- Cần có các nghiên cứu đầy đủ để đánh giá vai trò của thảm cỏ biển đối với môi
trường được một cách toàn diện hơn nữa.
4. Các tác động của con người đến các hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển
Trong những năm gần đây sức ép của sự tăng nhanh dân số, phát triển kinh tếxã hội, quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên chưa hợp lý ở Khánh Hòa đã đe dọa
thật sự đến các tài nguyên và môi trường biển. Các hệ sinh thái vùng ven bờ đang đứng
trước các nguy cơ bị hủy hoại, suy thoái hoặc mất cân cân bằng sinh thái, giảm sút
nguồn lợi và tính đa dạng sinh học gây nên những ảnh hưởng xấu cho mọi chiến lược
bảo vệ, khai thác bền vững và phát triển kinh tế biển.
Rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở Khánh Hòa vẫn còn chưa được điều tra,
nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ, trong khi đó những họat động kinh tế- xã hội
vùng ven bờ như xây dựng đường xá, cơ sở hạ tầng, phát triển làng mạc, gia tăng dân
số, xây dựng ao đìa nuôi tôm thiếu quy hoạch… đang diễn ra nhanh chóng đã làm mất
đi nhiều diện tích rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và đang đe dọa suy thóai các hệ sinh
thái biển nói chung.
Vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa gồm 5 huyện, thành phố, thị xã: Vạn Ninh,
Ninh Hòa, Nha Trang, Cam Lâm, Cam Ranh là nơi phân bố của rừng ngập mặn và
thảm cỏ biển. Báo cáo nêu lên bức tranh hiện trạng kinh tế- xã hội ở các huyện ven
biển và những tác động của chúng lên hệ sinh thái rừng ngập mặn và thảm cỏ biển.
4.1. Huyện Vạn Ninh
Diện tích tự nhiên của huyện Vạn Ninh là 550 km 2, trong đó diện tích đất nông
nghiệp là 256 km2, diện tích đất phi nông nghiệp là 28 km2 và diện tích chưa sử dụng
266 km 2.
Toàn huyện Vạn Ninh có 11 xã và 1 thị trấn gồm khu, ấp , thôn với 26.055 hộ
dân và 126.841 nhân khẩu. Tổng số lao động trong độ tuổi hiện nay 63.400 người,
chiếm 50% dân số. Các dải rừng ngập mặn và thảm cỏ biển quan trọng thấy phân bố ở
xã Vạn Thọ và xã Vạn Hưng.
Nhìn chung, kinh tế huyện Vạn Ninh vẫn là kinh tế nông, ngư nghiệp là chủ
yếu, tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư nghiệp trong tổng giá trị sản phẩm của huyện ngày
càng cao. Trong những năm qua, các ngành kinh tế đều có sự tăng trưởng, trong đó
ngành thuỷ sản vẫn là ngành có hiệu quả kinh tế cao và tốc độ tăng trưởng nhanh, ổn
91
định. Tỷ trọng giá trị sản xuất của các ngành nông nghiệp và thuỷ sản vẫn giữ được vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế của huyện và tiếp tục có xu hướng tăng lên trong cơ cấu
kinh tế của toàn huyện.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2008 thực hiện được 929,05 ha, thả nuôi
1.200 ha đìa tôm, sản lượng 2.500 tấn.
Kinh tế công nghiệp chỉ chiếm khoảng 20% giá trị gia tăng toàn huyện, tốc độ
tăng trưởng rất chậm. Đa số cơ sở các doanh nghiệp thuộc loại nhỏ, sản xuất các sản
phẩm đáp ứng nhu cầu tại chỗ là chính.
4.1.1. Xã Vạn Thọ
Xã Vạn Thọ nằm ở phía Bắc huyện Vạn Ninh. Tổng diện tích tự nhiên là
2.132,34 ha, 1.109 hộ dân cư với 4.685 nhân khẩu.
Ngành nông nghiệp của xã Vạn Thọ luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong
cơ cấu kinh tế, là nguồn sống cơ bản của cộng đồng dân cư. Kết quả điều tra cũng ghi
nhận có 60% hộ gia đình trong xã sống bằng nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
(nuôi tôm), số còn lại sống nhiều nghành nghề khác nhau (chăn nuôi, buôn bán…).
Điều kiện đời sống người dân tại thôn còn khó khăn như: thu nhập thấp, nhà vệ sinh
chưa có, rác sinh hoạt chưa được thu gom đúng nơi quy định.
Trong năm 2008, toàn xã đưa vào sản xuất 100 ha đìa nuôi với giống chủ lực là
tôm sú chân trắng, trong vụ 1/2008 đạt 4,5 tấn/ha, vụ 2/2008 đưa vào sản xuất chỉ có
90 ha nuôi tôm sú chân trắng còn lại khoảng 10 ha nuôi các loại thuỷ sản khác, năng
suất bình quân vụ 1/2008 đạt 4,5 tấn/ha. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2008
đưa vào sản xuất 02 vụ là 190 ha, năng suất bình quân 4,4 tấn/ha, sản lượng ước đạt
800 tấn, tăng hơn năm 2007 là 48 tấn nhưng lãi không cao, ngoài ra còn có 25 lồng
nuôi tôm hùm.
Tổng số thuyền, xuồng chèo đánh bắt thủy sản khoảng 100 chiếc với sản lượng
45 tấn cá các loại, 75 tấn sò các loại, 5,4 tấn sá sùng, 4,8 tấn tôm tự nhiên.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển tại
thôn Tuần Lễ, xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh:
Theo báo cáo của các ngành và UBND huyện Vạn Ninh năm 2002, diện tích
rừng ngập mặn khu vực Tuần Lễ còn khoảng 11 ha, trong đó có 7 ha rừng bần và 4 ha
rừng Đước; có 92 đìa nuôi tôm của 88 hộ dân, chiếm 3,06 ha. Đã có 59/88 hộ cất nhà
tạm và các hộ này đã tự làm 27 đường cắt ngang dọc để đi đến các đìa, làm chia cắt và
92
ngăn cách nước thủy triều ra vào, phá hủy điều kiện sống của cây Đước, cây bần. Bên
cạnh đó, một số người dân do thiếu hiểu biết hoặc thiếu ý thức, nên trong quá trình san
ủi, nạo vét, xúc đất làm đìa đã phá hủy bộ rễ chùm (chu vi lan tỏa xung quanh khoảng
50 m) của cây; chặt cành, ngọn cây làm mũi ghe... dẫn đến diện tích rừng ngập mặn tại
đây ngày càng bị thu hẹp, số cây bần, cây Đước lâu năm ngày càng ít.
Qua cuộc điều tra năm 2008 cho thấy, diện tích rừng ngập mặn ở địa phương bị
giảm so với 10 – 15 năm trước đây, hiện cây ngập mặn chủ yếu còn lại là cây bần.
Nguyên nhân chính là do triệt phá cây ngập mặn để đào ao nuôi tôm và lấn chiếm để
xây dựng nhà ở trái phép trên rừng ngập mặn làm thay đổi diện mạo địa hình, làm
dòng nước mặn dẫn vào khu rừng bị hạn chế. Nhiều cây cổ thụ và lâu năm đã chết, khả
năng phục hồi tái tạo cực kỳ khó khăn. Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác
như: do thiên tai làm gãy cây, chất thải từ việc nuôi tôm làm ô nhiễm môi trường…
Hiện nay, người dân đang dần ý thức được lợi ích của rừng ngập mặn qua kinh
nghiệm sống lâu năm ở đây cùng với sự tuyên truyền nhắc nhở của chính quyền địa
phương xã.
Cuộc điều tra cho biết, hầu hết các hộ dân ở đây dùng các công cụ đánh bắt như
các loại nhá (bẫy), cào bằng tay hoặc bằng máy, dùng cuốc để đào các loại sá sùng, sò
ốc mà phần lớn khai thác trong thảm cỏ biển làm cho cỏ biển chết dần do bị dẫm nát
hay bị bật gốc.
4.1.2. Xã Vạn Hưng
Tổng diện tích gieo trồng thực hiện 698 ha. Diện tích nuôi tôm hẹ chân trắng 55
ha, sản lượng 67,9 tấn. Tôm hùm bệnh sữa vẫn còn, tuy nhiên do giá giống thấp nên
nhân dân thả nuôi khoảng 90.000 con với 2.800 lồng, sản lượng thu hoạch khoảng 60
tấn.
Với diện tích 105,66 ha rừng trồng thực hiện chương trình 743 các năm trước
phát triển tốt. Bên cạnh đó, công tác phòng cháy rừng và kế hoạch bảo vệ lâm sản triển
khai rất tốt. Thường xuyên kiểm tra, kịp thời ngăn chặn và xử lý các trường hợp sử
dụng đất sai mục đích. Tập trung giải quyết các trường hợp san ủi, cày phá và lấn
chiếm đất lâm nghiệp tại khu vực Đồng Bà Chẹo đúng theo thẩm quyền. Thường
xuyên tổ chức kiểm tra tình hình khai thác tài nguyên-khoáng sản. Chú trọng công tác
bảo vệ, quản lý môi trường sinh thái.
93
Kết quả điều tra cũng nghi nhận được, hơn 80% người dân trong thôn sống
bằng nghề nuôi trồng thủy sản (85% nuôi tôm hùm,12% nuôi tôm sú, 3% nuôi các loài
khác), và hầu hết các hộ gia đình đều có 2 đến 3 nghề kiếm sống, điều kiện đời sống
của thôn tương đối khá giả đa số các hộ gia đình có nhà vệ sinh đủ tiêu chuẩn, rác thải
được thu gom đúng nơi quy định. Tuy nhiên, nước thải sinh hoạt của người dân trong
thôn còn thải trực tiếp ra biển hoặc tự thấm, ít hộ gia đình xây dựng bể tự hoại.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển tại
thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh:
Chính quyền địa phương thường xuyên tuyên truyền và phối hợp với các tổ
chức hoạt động thông qua các dự án (MCD), khu bảo tồn biển để bảo vệ và quản lý
rừng ngập mặn và các tài nguyên biển khác (Rạn san hô, thảm cỏ biển) một phần là do
diện tích rừng còn ít, nguồn lợi từ rừng cũng không còn.
Người dân khu vực thôn Xuân Tự đều cho biết diện tích rừng ngập mặn ở địa
phương giảm đi rất nhiều, hiện chỉ còn cây Sú và Mắm là chủ yếu. Nguyên nhân chính
là nuôi trồng thủy sản, mở rộng đất đô thị, bên cạnh đó còn một số nguyên nhân khác
như: Chặt phá rừng làm đìa, quai đê lấn biển, ô nhiễm môi trường nước do thức ăn,
thuốc phòng bệnh trong nuôi trồng thủy sản, bão làm gãy cây…
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ở 2 xã khảo sát thuộc huyện Vạn Ninh diện tích
rừng ngập mặn đã không còn là một cánh rừng mà chỉ còn là những cụm cây bần, cây
sú, cây Mắm… nằm xơ xác dọc trên những con đường xuống Đầm Môn, đường xuống
Thôn Xuân Tự ra khu Bảo tồn Rạn Trào bên cạnh các đìa tôm, khu vực nhà dân. Sinh
cảnh tại các cụm cây ngập mặn này là nước không lưu thông được nên tạo thành các tụ
ao hồ hôi thối. Những cây bần cổ thụ hàng trăm năm tuổi thì đang từng ngày, từng giờ
chờ chết dần đi mà không có khả năng hồi phục
Hầu hết người dân cho rằng, diện tích thảm cỏ biển giảm đi là do các nguyên
nhân sau: Ô nhiễm môi trường biển do thức ăn nuôi trồng thủy sản, dẫm đạp, đào, cào
khi khai thác, đánh bắt thủy sản mang tính hủy diệt, neo đậu tàu thuyền tại khu vực có
thảm cỏ biển.
Điều đáng lo ngại, là không ít bộ phận người dân không hiểu hết tầm quan
trọng của cỏ biển, do vậy họ không ý thức được hậu quả việc khai thác mang tính hủy
diệt của mình.
94
4.2. Huyện Ninh Hòa
Diện tích tự nhiên của huyện Ninh Hoà là 1.196 km2, trong đó diện tích đất
nông nghiệp là 836 km2, diện tích đất phi nông nghiệp là 140 km2 và diện tích chưa sử
dụng 220 km 2. Dân số trung bình năm 2006 là 232.541 người, mật độ trung bình là
194 người/ km2.
Huyện Ninh Hoà là một huyện thuần nông, dẫn đầu toàn tỉnh về giá trị sản xuất
nông nghiệp, tính đến 6 tháng đầu năm 2007, năng xuất cây công nghiệp hàng năm đạt
giá trị cao nhất tỉnh; số trang trại nuôi trồng thuỷ sản, tổng thu nhập về kinh tế trang
trại đạt mức cao về số lượng, giá trị.
Với đường bờ biển dài, Ninh Hoà đã xác định kinh tế biển là ngành kinh tế mũi
nhọn, cả trong khai thác, nuôi trồng và tập trung khai thác những loại hải sản có giá trị
kinh tế cao, khai thác cả 3 vùng biển (vùng lộng, vùng trung và vùng khơi xa). Sản
lượng thuỷ sản trong năm 2005 đạt 270.337 tấn. Năm 1995 sản lượng khai thác mới
chỉ đạt 45.883 tấn thì đến năm 2000 đã là 354.600 tấn.
Huyện Ninh Hòa có 2 xã Ninh Hà và Ninh Ích có phân bố của cỏ biển
4.2.1. Xã Ninh Hà
Sản lượng tôm sú đạt 250 tấn, tôm thẻ chân trắng 23 tấn. Nhìn chung đa số đìa
đều nuôi có lãi tuy không cao nhưng xác định được hướng nuôi theo kế hoạch đã đề ra.
Bên cạnh nghề nuôi tôm sú, sản lượng vẹm xanh thu được trong năm 2008 là 80 tấn.
Song song với việc nuôi tôm, vẹm, nhân dân tranh thủ nuôi cua ở vùng đìa xa nguồn
nước ngọt, sản lượng cau nuôi thu hoạch được 48 tấn. Cùng với việc nuôi trồng thuỷ
sản, UBND xã đã vận động bà con ngư dân tiếp tục phát huy nghề đánh bắt ven bờ
đồng thời khai thác các nguồn thuỷ hải sản có tại Đầm Nha Phu. Kết quả trong năm
sản lượng đánh bắt được 45 tấn cá, cua, ghẹ các loại. Khai thác trên 40 tấn rong biển
giá trị trên 80 triệu đồng và gần 2 tấn trùn biển, giá trị 60 triệu đồng góp phần ổn định
đời sống của nhân dân.
Qua cuộc điều tra được biết, hầu hết các hộ dân sống trong khu vực này làm
nghề biển. Đời sống kinh tế của người dân rất khó khăn. Hơn 95% hộ dân không có
nhà vệ sinh, rác thải sinh hoạt chưa bỏ đúng nơi quy định, nước thải sinh hoạt đổ thẳng
ra rừng ngập mặn
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn tại thôn Tân Tế, xã
Ninh Hà, huyện Ninh Hòa.
95
Hơn 80% người dân trong khu vực này cho là diện tích rừng ngập mặn tăng lên
vì người dân không khai thác rừng ngập mặn. Nhưng theo quan sát thực tế thì diện tích
rừng tại đây còn rất ít, chỉ còn là những cụm rừng ngập mặn đa số là những cây Đước,
xung quanh khu vực này rất nhiều đìa nuôi trồng thủy sản.
4.2.2. Xã Ninh Ích
Khai thác tôm hùm giống năm 2008 được mùa nhưng thu nhập thấp vì giá rẻ.
Tuy nhiên số lượng hộ đầu tư nuôi tôm hùm lồng tăng lên. Hiện nay toàn xã có 18 hộ
nuôi Vẹm xanh có mức thu nhập tăng đáng kể. Diện tích nuôi tôm toàn xã là 250 ha,
năng suất bình quân 22 tạ/ha, sản lượng 550 tấn. Tổng sản lượng đánh bắt và nuôi
trồng thuỷ sản: 2.676 tấn.
Hơn 85% người dân trong xã làm nghề nuôi trồng thủy sản, 12% làm biển và
3% còn lại làm nghề khác. Đời sống kinh tế người dân tương đối khá giả nhưng rác
thải sinh hoạt của người dân vẫn chưa được thu gom đúng quy định, 40% hộ gia đình
vẫn chưa có nhà vệ sinh, nước thải sinh hoạt thải trực tiếp ra biển hoạt tự thấm
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn tại tại thôn Tân
Đảo, xã Ninh Ích, huyện Ninh Hòa
Sau 1975 có khoảng 200 ha rừng ngập mặn, chủ yếu là cây sú, Mắm, Đước. đến
năm 1984 – 1985, do phong trào nuôi tôm phát triển mạnh, nên phá rừng ngập mặn để
làm đìa nuôi tôm. Vài năm sau đó, tôm nuôi bị dịch bệnh chết hàng loạt, người dân
chuyển sang nuôi cá, cua, một số hộ để đìa hoang. Trong khoảng 4 – 5 năm gần đây, ý
thức được tầm quan trọng của rừng ngập mặn, lãnh đạo các Sở, Ngành, địa phương đề
ra kế hoạch và triển khai quy hoạch phân vùng quản lý, khôi phục, bảo vệ và phát triển
trồng rừng ngập mặn. Trong thời gian này, cùng với người dân trên địa bàn xã đã trồng
được 4 – 5 ha. Đầu năm 2006, kết hợp với dự án hỗ trợ của Nhật trồng thêm 2 ha,
trong năm 2008 trồng thêm 3 ha, đầu năm 2009 đến nay, trên địa bàn xã diện tích
trồng rừng ngập mặn tăng lên 7 ha (hình 48).
Hiện nay, người dân đang dần có ý thức trong việc gìn giữ, bảo vệ rừng ngập
mặn vì nó góp phần mang lại thu nhập cá nhân cho chính họ. Một lý do nữa là sự
tuyên truyền của chính quyền địa phương và các cấp có thẩm quyền trong việc giáo
dục và nâng cao ý thức của người dân từ các dự án hợp tác trồng rừng ngập mặn với
Nhật.
96
Hình 48: Người dân xã Ninh Ích tham gia trồng rừng ngập mặn.
4.3. Thành phố Nha Trang
Thành phố Nha Trang với tổng diện tích 251km2, trong đó đất nông nghiệp là
65km2, đất phi nông nghiệp là 64 km2, đất chưa sử dụng là 122km2. Toàn thành phố có
8 xã và 19 phường, với tổng số dân là 361.454 người.
- Giá trị sản xuất công nghiệp-TTCN trên địa bàn (giá cố định năm 1994) ước
đạt 6.866 tỷ đồng.
- Nông nghiệp: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đạt 2.430 ha
- Lâm nghiệp: Triển khai kế hoạch trồng rừng năm 2008, thành phố đã phân bổ
kế hoạch đến các tổ chức, hộ gia đình và đã trồng 50.000 cây phân tán, chủ yếu là cây
keo lá tràm. Công tác kiểm tra, kiểm soát, quản lý lâm sản tại các cơ sở chế biến, vận
chuyển lâm sản trên các trục lộ giao thông được duy trì thường xuyên.
- Thuỷ sản: Sản lượng khai thác hải sản ước cả năm đạt 36.822 tấn,. Tôm thịt đã
thả nuôi được 200 ha, với sản lượng thu hoạch ước đạt 254 tấn. Các trại sản xuất tôm
giống hoạt động ổn định, đến nay đã xuất được 280 triệu con tôm post. Rừng ngập
mặn ở thành phố Nha Trang sẽ được tập trung vào phường Phước Long.
Phường Phước Long có diện tích 435,5 ha, chia thành 24 tổ dân phố với tổng số
hộ là 5.258, tổng số nhân khẩu 21.680 khẩu. Qua điều tra trên địa bàn phường Phước
Long, có 50% người dân sống bằng nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, 30% người
dân sống bằng nghề buôn bán thủy sản, 20% người dân sống bằng nghề tự do, làm
công nhân ở các xí nghiệp, công ty ở khu công nghiệp Bình Tân. Cũng qua triều tra
được biết thêm, khoảng 70% hộ dân không xây dựng nhà vệ sinh, chất thải trực tiếp
97
thải ra môi trường, nước thải sinh hoạt, rác thải sinh hoạt cũng không thu gom mà vứt
bỏ tùy tiện hoặc tự xử lý bằng cách đốt.
Khu vực rừng ngập mặn được thực hiện nghiên cứu, điều tra, phỏng vấn tiếp
giáp với hạ lưu sông Tắc (sông Đồng Bò) đổ ra biển. Sông Tắc chính là nguồn cấp
nước cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của người dân trong khu vực này. Sông này
thường bị xâm nhập mặn sâu vào trong nội đồng do triều cường từ biển. Đây là khu
vực nơi giao thoa giữa sông và biển. Chính vì vậy, khu vực này thuận lợi cho sự phát
triển của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Điểm đặc biệt, khu vực rừng ngập mặn được
thực hiện nghiên cứu, điều tra, phỏng vấn nằm hoàn toàn trong dự án “Khu đô thị mới
Phước Long, phường Phước Long, Nha Trang” (50ha), dự án do công ty cổ phần đầu
tư phát triển nhà và đô thị Nha Trang làm chủ đầu tư.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn phường Phước
Long, thành phố Nha Trang
Theo Báo cáo đánh giá tác động môi trường “Khu đô thị mới Phước Long,
phường Phước Long, Nha Trang” (50 ha) thì chất lượng môi trường nước biển ven bờ
được đánh giá như sau: tình hình chất lượng nước biển ven bờ tại khu vực phường
Phước Long đã biểu hiện ô nhiễm. Các thông số TSS, Fe, dầu mỡ và Coliform vượt
giới hạn cho phép khá nhiều lần, đặc biệt giá trị Coliform khá cao (từ 11- 46 lần), cao
nhất tại điểm cầu gỗ tổ 2, khóm Phước Trung, phường Phước Long nguyên nhân do
phần lớn hộ dân sống trong khu vực gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng.
Ngoài ra, nước thải từ các cơ sở chế biến thực phẩm, thuỷ sản chưa được xử lý triệt để
cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường nước tại khu vực.
Chỉ tiêu TSS đều vượt giá trị giới hạn cho phép từ 1,5- 4,6 lần. TSS tại vị trí
cầu Bình Tân có giá trị cao nhất trong 03 vị trí. Chỉ tiêu Fe tại 032 điểm lấy mẫu đều
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,3-2,8 lần. Nguyên nhân trong nước có nồng độ kim loại
tương đối cao là vì lưu vực tiếp nhận nước thải từ hoạt động sản xuất cơ khí trên
thượng nguồn hoặc nguồn nước chảy qua các vùng đất có sự hiện diện tự nhiên của
các nguyên tố này.
Chất lượng nước dưới đất: khu đất dự án có vị trí gần cửa sông đổ ra biển và là
vùng trũng nên khu đất bị nhiễm mặn do triều cường xâm nhập. Do đó, nguồn nước
dưới đất khá hạn chế, người dân trong khu vực chủ yếu sử dụng nước mưa, nước sông
cho các mục đích sinh hoạt, ăn uống. Qua kết chất lượng nước dưới đất trong khu vực
98
dự án cho thấy hầu hết các chỉ tiêu phân tích đều có giá trị thấp hơn Quy chuẩn QCVN
09:2008/BTNMT ngoại trừ các thông số: độ cứng (vượt 1,2-1,4 lần) SO42-, Clorua và
Coliform. Trong đó, thông số Clorua và Coliform vượt Quy chuẩn khá nhiều lần. Qua
đó có thể kết luận nước ngầm tại khu vực dự án hiện đang bị nhiễm khuẩn Coliform do
nước thải sinh hoạt từ các hộ dân trong khu vực không được xử lý thải ra môi trường,
lâu ngày tích tụ và xâm nhập vào nước ngầm gây ô nhiễm; ngoài ra chất lượng nước
dưới đất trong khu vực còn bị nhiễm mặn, nhưng chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm kim loại
nặng.
Trong khu vực chưa có hệ thống thoát nước mưa, nước mưa thoát trên nền tự
nhiên hoàn toàn (theo các mương, đìa, ruộng và chảy ra sông Quán Trường). Khu vực
cũng chưa có hệ thống thoát nước thải. Nước thải trong các hộ dân vừa thải ra môi
trường tự nhiên và vừa thu vào hầm bán tự hoại và cho thấm tại chỗ.
Hình 49: Đổ đất san nền xây dựng khu dân cư trong khu vực có cây ngập mặn,
phường Phước Long.
99
Hình 50: Những hồ ươm tôm giống bị bỏ hoang trong khu vực có cây ngập mặn
Đa số người dân sinh sống tại khu vực có rừng ngập mặn đều cho biết diện tích
rừng ngập mặn giảm rất nhiều so với trước đây, nguyên nhân chính chủ yếu do nuôi
trồng thủy sản (phong trào nuôi tôm công nghiệp) đã nhanh chóng biến rừng ngập mặn
thành những đìa nuôi tôm. Thêm vào đó, khi phong trào nuôi tôm công nghiệp thất
bại, do tôm bị dịch bệnh, chết hàng loạt nên các đìa tôm bị bỏ hoang, người dân lại có
nhu cầu biến những đìa tôm bỏ hoang thành đất ở. Trong cuộc điều tra phỏng vấn
được biết thêm, đa phần là dân ở những tỉnh khác đến mua lại đất đìa bỏ hoang (giấy
tờ tay, không có sổ đăng ký quyền sử dụng đất), san lấp, xây cất nhà để ở (hình 49,
50).
Cũng theo ý kiến của những người dân được phỏng vấn cho biết diện tích rừng
ngập mặn suy giảm đã gây ra những hậu quả suy giảm tài nguyên: mất rừng nguồn lợi
thủy sản cũng giảm đi (tôm, cá, cua, ghẹ không còn chỗ sinh sống, trú ngụ, đẻ…), thúc
đẩy quá trình ứ đọng bùn và xói lở; đẩy mạnh sự xâm nhập mặn vào đất liền.
Từ tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của thành phố Nha Trang nói chung và
tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội phường Phước Long; hiện trạng môi trường của báo
cáo đánh giá tác động môi trường “khu đô thị mới Phước Long, phường Phước Long,
Nha Trang” (50ha); quá trình phỏng vấn, điều tra khu vực có rừng ngập mặn cho ta cái
nhìn khái quát hệ sinh thái rừng ngập mặn ở khu vực này đã bị tàn phá nặng nề, không
100
có khả năng phục hồi; có khả năng biến mất hoàn toàn do quá trình phát triển kinh tế
xã hội, tốc độ đô thị hoá ngày càng cao, nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất
ngày càng lớn; đặc biệt là đất ở (vì khu vực có rừng ngập mặn này nằm hoàn toàn
trong dự án “Khu đô thị mới Phước Long, phường Phước Long, Nha Trang”).
4.4. Huyện Cam Lâm
Tổng giá trị sản xuất toàn ngành Công nghiệp và Tiểu thủ Công nghiệp thực
hiện năm 2008 là 2.876 tỷ đồng, giá trị sản xuất dịch vụ năm 2008 là 137,502 tỷ đồng,
giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản thực hiện năm 2008 là 418,6 tỷ đồng.
Diện tích nuôi trồng thủy sản 726 ha, trong đó diện tích nuôi tôm thịt 458 ha,
sản lượng đánh bắt được 1.672 tấn Sản lượng nuôi trồng thu hoạch 3.105 tấn.
Gần đây UBND Huyện tập trung chỉ đạo tăng cường triển khai các biện pháp
quản lý các phương tiện khai thác thủy sản trong Đầm Thủy Triều; đồng thời phối hợp
với các ngành chức năng của tỉnh kiểm tra việc khai thác thủy sản bằng lờ Trung Quốc
(lờ dây) trong Đầm Thủy Triều và kiến nghị tỉnh cho phép huyện hạn chế việc khai
thác nguồn lợi thủy sản bằng phương tiện này để góp phần giữ vững môi trường sinh
thái trong đầm, vịnh.
Việc đánh giá các tác động lên hệ sinh thái cỏ biển, rừng ngập mặn ở huyện
Cam Lâm được tập trung vào hai xã Cam Hải Đông và Cam Hải Tây.
4.4.1. Xã Cam Hải Đông
Trên địa bàn xã Cam Hải Đông trong năm 2008, về nuôi trồng hải sản đạt sản
lượng thu hoạch 120 tấn. Sản lượng đánh bắt trong đầm và biển Đông đạt 630 tấn.
Qua cuộc khảo sát cho thấy, hầu hết ngành nghề sinh sống của người dân ở đây
chủ yếu là đánh bắt thủy sản (60%), nuôi trồng thủy sản (40%). Đa số, người dân ở
đây có ý thức tốt về vấn đề vệ sinh, 100% có nhà vệ sinh có hầm tự hoại và thu gom,
đổ rác đúng nơi quy định. Người dân ở khu vực này đều biết nơi họ sinh sống có rừng
ngập mặn, có kiến thức tốt thông qua các kênh thông tin về rừng ngập mặn, đa phần
thông qua các phương tiện truyền thông.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển xã
Cam Hải Đông
Xã Cam Hải Đông trước đây là một trong những khu vực có rừng ngập mặn
phát triển thuận lợi, qua thực tế cuộc khảo sát cho thấy những cây Đước, cây bần còn
101
sót lại phát triển rất tốt, cây rất to. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn sót lại một vài cây thưa
thớt xen lẫn với nhà ở của người dân.
Hầu hết người dân ở khu vực xã Cam Hải Đông đều cho biết diện tích rừng
ngập mặn ở địa phương giảm so với trước đây do vùng rừng ngập mặn nằm ở vị trí cửa
sông, cửa biển thuận lợi cho việc làm đìa nuôi trồng thủy sản và mở rộng đất đô thị.
Việc nuôi trồng thủy hải sản một cách thiếu quy hoạch đã tàn phá hàng trăm ha rừng
cây ngập mặn mà theo những ngư dân trước đây dựa vào chủ yếu nghề đánh bắt thủy
hải sản sản lượng và chất lượng nguồn lợi thủy sản bây giờ chỉ bằng 1/3 so với trước.
Mặt khác, việc xây dựng nhà cửa, tạo cảnh quan đô thị cũng góp phần phá vỡ hệ sinh
thái rừng ngập mặn một cách đáng kể.
Kết quả điều tra đa số người dân ở khu vực xã Cam Hải Đông đều cho biết hiện
tại diện tích thảm cỏ biển hầu như còn rất ít so với trước đây. Theo họ điều này có thể
do ô nhiễm môi trường biển(10%); đánh bắt thủy sản mang tính hủy diệt (10%); do
neo đậu tàu thuyền tại khu vực có thảm cỏ biển (10%) và do xây dựng các công trình
và quai đê lấn biển (10%) và các lý do khác như xây dựng đìa nuôi trồng thủy sản và
mở rộng đất đô thị (60%).
100% cho rằng việc tàn phá cỏ biển làm suy giảm nguồn tài nguyên, đặc biệt là
nguồn lợi thủy sản, 40% làm thay đổi cảnh quan và môi trường ven biển và 20% cho
rằng sẽ làm tăng sự lắng đọng trầm tích và độ đục.
4.4.2. Xã Cam Hải Tây
Qua điều tra được biết, đa số người dân ở đây chủ yếu là người sống lâu năm ở
khu vực từ 30 đến 50 năm. Ngành nghề sinh sống của người dân chủ yếu đánh bắt
thủy sản (70%); 30% là dịch vụ/kinh doanh
Năm 2008 sản xuất nông nghiệp phát triển khá, tổng diện tích gieo trồng
1.138,2 ha, tổng sản lượng lương thực có hạt 87 tấn. Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ
sản 46,5 ha. Trong đó diện tích nuôi tôm là 30,49 ha, thu hoạch ước đạt 02 tấn tôm/ha
năng suất bình quân thấp hơn so với năm ngoái. Diện tích còn lại chuyển sang nuôi các
loại cá như: Cá mú, cá dìa, cua ghẹ …
Người dân ở đây có ý thức về vấn đề vệ sinh, 100% có nhà vệ sinh có hầm tự
hoại và thu gom và đổ rác đúng nơi quy định.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển của
xã Cam Hải Tây
102
Đa số người dân ở khu vực xã Cam Hải Tây đều cho biết diện tích rừng ngập
mặn ở địa phương hiện nay không còn. Người ta cho rằng, việc tàn phá rừng ngập mặn
làm suy giảm nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản nhưng đây lại là
phương thức sinh sống chính của họ tại đây; một số cho rằng việc tàn phá rừng ngập
mặn sẽ đẩy mạnh sự xâm nhập mặn vào đất liền (70%) và thúc đẩy quá trình ứ đọng
bùn và xói lở (30%).
Đa số người dân ở khu vực xã Cam Hải Tây đều cho biết diện tích cỏ biển ở địa
phương giảm đi so với trước đây. Người dân cũng hiểu được rằng thảm cỏ biển sẽ là
nơi cư trú, bãi đẻ, ươm giống của nhiều loài sinh vật nên việc tàn phá cỏ biển sẽ làm
suy giảm nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản, làm thay đổi cảnh quan và
môi trường ven biển và làm gia tăng sự lắng đọng trầm tích và độ đục nhưng đây lại là
phương thức sinh sống chính của họ.
Theo người dân ở xã Cam Hải Tây, họ rất ủng hộ các hoạt động cần thiết để bảo
vệ thảm cỏ biển, người dân sẽ tham gia vào các dự án, trồng và phục hồi cỏ biển (nếu
có).
4.4.3. Xã Cam Thành Bắc
Về sản xuất Nông – thủy sản, năm 2008 ước đạt 630,215 tỷ đồng, trong đó
nông nghiệp 88,215 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 13%. Trong nuôi trồng thủy sản, mô hình
nuôi cá, vẹm xanh và trồng rong sụn phát triển nhanh. Tổng diện tích nuôi trồng thủy
sản 48/48 ha, trong đó, tôm chân trắng 12 ha, tôm sú 3 ha, diện tích còn lại nuôi cá các
loại chủ yếu là cá chẽm. Diện tích nuôi trồng rong sụn 16 ha, vẹm xanh 21 ha. Sản
lượng khai thác ước đạt 100 tấn.
4.4.4. Thị trấn Cam Đức
Năm 2008, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn xã hầu hết là quy mô
nhỏ, phương tiện thô sơ, do vậy sản lượng đánh bắt không đáng kể. Cũng theo thống
kê, toàn thị trấn có 81 ha diện tích đìa (nuôi tôm 25 ha, 56 ha còn lại nuôi cá các loại)
với sản lượng 8 tấn/ha, vì ảnh hưởng của giá cả, dịch bệnh nên việc phát triển nuôi
trồng thủy sản cầm chừng, diện tích không phát triển thêm.
4.5. Thị xã Cam Ranh
Thị xã Cam Ranh với diện tích 325,011km2, dân số 133.368 người, gồm 9
phường, 6 xã, là địa phương ven biển nằm ở cực Nam tỉnh Khánh Hòa, Bắc và Tây
giáp với huyện Cam Lâm, Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, Đông giáp biển; vùng đất
103
được thiên nhiên ưu đãi, có cảng nước sâu, gần đường hàng hải quốc tế, là cửa ngõ
Tây nguyên - Nam Trung bộ ra biển; có cảng hàng không quốc tế; có hệ thống giao
thông đường bộ, đường sắt đi cả nước. Vị trí địa lý đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho
Cam Ranh phát triển kinh tế biển, công nghiệp hàng hải, du lịch, các ngành dịch vụ
khác và đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản.
Trong năm năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp 646 tỷ đồng, giá trị sản xuất
ngành nông - lâm - thủy sản ước 314,8 tỷ đồng (trong đó, nông - lâm nghiệp: 93,5 tỷ
đồng, tăng 3,9%; thủy sản: 220,3 tỷ đồng, giảm 10,6%), giá trị sản xuất các ngành
thương mại và dịch vụ ước 315 tỷ đồng, tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn 30 triệu
USD.
Việc đánh giá các tác động lên hệ sinh thái cỏ biển, rừng ngập mặn ở thị xã Cam
Ranh sẽ được tập trung vào hai xã Cam Phúc Bắc và Cam Nghĩa.
4.5.1. Xã Cam Phúc Bắc
Cam Phúc Bắc là xã ven biển, kinh tế chủ yếu là khai thác và nuôi trồng thủy
sản. Năm 2008, số lượng tôm nuôi tăng lên 1.200 lồng và 8 bè, người nuôi có lãi tiếp
tục thả giống mới, một số hộ chuyển sang nuôi cá mú, cá chẽm…Diện tích rong sụn 20
ha, có giá từ 3.000-5.000 đ/kg rong tươi, bước đầu phát triển tốt thu hoạch có lãi,
nhiều tầu ghe đã được đóng mới phục vụ cho việc đánh bắt thủy sản. Toàn xã có 249
hộ sản xuất kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển của
xã Cam Phúc Bắc
Ngành nghề sinh sống chính của người dân nơi đây là từ việc khai thác và nuôi
trồng thủy sản. Trong đó, nghề nuôi tôm phát triển mạnh trong những năm gần đây,
mà phần lớn các trang trại nuôi tôm đều xây dựng trên vùng phân bố rừng ngập mặn
ven biển. Qua điều tra cho thấy, diện tích rừng ngập mặn ở địa phương hiện nay gần
như không còn nữa, nguyên nhân chính là do sự phát triển ồ ạt của các trang trại nuôi
tôm trên địa bàn. Đa số người dân ở khu vực này đa số cho rằng không biết nơi họ sinh
sống có rừng ngập mặn. Người dân ở đây hầu như ít có kiến thức về rừng ngập mặn.
Là xã ven biển, kinh tế chủ yếu là khai thác và nuôi trồng thủy sản, do không
nhận thức được tầm quan trọng của cỏ biển, người dân sử dụng các phương tiện khái
thác mang tính hủy diệt như giã cào bằng ghe máy, hay bằng tay, khai thác thủy sản
quanh năm. Thêm vào đó mỗi khi triều thấp có hàng trăm người dân đến đào, xúc bắt
104
sò, phểnh, sá sùng, ngao, xìa... trong thảm cỏ biển làm cho các thảm cỏ bị bậc gốc lên
rồi chết. Mặc khác, do phát triển ao đìa nuôi tôm quá mức, sử dụng nhiều kháng sinh,
thuốc trừ sâu và nhiều chất hóa học, nước thải làm ô nhiễm biển làm cho các thảm cỏ
biển chết dần. Do vậy, cần có sự quan tâm can thiệp kịp thời của các cấp chính quyền
địa phương với việc tuyên truyền các thông tin này đến người dân.
4.5.2. Xã Cam Nghĩa
Ngành nghề sinh sống (thu nhập chính) của người dân xã Cam Nghĩa chủ yếu
tập trung vào nuôi trồng thủy sản và kinh doanh/dịch vụ. Tại đây cũng là nơi làm ăn
sinh sống của người dân từ tỉnh khác tới.
Phần lớn các hộ gia đình có nhà vệ sinh với hầm tự hoại và thu gom và đổ rác
đúng nơi quy định (75%); riêng người dân tạm trú (25%) sống tạm bợ nên không xây
dựng nhà vệ sinh phù hợp, rác thường được vứt bỏ lung tung.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển của
Xã Cam Nghĩa.
Người dân ở khu vực xã Cam Nghĩa đều cho biết diện tích rừng ngập mặn ở địa
phương giảm đi rất nhiều so với trước đây. Điều này có thể giải thích là do vùng rừng
ngập mặn bị phá để làm đìa nuôi trồng thủy sản, quai đê lấn biển và mở rộng đất đô
thị. Hậu quả là, diện tích rừng ngập mặn trên địa bàn xã Cam Nghĩa gần như bị xóa sổ,
đẫn đến suy giảm nguồn tài nguyên, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản - là phương thức
sinh sống chính của người dân tại đây, đẩy mạnh sự xâm nhập mặn vào đất liền và
thúc đẩy quá trình ứ đọng bùn và xói lở và gây ô nhiễm đất và nước.
Hầu hết người dân cho biết, mật độ và diện tích thảm cỏ biển nơi đây đã giảm
đi rất nhiều, nguyên nhân là do sử dụng các công cụ khai thác mang tính hủy diệt
không chỉ đối với sinh vật mà ảnh hưởng đến cả môi trường sinh sống của chúng là
thảm cỏ biển và rừng ngập mặn. Sự phát triển của các trang trại nuôi tôm gây tổn hại
đến các môi trường sống ven biển khác, chẳng hạn như đầm nước ngập mặn, đầm lầy
nước ngọt. Chất thải từ các trang trại nuôi tôm đã làm chết cỏ biển.
4.5.3. Xã Cam Phúc Nam
Trong năm 2008, tổng diện tích các loại cây trồng 469/508 ha; 400/205 con bò,
500/407 con heo, 3000 con gia cầm; sản lượng đánh bắt thủy sản 450/550 tấn; diện
tích nuôi trồng thủy sản 20/20 ha (diện tích nuôi tôm sú 3 ha, diện tích còn lại chủ yếu
105
nuôi cá mú và cá chẽm), 116 lồng nuôi tôm hùm với sản lượng 80/70 tấn, các hộ nuôi
tôm giống ngưng hoàn toàn vì bị thua lỗ.
- Đánh giá các tác động đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển của
xã Cam Phúc Nam
Rừng ngập mặn ở xã Cam Phúc Nam đã bị triệt hạ hoàn toàn để lấy đất xây
dựng nhà cửa, khu dân cư. Các thảm cỏ biển phân bố ven bờ đang chịu tác động mạnh
của hoạt động ghe, thuyền gây nhiễu loạn môi trường biển, khai thác quá mức...
Tóm lại, mặc dù vùng ven bờ tỉnh Khánh Hòa có nhiều điều kiện thuận lợi cho
sự hình thành và phát triển của các hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, nhưng
những năm gần đây sự phát triển nhanh chóng kinh tế- xã hội tại địa phương đã làm
ảnh hưởng nhiều đến các hệ sinh thái biển. Hầu hết diện tích rừng ngập mặn bị biến
mất, thảm cỏ biển đang bị suy thoái bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Điều này dẫn
đến việc mất nơi cư trú, sinh sản và ươm nuôi ấu trùng, con non của nhiều loài thủy
sản có giá trị. Hậu quả là nguồn lợi thủy sản ở vùng biển ven bờ bị suy giảm dẫn đến
đời sống của một bộ phận nhân dân sống phụ thuộc vào đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản bị ảnh hưởng.
106
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUÁT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
BỀN VỮNG HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN, THẢM CỎ
BIỂN Ở TỈNH KHÁNH HÒA PHỤC VỤ CÔNG TÁC PHÁT
TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ ĐA DẠNG SINH HỌC
1. Hiện trạng quản lý
Rừng ngập mặn và thảm cỏ biển ở tỉnh Khánh Hòa còn chưa được quan tâm lập
kế hoạch quản lý, trong khi đó tốc độ suy thoái các hệ sinh thái này đang diễn ra nhanh
chóng. Hiện tại chỉ còn 104,08 ha rừng ngập mặn phân bố rất phân tán trong phạm vi
toàn tỉnh, hầu hết là trong vùng nuôi thủy sản của các hộ dân. Tổng diện tích các thảm
cỏ biển thống kê trong toàn tỉnh là 1.862 ha cũng chưa được quan tâm quản lý.
2. Hiện trạng khai thác và sử dụng rừng ngập mặn và thảm cỏ biển
Tính đa dạng hệ sinh thái (rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn) và những
tác động tương hỗ của chúng đã góp phần đem lại cho tỉnh Khánh Hòa rất đa dạng về
thành phần loài, nguồn lợi hải sản phong phú. Trong đó có nhiều loài hải đặc sản nổi
tiếng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây rừng ngập mặn bị phá hủy để lấy đất xây
dựng ao, đìa nuôi thủy sản, làm muối, xây dựng nhà cửa, làng mạc, cơ sở hạ tấng... đã
làm mất đi hầu hết diện tích rừng ngập mặn. Vài năm gần đây việc nuôi tôm, cua thua
lỗ nên nhiều ao đìa bị bỏ hoang hóa, nhiều hộ dân lâm vào cảnh nợ nần. Vài năm gần
đây tại một số địa phương người dân có trồng lại các dải cây ngập mặn nhằm bảo vệ
bờ ao đìa như ở thôn Hà Liên, Tân Tế (Ninh Hòa) hoặc trồng rừng phục hồi rừng ngập
mặn ở thôn Tuần Lễ (Vạn Ninh), thôn Tân Đảo (Ninh Ích- Ninh Hòa). Tuy nhiên diện
tích trồng rừng ngập mặn không lớn. Sự quản lý các thảm cỏ biển cũng chưa được đặt
ra khiến cho nhiều diện tích cỏ biển bị mất mát do lấn đất xây dựng các ao, đìa nuôi
thủy sản như ở vùng đầm Thủy Triều và vịnh Cam Ranh.
Tình trạng khai thác quá mức và sử dụng các phương tiện khái thác mang tính
hủy diệt đã làm cho nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm.
3. Thể chế và pháp lý liên quan đến quản lý bền vững tài nguyên rừng ngập mặn
và thảm cỏ biển
107
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản, luật nhằm quản lý và bảo vệ
tài nguyên và môi trường biển như:
- Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học đến 2010 và định hướng
đến 2020 thực hiện công ước Đa dạng sinh học và Nghị định thư Cartagena về an toàn
sinh học.
- Luật đa dạng sinh học (năm 2008)
- Quyết Định 192/2003/QĐ-TTg ngày 17-9-2003 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm
2010.
- Pháp lệnh số 43/2003/ND-CP của chính phủ năm 2003 về quản lý và bảo vệ
nguồn lợi thủy sản.
- Luật thủy sản được Quốc hội phê chuẩn năm 2004.
- Nghị quyết Trung ương số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi
trường.
- Luật bảo vệ môi trường 2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
khóa XI thông qua ngày 29/11/2005.
- Nghị định số 80/2006/NĐ- CP ngày 9/8/2006 của chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành môt số điều của luật Bảo vệ môi trường.
- Nghị định 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006.
- Chương trình Bảo vệ và Phát triển Nguồn lợi Thuỷ sản đến năm 2010.
- Nghị định số 27/2005/NĐ-CP ngày 8 tháng 3 năm 2005 của chính phủ về các
khu bảo tồn biển và bảo tồn trong đất liền.
Các văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý nhằm đề xuất các giải pháp quản lý, bảo
vệ và sử dụng bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển ở tỉnh Khánh Hòa.
4. Tính cấp thiết và định hướng của kế hoạch quản lý
Các kết quả điều tra, khảo sát đã cho thấy vùng biển Khánh Hòa là nơi có tính
đa dạng sinh học cao, nguồn lợi hải sản phong phú và có giá trị. Các thảm cỏ biển và
rừng ngập mặn được xem là hệ sinh thái đặc trưng của biển nhiệt đới, chúng thật sự
đóng vai trò quan trọng đối với nhiều cộng đồng dân cư vùng ven biển và hải đảo về
phương diện bảo vệ đất đai, môi trường biển và phát triển kinh tế- xã hội tại địa
phương. Tuy nhiên, những kết quả điều tra, khảo sát đã cho thấy các hệ sinh thái thảm
108
cỏ biển, rừng ngập mặn ở vùng biển Khánh Hòa đang bị suy thóai do những tác động
của con người và thiên nhiên. Mất rừng ngập mặn và suy thoái các thảm cỏ biển đã
gây ra các hậu quả:
- Sói lở bờ biển, sạt lở ao, đìa.
- Thoái hóa ao, đìa và gia tăng dịch bệnh gây thiệt hại cho nuôi trồng thủy sản.
- Suy giảm nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ.
- Tăng khả năng xâm nhập mặn.
Nguyên nhân gây suy thoái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển là do thiếu những
thông tin làm cơ sở khoa học cho việc lập kế hoạch quản lý khiến cho sự quản lý và sử
dụng tài nguyên đa dạng sinh học còn chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Thể
chế và chính sách liên quan đến quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển ở
tỉnh Khánh Hòa còn thiếu sót. Bên cạnh đó,̣ hiểu biết và nhận thức của cộng đồng về
vấn đề sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển còn yếu kém đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đối với công tác quản lý.
Hình 51: San nền xây dựng nhà cửa ở rừng ngập mặn Tuần Lễ (Vạn Ninh).
109
Hình 52: Ao đìa nuôi tôm được xây dựng trên đất rừng ngập mặn, nay bị bỏ hoang
Hình 53: Đào xới khai thác động vật thân mềm làm hủy hoại thảm cỏ biển
ở đầm Thủy Triều.
110
- Xem thêm -