Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm và thu nhập của lao động ...

Tài liệu Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn huyện hương thủy, tỉnh thừa thiên huế

.PDF
71
443
75

Mô tả:

PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, đất nước đang đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế này đã buộc tất cả các quốc gia, dân tộc phải mở cửa hợp tác, giao lưu. Sự phát triển nhanh của công nghiệp đã đẩy nhanh tốc độ, quy mô của quá trình đô thị hóa. Trong những năm qua trên khắp các vùng, miền của đất nước nhiều khu công nghiệp với quy mô khác nhau đã được xây dựng và đi vào hoạt động. Cùng với xu hướng đó, quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia...cũng đang diễn ra rất nhanh ở nước ta, không chỉ ở những thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh mà đô thị hóa diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố khác trên phạm vi toàn quốc. Đây là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước, tạo động lực cho sự phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH. Việc phát triển nhanh các khu công nghiệp, khu đô thị...sẽ song song với việc thu hồi đất, bao gồm cả đất ở và đất nông nghiệp của một bộ phận dân cư, chủ yếu là vùng ven đô có điều kiện thuận lợi, có tiềm năng phát triển. Trong những năm trở lại đây, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, công nghiệp phát triển mạnh mẽ làm cho bộ phận dân cư nông thôn bị thu hồi đất ngày càng nhiều. Trong đó đáng lưu tâm là diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi tăng lên nhanh chóng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến dân cư nông thôn quen sống và gắn bó với nghề nông. Mất việc làm khi đất đai bị thu hồi buộc họ phải tìm kiếm việc làm mới để duy trì và ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, không phải lao động nào cũng tìm được việc làm mới dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, khó khăn trong việc chuyển đổi ngành nghề...đã và đang diễn ra ở nhiều nơi. Huyện Hương Thủy cách trung tâm thành phố Huế 12km về phía Đông Nam, có khu công nghiệp Phú Bài, cảng hảng không quốc tế Phú Bài...và nhiều công trình khác lần lượt được quy hoạch và xây dựng. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn đến một lượng lớn diện tích đất nông nghiệp của huyện bị thu hồi. Người nông dân đối 1 mặt với khó khăn khi mất đi TLSX chủ yếu là đất đai. Việc làm và thu nhập chịu sự tác động mạnh mẽ nhất đối với họ sau khi thu hồi đất. Xuất phát từ lý do trên trong đợt thực tập tốt nghiệp này tôi đã chọn đề tài: “Tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. * Mục tiêu nghiên cứu: - Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc làm và thu nhập của người nông dân. - Đánh giá được mức độ tác động của việc thu hồi đất đến việc làm và thu nhập của người dân. - Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa đến vấn đề việc làm và thu nhập của người nông dân. * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng lao động, việc làm và thu nhập của lao động ở các nông hộ có ruộng đất bị thu hồi phục vụ cho quá trình đô thị hóa ở huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn phát triển từ năm 2005 đến năm 2010. * Phương pháp nghiên cứu: Trong đề tài này tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau: * Phương pháp điều tra thu thập số liệu. - Chọn điểm nghiên cứu: trên địa bàn huyện Hương Thủy để phù hợp với điều kiện, đặc điểm nghiên cứu, tôi chọn 3 xã Thủy Dương, Thủy Phương và Thủy Vân nơi có các dự án “xây dựng đường Tự Đức – Thuận An”, “xây dựng khu tái định cư”, “xây dựng đường Thủy Dương - Thủy Phương”...thực hiện quá trình đô thị hóa của huyện làm địa bàn nghiên cứu chính. Trên địa bàn 3 xã này tôi chọn các tổ có hộ gia đình đã và đang tham gia sản xuất nông nghiệp để tiến hành điều tra. - Thông tin có sẵn: được tham khảo và thu thập trên các sách, báo, tạp chí, niên giám thống kê, các báo cáo tổng kết của địa phương, trên mạng internet, khóa luận.... - Tổ chức điều tra: để tiến hành điều tra tôi đã sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có phân loại. Cơ cấu mẫu điều tra được phân loại thành 3 nhóm theo diện tích đất bị thu hồi: Nhóm I: thu hồi <50% diện tích; Nhóm II: thu hồi từ 50 – 70% diện 2 tích; Nhóm III: thu hồi 70 – 100% diện tích. Số đơn vị điều tra của mẫu trong mỗi nhóm được tính theo công thức: Số hộ trong mỗi nhóm = số hộ trong mỗi nhóm của tổng thể : tổng thể * mẫu điều tra. - Phân tích và xử lý số liệu: sử dụng phương pháp thống kê mô tả, thống kê so sánh. Số liệu được tổng hợp, xử lý và phân tích trên phần mềm Excel. * Phương pháp thống kê, phân tích kinh tế - Phương pháp thống kê mô tả: Từ các số liệu thu thập được, tiến hành xây dựng bảng biểu để phân tích, đánh giá tác động của thu hồi đất nông nghiệp tới việc làm và thu nhập của lao động nông thôn - Phương pháp phân tổ: Là phương pháp cơ bản để tiến hành tổng hợp thống kê, giúp hệ thống hoá các số liệu điều tra, từ đó tìm ra mối quan hệ lẫn nhau của rừng yếu tố riêng biệt như: độ tuổi, trình độ văn hoá chuyên môn, cơ cấu ngành nghề, giới tính… Do đó, phân tổ thống kê được sử dụng nhằm đánh giá được mức độ ảnh hưởng của một số nhân tố cơ bản, nghiên cứu các nhân tố đó trong mối quan hệ với việc làm và thu nhập của lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất phân tổ.  Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo 3 PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP CỦA NÔNG DÂN 1.1. Đô thị hóa và sự cần thiết phải thu hồi đất 1.1.1. Đô thị hóa Trên quan điểm kinh tế quốc dân: “Đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá trình tập trung, tăng cường, phân hóa các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ dân số thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên thế giới. Đồng thời, đô thị hóa cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư” Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tiến trình phát triển xã hội đã có sự thay đổi cơ bản là: 1) phát triển đô thị kèm theo sự thu hẹp xã hội nông thôn; 2) làm thay đổi căn bản xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa được coi như một khía cạnh quan trọng trong sự vận động đi lên của xã hội. Đô thị hóa có 2 hình thức biểu hiện chủ yếu: - Một là, đô thị hóa theo chiều rộng, trong đó quá trình đô thị hóa diễn ra tại các đô thị trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới. Đô thị hóa theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa. - Hai là, đô thị hóa theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hóa nâng cao trình độ của các đô thị hiện có. Đô thị hóa theo chiều sâu lá quá trình thường xuyên và là yêu cầu tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị, các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có, hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hiện đại hóa mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị. 4 1.1.2. Đặc điểm chủ yếu của quá trình đô thị hóa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta cũng chính lá quá trình cơ cấu lại nền kin tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệ và dịch vụ, cơ cấu lại công việc, phân bố lại dân cư theo hướng tăng nhanh khối lượng dân cư sống ở khu vực thành thị và giảm mạnh số lượng, tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn. Quá trình hình thành các đô thị ở nước ta trong những năm gần đây có một số đặc điểm chủ yếu sau đây: - Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị lớn: sự hình thành các trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những đô thị lớn là xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện của tính chuyên môn hóa cao trong sản xuất, kinh doanh. - Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các vùng ngoại ô: sự hình thành các trung tâm của mỗi vùng là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu của sản xuất, đời sống ngày càng tăng nhanh của chính vùng đó và là hạt nhân lan tỏa sang các vùng khác. Đó cũng chính là biểu hiện của tính tập trung hóa trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động thương mại – dịch vụ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy mô dân số của vùng đê đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, các trung tâm này còn là điểm nối, sự chuyển tiếp giữa các đô thị lớn làm cho tính hiệu quả của hệ thống đô thị được nâng cao. Trong quá trình đô thị hóa, các trung tâm này sẽ trở thành những đô thị vệ tinh của các đô thị lớn. - Mở rộng các đô thị hiện có: việc mở rộng các đô thị hiện có theo mô hình làn sóng là xu thế tất yếu khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở rộng có thể thực hiện tương đối dễ dàng. Xu hướng này tạo sự ổn định và giải quyết vấn đề quá tải cho đô thị hiện có. - Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị: đây là xu hướng hiện đại trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn ở nước ta. Vấn đề cơ bản là tạo nguồn tài chính để xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. - Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất: cả hai hình thức đô thị hóa đều dẫn đến sự chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. hình thức phát triển theo chiều rộng đưa đến tình trạng thu hẹp đất canh tác nông nghiệp nhanh chóng. Một phần đất do nhà nước thu hồi để xây dựng các công trình, một phần đất dân cư bán cho những người từ nơi khác tới ở, 5 làm cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hình thức phát triển theo chiều sâu cũng dẫn đến tình trạng thay đổi mục đích sử dụng đất. Trong quá trình đô thị hóa, nhà nước chủ động chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: trong quá trình đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế trong đô thị, trong vùng và cả nền kinh tế đều thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng khu vực CN-DV. Khi đô thị mở rộng ra vùng ngoại vi nhằm giải quyết vấn đề quá tải dân số, hình thành các khu dân cư đô thị thì các hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng khu vực thương mại, dịch vụ. - Thay đổi hình thái kiến trúc: hình thái kiến trúc đô thị được biểu hiện tập trung ở các kiểu nhà ở. Kiểu nhà ở phản ánh trình độ văn hóa, mức sống, đặc điểm xã hội mỗi thời kỳ. - Hình thành nhanh chóng kết cấu hạ tầng: quá trình đô thị hóa là quá trình hình thành nhanh chóng kết cấu hạ tầng kỹ thuật bắt đầu bằng hệ thống giao thông, tiếp theo đó là hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại, dịch vụ và cuối cùng là khu dân cư. - Thay đổi lối sống: thay đổi tập quán sinh hoạt, lối sống, phương thức kiếm sống là kết quả tất yếu của quá trình đô thị hóa. Người dân sẽ nhanh chóng thích nghi và biến đổi tập quán cho phù hợp với lối sống đô thị hiện đại. - Thay đổi cơ cấu dân cư: cơ cấu dân cư theo tuổi, giới, theo tấng lớp xã hội, theo nghề nghiệp cũng biến đổi trong quá trình đô thị hóa. Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ nét. Thu nhập của dân cư nói chung tăng lên nhưng tốc độ tăng của mỗi nhóm xã hội, mỗi nghề nghiệp rất khác nhau. Cơ cấu giàu nghèo có quan hệ chặt chẽ với cơ cấu nghề nghiệp, việc làm của người lao động. 1.1.3. Tầm quan trọng của việc thu hồi đất phục vụ cho quá trình đô thị hóa Như đã nói ở trên, đô thị hóa là xu thế đã, đang và sẽ diễn ra ở các vùng trên khắp cả nước. Đây là một hướng đi nhằm góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước, giúp nước ta thoát khỏi tình tạng nghèo và lạc hậu. Lẽ dĩ nhiên quá trình đô thị hóa tất yếu dẫn đến sự phân bố lại các nguồn lực trong đó có nguồn lực về đất đai. Một bộ phận đất đai, trước hết là đất nông nghiệp được chuyển sang phục vụ cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất mở rộng các khu đô thị cũ và xây dựng các khu đô thị mới. 6 Xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia. Hiện nay, đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra đồng thời cả hai quá trình: đô thị hóa theo chiều rộng và đô thị hóa theo chiều sâu. Từ nay cho đến năm 2020, khi nền kinh tế nước ta cơ bản trở thành một nền kinh tế công nghiệp – đô thị hóa đã và dang tiếp tục diễn ra với quy mô lớn theo chiều rộng. Đó là quá trình hình thành các trung tâm công nghiệp, dịch vụ, các khu đô thị mới. Do vậy việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là một tất yếu có vai trò quan trọng trong quá trình CNH-HĐH và đô thị hóa. Tác động này thể hiện rõ ở những điểm sau: -Thứ nhất, nhờ có đất thu hồi mới có thể xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút hàng trăm dự án đầu tư ở trong và ngoài nước. - Thứ hai, việc thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất làm cho quá trình đô thị hóa được đẩy mạnh. - Thứ ba, tạo điều kiện nâng cấp và xây dựng mới được khá đồng bộ và tương đối hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và an ninh- quốc phòng. - Thứ tư, việc hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị mới đã tạo điều kiện thu hút đầu tư, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập tương đối khá, giúp họ từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nguời dân. - Thứ năm, việc thu hồi đất nông nghiệp có quy hoạch cụ thể, chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển nhanh, mạnh và nông nghiệp sẽ thuận lợi hơn khi sản xuất được cải thiện không còn manh mún, nhỏ lẻ. Tóm lại, nếu CNH-HĐH và đô thị hóa là tất yếu khách quan đối với nước ta thì việc thu hồi đất phục vụ CNH-HĐH và đô thị hóa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Vì thế, muốn quá trình CNH-HĐH và đô thị hóa diễn ra thuận lợi và hiệu quả cần có những biện pháp thu hồi đất đúng đắn đặc biệt là khi thu hồi đất sản xuất nông nghiệp. 1.2. Những tác động của quá trình đô thị hóa đối với nông thôn 1.2.1. Những tác động tiêu cực - Sự phát triển nhanh chóng của các đô thị là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái khi tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lượng khai thác và sử dụng 7 nước sạch tăng, ô nhiễm các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ gia tăng cơ giới. - Vấn đề phân tầng xã hội: phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo là một thực tế đang diễn ra ở các đô thị. Trong lĩnh vực sản xuất, phân tầng xã hội được thể hiện trong sự chênh lệch về thu nhập và thu lao. Trong lĩnh vực giáo dục là tình trạng thất học, bỏ học của học sinh là con em của các gia đình nghèo. - Vấn đề văn hóa xã hội và lối sống đô thị: đây là vấn đề hết sức nhức nhối hiện nay, nhiều khía cạnh tốt đẹp của văn hóa truyền thống bị mai một, các tệ nạn xã hội gia tăng. - Sự gia tăng dòng dân cư từ nông thôn ra đô thị cũng gây nên những áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội... gây khó khăn trong công tác quản lý đô thị. - Đối với nước ta, với 80% dân cư sống ở nông thôn và khoảng 60% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp khi đô thị hóa diễn ra, đất đai bị thu hồi thì bộ phận dân cư thiếu việc làm và khó khăn trong chuyển đổi việc làm sẽ tăng lên nhanh chóng. Thậm chí có một bộ phận dân cư phải chuyển đổi chỗ ở do đất ở bị thu hồi và cuộc sống của họ sẽ bị xáo trộn. Như vậy, những tác động tiêu cực của đô thị hóa trong nông thôn chủ yếu xuất phát từ việc thu hồi đất nông nghiệp. Do vậy, nhiệm vụ cấp bách là phải có quy hoạch cụ thể, các công tác sau quy hoạch như bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải quyết việc làm cho lao động nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do quá trình đô thị hóa gây ra. 1.2.2. Những tác động tích cực - Khi đô thị hóa theo chiều rộng thì diện tích và dân số đô thị không ngừng gia tăng, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động kinh tế đô thị không ngừng được mở rộng. Sự hình thành các đô thị mới được tạo trên cơ sở phát triển các khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ,ở vùng nông thôn và ngoại ô là xu hướng tất yếu của sự phát triển, là nhân tố mở đường thúc đấy lực lượng sản xuất phát triển. - Đối với các vùng đô thị hóa theo chiều sâu thì mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học 8 kỹ thuật, công nghệ ngày càng tăng cường, hiệu quả kinh tế- xã hội cũng ngày càng được cải thiện và nâng cao. - Đô thị sẽ là nơi cung cấp những cơ sở kỹ thuật để CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn như: thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa...xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hình thành nông thôn hiện đại. - Đô thị là thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện nông – lâm – ngư nghiệp nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lượng đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến, của thị trường trong và ngoài nước. - Đô thị còn là nơi tạo nguồn vốn, cung cấp vốn cho nông thôn. Mặc dù chính các đô thị cũng đang thiếu vốn đầu tư cho sự phát triển của mình, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nhưng các đô thị tạo điều kiện thu nhập khá hơn nhiều so với nông thôn. - Đô thị hóa nông thôn mạnh mẽ sẽ hạn chế được sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị. Vì đô thị hóa bao gồm cả việc đưa công nghiệp về nông thôn qua các xí nghiệp vừa và nhỏ, thu hút lao động nông thôn đồng thời xây dựng lối sống đô thị ở vùng nông thôn. Và chính điều này sẽ tạo ra những đô thị sầm uất, thị trường được mở rộng cả về quy mô lẫn phạm vi ảnh hưởng. Các đô thị với thị trường của nó sẽ gắn kết sự phát triển các xí nghiệp nhỏ trên địa bàn huyện, nhất là các xí nghiệp chế biến các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống với dịch vụ tổng hợp và thương mại. Qua đó, góp phần công nghiệp hóa nông thôn phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa các ngành nghề và sản phẩm, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân. Vậy có thể xem đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng trưởng và phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hóa, xã hội. Sơ đồ sau biểu thị rõ hơn vai trò và tác động tích cực của quá trình đô thị hóa: 9 Phát triển DTH Phát triển và Phân bố Các ngành CN mới Tăng việc làm và DS Trong vùng Nâng cao trình độ của LĐ CNo Thu hút vốn đâu tư và sự Phân bố của DNo mới Tạo ra các ngoại ứng Tới các hoạt động KT Phát triển các ngành SX Đáp ứng nhu cầu Đầu vào của CN Cung cấp kết Cấu hạ tầng Tốt hơn cho SX và đời Sống Tăng nguồn Thu cho Ngân sách Mở rộng qui mô và PTr Các ngành DV đáp ứng Nhu cầu SX và đời sống Nâng cao phúc lợi XH Cho các vùng Sơ đồ 1: Vai trò và tác động tích cực của quá trình đô thị hóa 1.3. Khái quát chung về lao động, việc làm và thu nhập của người lao động 1.3.1. Khái niệm về lao động Lao động là hoạt động có mục đích của con người thông qua các công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật chất cần thiết cho nhu cầu của mình và xã hội. Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất, là quá trình con người sử dụng sức lao động hay năng lực lao động bao gồm toàn bộ thể lực và trí lực của mình để phát động và đưa vào các tư liệu hoạt động lao động tạo ra sản phẩm. Do vậy, trong quá trình lao động, sức lao động là yếu tố tích cực và hoạt động nhiều nhất, bởi sức lao động là một trong những nguồn lực khởi đầu của quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm 10 việc. Trong đó lực lượng quan trọng nhất là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động gồm những người đủ 15-55 tuổi đối với nữ, đến 60 tuổi đối với nam đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Trên thực tế vẫn có một số lao động, thường là lao động nông nghiệp mặc dù ngoài độ tuổi nhưng vẫn tham gia lao động như thiếu niên từ 13-15 tuổi hay những người nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi. Đây là nguồn lao động và được quy đổi theo tỷ lệ 3:1 với những người dưới độ tuổi lao động, 2:1 với người trên độ tuổi lao động. Dân số không hoạt động kinh tế, bao gồm toàn bộ số người từ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không hoạt động kinh tế vì các lý do: đang đi học, đang làm công việc nội trợ cho bản thân hoặc gia đình, tàn tật không có khả năng lao động, các lý do về sức khỏe, hoặc ở vào tình trạng khác. 1.3.2. Quan niệm về việc làm Tùy theo tình trạng việc làm mà dân số hoạt động kinh tế được chia làm 2 loại: người có việc làm và người thất nghiệp. Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO), người có việc làm là người đang làm việc trong các lĩnh vực ngành nghề, các dạng hoạt động có ích không bị pháp luật nghiêm cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời góp một phần cho xã hội. Một định nghĩa khác cụ thể hơn thì người có việc làm là những người thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra người đó: - Đang làm việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền công hoặc hiện vật. - Đang làm công việc không được hưởng tiền lương hay lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ gia đình mình. - Đã có công việc trước đó song tại thời điểm điều tra tạm thời không làm việc và sẽ làm việc trở lại sau thời gian tạm nghỉ. Căn cứ vào thời gian làm việc và nhu cầu làm thêm mà người có việc làm được chia thành 2 loại, người đủ việc làm và người thiếu việc làm. 11 - Người đủ việc làm bao gồm những người có thời gian làm việc trong tuần lễ trước điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc số giờ đó bằng hoặc lơn hơn số giờ quy định cho từng ngành nghề riêng biệt. - Người thiếu việc làm bao gồm những người có thời gian làm việc trong tuần lễ trước điều tra nhỏ hơn 40 giờ, hoặc số giờ làm việc nhỏ hơn quy định và có nhu cầu làm thêm (trừ những người có thời gian làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm thêm mà không tìm được việc) Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có sức lao động nhưng chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Hay thất nghiệp là một tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành. 1.3.3.. Khái niệm về thu nhập Về bản chất, theo nghĩa rộng thu nhập gồm hai bộ phận hợp thành: thù lao cần thiết (tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương...) và phần có được từ thặng dư sản xuất (hoặc lợi nhuận). Tuy nhiên, ở phạm trù khác nhau (toàn bộ nền kinh tế, ngành kinh tế, doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân), biểu hiện của thu nhập có những đặc thù riêng biệt. Sau đây là một số khái niệm về thu nhập của lao động: - Theo từ điển kinh tế thị trường thì “thu nhập cá nhân là tổng số thu nhập đạt được từ các nguồn thu khác nhau của cá nhân trong thời gian nhất định, thu nhập cá nhân từ nhiều nguồn khác nhau đều từ thu nhập quốc doanh”. - Theo Robert.J.Gorden thì “thu nhập cá nhân là thu nhập mà các hộ gia đình nhận được từ mọi người bao gồm các khoản làm ra và các khoản chuyển nhượng. Thu nhập cá nhân khả dụng là thu nhập cá nhân trừ đi các khoản thuế cá nhân”. Tóm lại, thu nhập của người lao động là số tiền mà họ nhận được từ các nguồn thu và họ được toàn quyền sử dụng cho bản thân và cho gia đình”. 12 1.3.4. Các chỉ tiêu đánh giá việc làm và thu nhập của lao động Để đánh giá thực trạng việc làm và lao động, trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng một số hệ thống chỉ tiêu sau: 1.3.4.1. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động Tỷ lệ thất nghiệp của lao động là tỷ số giữa người thất nghiệp so với lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp lao động được tính theo công thức: Tn = Tm / Llđ Trong đó: + Tn: tỷ lệ thất nghiệp của lao động (%). + Tm: tổng số lao động thất nghiệp (người). + Llđ: lực lượng lao động Tỷ lệ thất nghiệp là chỉ tiêu được sử dụng ở tất cả các nước thực hiện theo cơ chế thị trường. Chỉ tiêu này phản ánh tình hình lao động, việc làm, vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ở mỗi quốc gia hay mỗi địa phưong. Nhưng thất nghiệp lại được phân ra: thất nghiệp công khai, bán thất nghiệp hay thất nghiệp mùa vụ...vì vậy ngoài chỉ tiêu trên, khóa luận còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất quỹ thời gian lao động trong năm. 1.3.4.2. Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian làm việc của lao động trong năm Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian làm việc của lao động trong năm là tỷ số giữa ngày – người có thể làm việc được trong năm (quỹ thời gian làm việc trong năm tính bình quân cho một lao động). Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian làm việc của lao động được tính theo công thức sau: Tq = Nlv / Tlv Trong đó: Tq: tỷ suất sử dụng thời gian làm việc của lao động trong năm (%). Nlv: số ngày đầu tư vào sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ tính bình quân cho một lao động trong năm. Tlv: quỹ thời gian làm việc trong năm của lao động (ngày). Tỷ suất sử dụng quỹ thời gian trong năm nói lên trình độ sử dụng lao động theo ngày và qua đó thấy được tỷ lệ quỹ thời gian chưa sử dụng hết cần phải huy động trong năm. Tất nhiên, ngày lao động được tính theo ngày chuẩn tức thời gian làm việc phải đạt 8 giờ trong một ngày. Trường hợp chưa phải là ngày chuẩn thì phải tính tỷ 13 suất sử dụng lao động theo giờ để tính ra số ngày làm việc (theo ngày chuẩn) bình quân của một lao động trong năm. Qua chỉ tiêu này sẽ thấy được tình hình và mức độ việc làm, thấy được số ngày còn dôi ra chưa được sử dụng vào sản xuất, trên cơ sở đó lập kế hoạch và biện pháp tạo thêm việc làm để người lao động có thể sử dụng tối đa quỹ thời gian làm việc trong năm. Quỹ thời gian làm việc của người lao động trong năm là số ngày trung bình mà mỗi người lao động có thể dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ trong năm. Đó là số ngày trong năm còn lại sau khi đã trừ đi số ngày nghỉ do đau ốm, giỗ tết, ma chay, cưới xin, hội họp hoặc thời tiêt xấu (bão, lụt...) và những ngày nghỉ khác. Đối với lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ còn có những ngày nghỉ do thai sản, sinh đẻ...ngoài ra những người lao dộng phải dành một số thời gian vào các công việc khác cần thiêt cho cuộc sống cũng như trong sản xuất: đi chợ, sửa chửa nhà, mua sắm vật tư... Hiện nay, việc lấy quỹ thời gian làm việc bình quân của một lao động nông nghiệp là bao nhiêu ngày chưa có sự thống nhất. Theo kết quả điều tra về việc làm và thu nhập của các hộ ở nông thôn trong các năm 1988, 1990, 1993 của trung tâm dân số và lao động (Bộ LĐTBXH) cho thấy bình quân một lao động có số ngày nghỉ có tính chất bắt buộc nói trên thường chiếm từ 80 – 90 ngày trong một năm. Do vậy, có thể lấy quỹ thời gian làm việc trong năm của lao động nông nghiệp khoản 285 ngày là phù hợp. 1.3.4.3. Thu nhập bình quân của một lao động trong năm Thu nhập của một lao động nông thôn là một thu nhập của nông hộ. Do đó, chúng ta phải xác định thu nhập của họ được tính theo công thức: Thu từ thu từ sản thu từ Thu nhập = tiền lương + xuất nông, + sản xuất kinh tiền công lâm, ngư doanh Nn – Dv thu từ các khoản + thu khác được tính vào thu nhập Trong đó: - Thu từ tiền lương bao gồm: + Tiền lương, tiền công ( không kể BHXH). + Phụ cấp làm thêm giờ , ăn trưa, nghỉ trưa, ăn giữa ca, phụ cấp. + Phụ cấp độc hại. + Thưởng và các khoản khác. + Các khoản trợ cấp. 14 - Thu nhập từ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp Thu nhập từ Tổng thu từ sản xuất nông, = lâm, ngư nghiệp - sản xuất nông, ngư nghiệp Chi phí sản xuất nông, lâm, nông, lâm, Chi phí Chi phí = ngư nghiệp vật chất lâm, ngư nghiệp chi phí + dịch các khoản + chi vụ các khoản + khác đã nộp - Thu nhập từ sản xuất kinh doanh nghề dịch vụ Thu nhập từ sản xuất kinh doanh Nn-Dv tổng thu từ các = hoạt động sản xuất chi phí sản xuất - kinh doanh Nn-Dv kinh doanh ngành nghề dịch vụ và thuế phí - Các khoản thu được tính vào thu nhập nông nghiệp: + Giá trị hiện vật và tiền của người gửi về cho,biếu, mừng, giúp. + Lương, hưu, trợ cấp mất sức, trợ cấp mất việc một lần. 1.4. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động sau thu hồi đất 1.4.1. Ở Việt Nam Như đã nói ở trên, công nghiệp hóa và cùng với nó là đô thị hóa đã trở thành xu thế chung cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Điều này cũng có nghĩa là đô thị hóa càng phát triển thì quỹ đất của xã hội giành cho nông nghiệp có xu hướng giảm. Đất đai cũng như các nguồn lực khác, không có nó thì không thể tiến hành sản xuất đối với bất cứ ngành kinh tế nào đặc biệt là trong nông nghiệp. Đất đai lại không giống các nguồn lực khác ở chỗ nó là sản phẩm của tự nhiên, có giới hạn và không thể thay thế được. Trong những năm qua, việc thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng trên khắp cả nước cũng như ở các thành phố trọng điểm ngày một tăng cao. Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm và thu nhậo của người dân trước kia luôn gắn bó với nghề nông. Thực trạng việc làm, mỗi năm cả nước có khoảng 100.000 ha đất nông nghiệp đô thị hóa trở thành các khu công nghiệp, nhà ở và công trình công cộng. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001-2005) nhà nước đã thu hồi 366,44 nghìn ha đất nông nghiệp phục vụ cho công nghiệp hóa, đô thị hóa (chiếm 3,89% đất nông nghiệp đang sử 15 dụng), thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy việc thu hồi đất nông nghiệp trong 5 năm qua đã tác động đến đời sống của trên 627.000 hộ gia đình với khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu người. Mặc dù quá trình thu hồi đất, các địa phương đã ban hành nhiều chính sách cụ thể đối với người dân bị thu hồi đất về các vấn đề như bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư... Tuy nhiên, trên thực tế có tới 67% lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên nghề cũ sau khu bị thu hồi đất, 13% chuyển sang nghề mới và khoảng 20% không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Thực trạng này cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả 53% số hộ dân bị thu hồi đất có thu nhập giảm so với trước đây, chỉ có khoảng 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước. Tình hình chung ở những vùng sau khi bị thu hồi đất, là: - Từ nhiều năm nay, người nông dân chỉ quen với sản xuất nông nghiệp, nên sau khi thu hồi, không có đất canh tác, họ trở thành thất nghiệp hoặc thiếu việc làm; Một số tuy tìm được việc làm nhưng thu nhập thấp, đời sống rất khó khăn. Nhiều hộ nông dân nhận tiền đền bù do không có nghề nên đã sử dụng không hợp lý, chủ yếu là xây nhà mua sắm đồ dùng sinh hoạt, rất hạn chế đầu tư tạo việc làm bằng một nghề mới phi nông nghiệp hay đầu tư giáo dục con em, cho nên chỉ sau một, đến hai năm bị thu hồi đất, nông dân bị rơi vào “bần cùng hoá tương đối" dẫn đến các tệ nạn xã hội, trộm cắp, mại dâm, cờ bạc, nghiện hút… - Người lao động mất đất sản xuất, thiếu việc làm dẫn đến di dân tự do, không có tổ chức từ nông thôn ra thành thị ở chính địa phương, cũng như đến các thành phố lớn tìm việc làm. Trong khi đó các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp trên địa bàn lại yêu cầu lao động có nghề, đặt ra các tiêu chí tuyển dụng lao động quá cao so với năng lực, tay nghề, sở trường của lao động địa phương. Thêm vào đó, lao động ở những vùng bị thu hồi đất mang nặng dấu ấn của người sản xuất nhỏ, không có tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật kém, nên các khu công nghiệp không thể tuyển hết số lao động địa phương, dẫn đến tình trạng một bộ phân không nhỏ không có việc làm sau khi đất sản xuất bị thu hồi. Tuy nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị hóa cũng đã có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống của người dân nói riêng và toàn xã hội 16 nói chung. Cần phải thấy rằng, việc thu hồi đất thời gian qua đã góp phần rất lớn vào việc phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta đã xây dựng được hàng trăm khu công nghiệp, đã thu hút được hàng chục ngàn dự án đầu tư của các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước. Cơ cấu của nền kinh tế nước nhà nhờ đó đã chuyển dần theo hướng tiến bộ, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong toàn bộ GDP của đất nước giảm nhanh, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng ngày càng hợp lý. Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất được cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp, được xây mới ngày càng nhiều, càng hiện đại và đồng bộ. Các đô thị được mở mang, được xây dựng mới ngày càng nhiều, to đẹp hơn, hiện đại hơn. Hàng triệu lao động được giải quyết việc làm với thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Đó là những thành tựu rõ ràng. Thu hồi đất, giải quyết việc làm cho người lao động có tác động tích cực đối với việc chuyển đổi ngành nghề trong nền kinh tế. Điều này góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nước ta. Tóm lại, quá trình đô thị hóa ở nước ta trong những năm gần đây đã diễn ra rất nhanh và còn nhanh hơn nữa trong tương lai, thu hồi đất phục vụ cho đô thị hóa ngày càng lớn. Do vậy cần thiết phải đảm bảo phát triển bền vững của nông nghiệp nông thôn trong tiến trình đô thị hóa ở nước ta. 1.4.2. Ở các nước trên thế giới * Kinh nghiệm của Trung Quốc - Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút lao động: các chính sách khuyến khích phát triển các xí nghiệp địa phương đã làm cho công cuộc cải cách và mở cửa của Trung Quốc diễn ra sâu rộng hơn. Các doanh nghiệp địa phương đóng vai trò chính trong việc thu hút lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn trong quá trình đô thị hóa. Chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước cùng với sự đầu tư của kinh tế tư nhân vào khu vực phi nông nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương. Trong những năm đầu đã có đến 20% tổng thu nhập của người dân nông thôn là từ các doanh nghiệp địa phương. Ở những vùng phát triển, tỷ lệ này lên tới trên 50%. Công nghiệp địa phương có tốc độ tăng trưởng rất cao. - Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư vào các thành phố lớn: Trung Quốc cho rằng có hai cách để chuyển đổi lao động dư thừa trong 17 nông thôn: cách thứ nhất là chuyển họ sang các ngành công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn; cách thứ hai là chuyển họ đến thành phố. Các chính sách đúng đắn trong việc thúc đẩy hình thành các khu đô thị quy mô nhỏ đã gặt hái được những thành công đáng khích lệ. Theo các nhà kinh tế Trung Quốc, lợi thế của việc phát triển các đô thị nhỏ là: các đô thị này dân số ít, nhiều ngành công nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động; những đô thị này nằm giữa thành phố và nông thôn sẽ đem lại cho nó những đặc trưng về lối sống ở cả hai khu vực nên người nông dân sẽ dễ dàng định cư ở đây hơn; ở các đô thị nhỏ người nông dân sẽ dễ dàng hơn trong việc kinh doanh do điều kiện cạnh tranh thấp và yêu cầu về vốn nhỏ. Chính vì vậy chính phủ Trung Quốc đã tạo điều kiện để hình thành hơn 19.000 đô thị nhỏ. Trong những năm 1990, các đô thị nhỏ đã thu hút trên 30 triệu lao động nông nghiệp dư thừa, chiếm hơn 30% tổng số lao động nông thôn dư thừa. * Kinh nghiệm của Nhật Bản Quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản cũng bắt đầu bằng thời gian dài tăng trưởng trong nông nghiệp. Nhật Bản luôn là nước bị giới hạn bởi tài nguyên đất đai ít và dân số đông, diện tích canh tác bình quân của một hộ nông dân khoảng 0.8ha. Nhật Bản thực hiện chính sách đưa công nghiệp về nông thôn. Chính điều này đã làm cho cơ cấu nông thôn thay đổi, các ngành phi nông nghiệp đã đóng góp ngày càng tăng vào thu nhập của người dân nông thôn (năm 1950 tỷ lệ này là 29% đã tăng lên 85% năm 1990). Việc chú trọng phát triển công ngiệp thu hút nhiều lao động trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa đã cơ bản giải quyết được vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, mặc dù diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng giảm. Chính phủ Nhật Bản đã thành lập mạng thông tin việc làm trên khắp đất nước với mục đích cung cấp đầy đủ các thông tin về việc làm từ các tổ chức, doanh nghiệp qua internet đến những người đang tìm việc, giúp họ có những lựa chọn phù hợp với năng lực, điều kiện của mình. Chính phủ cũng bồi dưỡng những công nhân có tay nghề cao qua việc hỗ trợ tài chính, tạo cơ hội phát triển năng lực, nâng cao chất lượng các tổ chức giáo dục-đào tạo. Hoạt động giải quyết việc làm cho người cao tuổi cũng được chú trọng để xóa bỏ những bất cân đối về việc làm do tuổi tác gây ra. Các loại hình tuyển dụng và thuê mướn cũng được đa dạng hóa, coi trọng các công việc làm thêm 18 không chính thức như làm bán thời gian, tạm thời hoặc bất thường. Chế độ tuyển dụng thay đổi theo khu vực, không tập trung chủ yếu tại các đô thị lớn như trước kia mà chuyển sang các khu vực lân cận và địa phương. Từ chính sách của Nhật Bản trong quá trình đô thị hóa có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: - Không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trên cơ sở nhu cầu lao động của xã hội. - Phát triển mạnh mẽ những ngành nghề ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học-kỹ thuật và những ngành sử dụng nhiều lao động. - Phát triển hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động. - Thực hiện cải cách chế độ tiền lương, thu nhập của người lao động. 1.5. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN HƯƠNG THỦY 1.5.1. Điều kiện tự nhiên * Vị trí địa lý Huyện Hương Thủy là một huyện nằm ở phía Đông Nam cách trung tâm thành phố Huế khoảng 12km . Phía Bắc giáp thành phố Huế , phía Nam giáp huyện Phú Lộc , phía đông nam giáp huyện Phú Vang , phía Tây giáp huyện Nam Đông . Với vị trí địa lý như vậy đã tạo nên những điều kiện rất thuận lợi cho Huyện Hương Thủy trong việc thu hút đầu tư phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, tạo nên tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp – nông thôn nói riêng và kinh tế của huyện nói chung . * Địa hình Địa hình của huyện thấp dần từ Tây sang Đông, được chia thành 2 vùng với đặc điểm khác biệt: - Vùng đồi núi : Chiếm phần lớn diên tích tự nhiên của huyện (khoảng 76,33%), nằm trên phía Tây Nam quốc lộ 1A, bao gồm 3 xã: Dương Hòa, Phú Sơn, Thủy Bằng và một phần các xã Thủy Phương, Thủy Dương, Thủy Châu, Thủy Phù. Vùng này gồm những dải đồi với độ cao trung bình 400-500m, đặc biệt có động Mang Chan ở phía Tây Nam của huyện với độ cao trung bình 861m. Địa hình thuận lợi cho việc trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, phát triển công nghiệp, dịch vụ và du lịch. 19 - Vùng đồng bằng: Chiếm 23,67% diện tích tự nhiên của huyện, nằm về phía Đông Bắc của quốc lộ 1A, bao gồm các xã Thủy Vân, Thủy Thanh, Thủy Lương, Thủy Châu, Thủy Phù. Vùng này có địa hình thấp dần theo hướng Đông Nam, độ cao trung bình từ 2-5m so với mặt nước biển. * Khí hậu, thủy văn Có thể nói, khí hậu của 3 xã nói riêng và của huyện Hương Thủy có nền nhiệt độ cao, lượng mưa lớn thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng. Tuy nhiên, mưa tập trung, cường độ lớn gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. - Nhiệt độ trung bình năm 25-270C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất khoảng 13,70C vào tháng 12, tháng nóng nhất là tháng 7 khoảng 38,50C. - Lượng mưa trung bình hằng năm của huyện là 2.844mm tuy nhiên phân bố không đều. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau kèm theo mưa lạnh, gió mùa Đông Bắc, chiếm khoảng 85% lượng mưa cả năm, tám tháng còn lại chỉ chiếm 25% lượng mưa cả năm. Chế độ thủy văn của huyện chịu ảnh hưởng của các sông: Sông Hương, Lợi Nông, Đại Giang, Như Ý...và các hồ: Châu Sơn, Phú Bài, Ba Cửa...ảnh hưởng trực tiếp đến nước tưới cho một phần đất nông nghiệp của huyện. Hiện hồ Tả Trạch được xây dựng để ngăn lũ; chủ động tưới tiêu và tạo ra cảnh quan để phát triển du lịch, dịch vụ. 1.5.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Huyện Hương Thủy là một trong những huyện của tỉnh Thừa Thiên Huế có tốc độ phát triển khá nhanh, huyện đã có những bước phát triển mạnh về cả kinh tế, cơ sở hạ tầng cũng như đời sống vật chất của người dân. Để thấy rõ tình hình kinh tế của huyện ta xem xét bảng sau: Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tổng giá trị sản xuất của huyện tăng qua 3 năm, năm 2007, tổng giá trị sản xuất đạt 2.635.367 triệu đồng đến năm 2008 tăng lên 3.439.412 triệu đồng (tức tăng 30,51% so với năm 2007) và tăng lên 4.638.214 triệu đồng năm 2009 (tức tăng 1.198.802 triệu đồng tương ứng với mức tăng 34,85% so với năm 2008). 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan