một trường
hợp của tái phạm, là trường hợp tái phạm nhiều lần và điều kiện của tái phạm
nguy hiểm được xác định là:người thực hiện hành vi phạm tội trước đây đã
từng phạm tội và bị kết án; nay lại tái phạm;trường hợp phạm tội ít nghiêm
12
trọng hơn thì điều kiện là phạm tội từ hai, ba lần trở lên được coi là tái phạm
nguy hiểm.
Trong góc độ nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự, tái phạm nguy
hiểm đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học đưa ra nhưng tinh thần chung
đều dựa trên các điều kiện xác định tái phạm nguy hiểm, theo đó, thuộc trườn
hợp tái phạm nguy hiểm khi thuộc các một trong các trường hợp như sau:
Một là, đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Điểm khác
biệt giữa tái phạm ở trường hợp này chính là điều kiện đặt ra đối với tội phạm
trước phải là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chỉ
khi thuộc trường hợp này mới bị xem xét áp dụng tình tiết tái phạm nguy
hiểm. Bên cạnh đó, khi đáp ứng điều kiện trên, thì tương tự như tái phạm, tái
phạm nguy hiểm cũng đặt ra điều kiện đối với tội phạm mới là tội phạm rất
nguy hiểm, tội phạm đặc biệt nguy hiểm do cố ý. Qua nghiên cứu, học viên
nhận thấy, khi thỏa mãn 1 trong 2 điều kiện trên thì không thuộc trường hợp
tái phạm nguy hiểm nhưng sẽ thuộc trường hợp tái phạm.
Ví dụ 1: A đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng (hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng) do cố ý (thỏa mãn điều kiện 1), chưa được xóa án tích
mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm ít nghiêm trọng (hoặc tội phạm
nghiêm trọng, hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý)
(không thỏa mãn điều kiện 2). Trường hợp này không phải tái phạm nguy
hiểm, tuy nhiên đốichiếu với quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS thì trường
hợp này thuộc trường hợp tái phạm.
Ví dụ 2: A đã bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng (hoặc nghiêm
trọng, hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô
13
ý) (không thỏa mãn điều kiện 1), chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành
vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng (hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng) do cố ý (thỏa mãn điều kiện 2). Trường hợp này không phải tái phạm
nguy hiểm, tuy nhiên đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS thì
trường hợp này thuộc trường hợp tái phạm.
Hai là, Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi
phạm tội do cố ý. Trường hợp một người đã bị kết án, mà ở bản án trước đã
áp dụng tình tiết tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi
phạm tội (không phân biệt tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) do vô ý thì đều
thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về tái phạm nguy hiểm
như sau: Tái phạm nguy hiểm là một trường hợp đặc biệt của tái phạm, trong
đó, tái phạm nguy hiểm có tính nguy hiểm cao hơn trường hợp tái phạm,
vàthuộc một trong các trường hợp theo luật định.
1.1.2.2. Đặc điểm
Tái phạm nguy hiểm là một trường hợp của tái phạm. Do đó, tái phạm
nguy hiểm cũng có những đặc trưng chung của tái phạm, đó là: Tái phạm là
hành vi phạm tội lặp lại; Người thực hiện tội phạm trước đây đã bị kết án và
bị xử phạt theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam; Người phạm tội lại
thực hiện hành vi phạm tội mới trong một khoảng thời gian nhất định sau khi
bị kết án lần thứ nhất; Tái phạm là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về
nhân thân người phạm tội; Tái phạm là thước đo hiệu quả của hình phạt.
Ngoài ra, tái phạm nguy hiểm còn một số đặc trưng riêng như sau:
Một là, tái phạm nguy hiểm có tính nguy hiểm rất cao thể hiện ở việc
tội phạm mà người phạm tội thực hiện là những tội gây huy hại rất lớn hoặc
14
đặc biệt lớn cho xã hội. Tái phạm nguy hiểm không đơn giản chỉ là thực hiện
một tội phạm mà nó là một hình thức đa tội phạm. Điều này có nghĩa là người
phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cao (từ hai hành
vi phạm tội trở lên).
Hai là, người tái phạm nguy hiểm cần phải áp dụng biện pháp trừng
phạt nghiêm khắc hơn thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc, công bằng
của Nhà nước ta, đồng thời phải đủ tính răn đe đối với các đối tượng tái phạm
nguy hiểm nhằm trừng phạt họ, răn đe, giáo dục họ cải tà quy chính, trở thành
người có ích cho xã hội.
1.1.3. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với một số trường hợp
khác
1.1.3.1. Phân biệt tái phạm, tái phạm nguy hiểm với phạm tội 02 lần trở lên
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm và phạm tội 02 lần trở lên là những tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015.
Tuy nhiên, hai trường hợp này có sự khác nhau, sự khác biệt này sẽ giúp cơ
quan tư pháp xác định đúng trách nhiệm đối với người phạm tội.
Thật ra, trước đây, trong BLHS năm 1999, có đưa ra tình tiết phạm tội
nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 (các tình tiết tăng nặng
TNHS). Hiện nay, tại BLHS 2015 không sử dụng cụm từ “phạm tội nhiều
lần” mà thay vào đó là sử dụng cụm từ “phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm g
khoản 1 Điều 52. Tuy nhiên, cả BLHS 1999 và 2015 vẫn không nêu ra khái
niệm cụ thể đối với phạm tội 02 lần trở lên là như thế nào. Nhưng căn cứ theo
quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì phạm tội hai lần được hiểu là phạm cùng
một tội, từ 02 lần trở lên, nhưng những lần trước chưa bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội danh đó.
15
Như vậy, bản chất của phạm tội 02 lần trở lên là người phạm tội đã
thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng.
Nếu xét riêng từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi một hành vi phạm tội đó
đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập. Trong trường hợp phạm tội
02 lần trở lên thì các hành vi phạm tội này phải còn thời hạn truy cứu trách
nhiệm hình sự, chưa bị xét xử và nay phải cùng bị đưa ra xét xử một lần trong
cùng một vụ án. Ngoài ra, tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định
tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật hình sự ( có thể là cùng thuộc
tội trộm cắp, hiếp dâm...), có thể cùng một khoản, cũng có thể phạm tội ở các
khoản khác nhau của cùng một điều luật.
Còn về tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà
lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.Tội phạm mới
được thực hiện có thể cùng hoặc không cùng với với tội phạm trước tuy
nhiên, điều kiện đặt ra đối với tội phạm mới này phải là thực hiện hành vi
phạm tội do cố ý, hoặc nếu trường hợp thực hiện do vô ý thì tội phạm thực
hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong khoa học luật hình sự chưa có quy định cụ thể về tái phạm nguy
hiểm. Khi nói về tái phạm nguy hiểm các nhà làm luật thể hiện bằng phương
pháp liệt kê như sau:
(1) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm
tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
(2) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm
tội do cố ý.
16
- Xem thêm -