LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay nền kinh tế thế giới đang phát triển không ngừng, vị thế của
các nước dần thay đổi bởi tốc độ phát triển của các quốc gia mới nổi,
nơi mà nền kinh tế hứa hẹn những cơ hội đầu tư tiềm năng. Với
những lợi thế chưa được khai thác như nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, nguồn lao động dồi dào đang được đào tạo chuyên nghiệp
và hoàn thiện hơn và nhu cầu về vốn đang được đặt lên hàng đầu. Vì
vậy, các quốốc gia đang phát triển luốn luốn tìm mọi cách đ ể thu
hút và sử dụng có hiệu quả các nguốồn vốốn huy động được. Ngoài
nguốồn vốốn huy động trong nước, các quốốc gia tìm mọi cách để thú
hút nguốồn vốốn bên ngoài.
Trong khi đó, thị trường cổ phiếu quốc tế thời gian qua đang chao đảo
trước sự sụt giảm liên tục của hàng loạt các chỉ số lớn và việc giảm
điểm liên tục trong các phiên giao dịch tại các trung tâm giao dịch lớn
như New York, Tokyo, Hồng Kông. Bên cạnh đó, cơn bão khủng
hoảng tài chính do các biến động trong thị trường tài chính thứ cấp
bắt đầu từ Mỹ đã lan ra một số nền kinh tế khác kéo theo chỉ số niềm
tin vào thị trường chứng khoán thế giới nói chung sụt giảm nghiêm
trọng. Thị trường chứng khoán xuống dốc là một khó khăn cực kỳ to
lớn đối với những công ty, những tổ chức tài chính muốn thông qua
thị trường này để huy động vốn cho các dự án đầu tư của mình. Phát
hành cổ phiếu lúc này trở nên một quyết định nhiều rủi ro khiến các
công ty đau đầu. Chính lúc này thì thị trường trái phiếu tỏ ra là một
lựa chọn thích hợp, đặc biệt là thị trường trái phiếu quốc tế do những
ưu điểm của thị trường này đem lại cho nhà đầu tư và những tồ chức
muốn huy động vốn.
Việt nam là một nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ nên nhu cầu về
vốn để đầu tư phát triển là rất cao. Trong bối cảnh này, phát hành trái
phiếu quốc tế là một kênh huy động vốn hiệu quả mà Chính phủ và
các doanh nghiệp nên tìm hiểu và tận dụng để phục vụ cho nhu cầu
phát triển, nhưng nhìn chung thì loại hình này còn khá mới mẻ do đó
thông qua đề tài này hướng mọi người có cái nhìn cận cảnh hơn về
các lần phát hành trái phiếu quốc tế của Việt nam và hướng phát triển
trong tương lai.
Chương 1: Khái quát chung về trái phiếu quốc tế.
1.1 Khái niệm, phân loại và đặc điểm của thị trường trái phiếu
quốc tế
1.1.1 Khái niệm và phân loại
Theo cách phân loại cơ bản thì thị trường trái phiếu quốc tế gồm
có thị trường trái phiếu nước ngoài (Foreign bond market), thị trường
trái phiếu Châu Âu (Eurobond Market). Nói đơn giản, thị trường trái
phiếu quốc tế là nơi mà các chủ thể phát hành và chủ thể đầu tư đến từ
nhiều quốc gia khác nhau. Khi một trái phiếu do người không cư trú
phát hành vào một quốc gia mà được định giá bằng bản tệ của quốc
gia đó thì trái phiếu đó gọi là trái phiếu nước ngoài và tạo nên thị
trường trái phiếu nước ngoài. Khi một trái phiếu được do người không
cư trú phát hành vào một quốc gia mà được định giá bằng đồng tiền
không phải nội tệ quốc gia đó thì gọi là trái phiếu Châu Âu và tạo ra
thị trường trái phiếu Châu Âu. Globalbond là loại trái phiếu được phát
hành đồng thời ở nhiều quốc gia khác nhau, được định giá bằng nhiều
loại tiền tệ, là nội tệ của các quốc gia được phát hành. Do đó, có tài
liệu phân loại Euro Bond là một phần của Global bond.
1.1.1.1 Thị trường trái phiếu châu Âu (Euro-bonds)
Thị trường trái phiếu Châu Âu là thị trường mua bán trái phiếu
do người không cư trú (công ty, ngân hàng, chính phủ và các tổ chức
quốc tế) phát hành nằm ngoài nước phát hành đồng tiền được ghi trên
trái phiếu.
Trái phiếu Châu Âu (Euro-bonds) được bán ở các quốc gia khác
hơn là quốc gia hơn mà đồng tiền của nó được sử dụng để đo giá trị
trái phiếu. Mặc dù trung tâm thị trường trái phiếu Châu Âu là ở Châu
Âu, nhưng nó không có ranh giới quốc gia. Chẳng hạn, một công ty
Pháp phát hành trái phiếu tính bằng đồng bảng Anh ở Thụy Sỹ,
Luxembourg và Frankfurt đều gọi là trái phiếu Châu Âu. Trái phiếu
Châu Âu được bán cùng một lúc ở nhiều nước khác nhau, nó đã trở
nên một loại trái phiếu bao trùm để huy động vốn đồng thời từ các
nền kinh tế thế giới.
Thông thường trái phiếu Châu Âu được bán cùng một lúc ở
nhiều trung tâm tài chính thông qua các nhóm ngân hàng bảo lãnh đa
quốc gia và được tổ chức đầu tư quốc tế mua. Các tổ chức này có tầm
hoạt động vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia phát hành. Khác với
trái phiếu nước ngoài, việc phát hành trái phiếu Châu Âu cho phép
chọn lựa loại đồng tiền nhờ đó người chủ nợ có thể yêu cầu để được
hoàn trả bằng một trong những loại đồng tiền khác nhau và như vậy
giảm được rủi ro về trao đổi ngoại tệ hàm chứa trong loại trái phiếu
nước ngoài được phát hành bằng một đồng tiền duy nhất. Tuy nhiên
trên thực tế, lãi vay lẫn nợ gốc vẫn thường được thanh toán bằng đồng
dollar Mỹ(USD).
1.1.1.2 Thị trường trái phiếu nước ngoài (Foreignbond)
Là thị trường mua bán trái phiếu do người không cư trú (chính
phủ, các công ty nước ngoài) phát hành tại một nước ghi bằng đồng
tiền nước đó để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nội địa. Ví dụ: Công ty
BP (Anh) phát hành trái phiếu bằng đồng Yên ở Sở giao dịch chứng
khoán Tokyo, hay như Chính phủ Trung Quốc đã có 2 đợt phát hành
trái phiếu Chính phủ trên thị trường chứng khoán New York vào năm
1994 với tổng mức phát hành hơn 1 tỷ USD, hoặc giả như là trường
hợp Đan Mạch quyết định phát hành trái phiếu bằng đồng Sterling ở
thị trường chứng khoán Luân Đôn. Tất cả các loại trái phiếu trên là
trái phiếu nước ngoài.
Có mười lăm thị trường trái phiếu nước ngoài trên thế giới (xem
phụ lục), ví dụ như Thị trường trái phiếu Yankee của Mỹ, Samurai
của Nhật, Bulldog của United Kingdom. Đó là trái phiếu trên các thị
trường trái phiếu công khai của các quốc gia kể trên. Ngoài ra, còn có
các thị trường không công khai, nơi mà nhà phát hành trái phiếu
không cần phải đăng ký với sở giao dịch và có thể được bán trực tiếp
cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, thị trường này có quy mô nhỏ và số lượng
các nhà đầu tư tham gia cũng ít hơn.
1.1.2 Đặc điểm
1.1.2.1 Thị trường Trái phiếu Châu Âu
Ích lợi chính của thị trường trái phiếu Châu Âu là tương đối ít bị
điều chỉnh, thu nhập từ thị trường này phần lớn không phải chịu thuế
và việc phát hành chứng khoán mang tính linh hoạt hơn so với thị
trường nội địa.
Về loại đồng tiền thanh toán, doanh số phát hành trái phiếu
Châu Âu bằng dollar là lớn nhất (trong năm 1996, trái phiếu châu Âu
ghi bằng USD chiếm 43,78% trên tổng số phát hành), tiếp theo là
Bảng Anh, Mác Đức, Yên Nhật, và đơn vị tiền tệ của Châu Âu ECU
(European Currency Unit).
Hầu hết các Eurobond được phát hành bởi những tổ chức có hệ
số tín nhiệm cao, ví dụ hệ số AAA và AA chiếm tới gần 80% tổng số
các đợt phát hành. Những nhà phát hành Eurobond tích cực nhất là
các chính phủ, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng đầu tư Châu Âu và các công ty đa quốc gia. Một số nhà phát
hành Eurobond ghi bằng đồng tiền không được sử dụng vào mục đích
cuối cùng, mà họ chuyển đổi sang đồng tiền cần thiết khác thông qua
nghiệp vụ Swap. Mức lãi suất của Eurobond phụ thuộc vào: điều kiện
thị trường và hệ số tín nhiệm của nhà phát hành.
1.1.2.2 Thị trường trái phiếu nước ngoài
Đặc điểm của loại trái phiếu nước ngoài là nó được thanh toán
bằng đồng tiền của nước nơi nó được phát hành. Tuy nhiên, cũng có
những nước mà trái phiếu có thể được phá thành bằng đồng tiền khác.
Trong trường hợp này, tên của trái phiếu nước ngoài sẽ khác. Chẳng
hạn, ở Nhật, trái phiếu phát hành bằng Yen tên là Samurai, phát hành
bằng USD tên là Shogun.
Thị trường trái phiếu nước ngoài lớn nhất là thị trường trái phiếu
Mỹ và Nhật Bản. Thị trường trái phiếu Mỹ rất đa dạng. Thị trường
Yankee là thị trường công khai, cung cấp vốn trung và dài hạn cho
nhà đầu tư ngoài nước. Thị trường trái phiếu Nhật Bản cũng gồm thị
trường công khai là thị trường Samurai. Các nhà phát hành trên thị
trường này có điều kiện tiên quyết là phải được xếp tín nhiệm từ BBB
trở lên. Các trái phiếu Samurai chủ yếu được các nghiệp đoàn và các
công ty Nhật Bản bảo lãnh. Còn trên thị trường không công khai của
Nhật, các nhà phát hành không cần phải tuyên bố bất kỳ một tài liệu
nào theo luật giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên số lượng trái phiếu
này ít và cũng ít nhà đầu tư.
1.2. Quy trình phát hành
Một tổ chức dự định tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu
vào thị trường vốn sẽ liên hệ với các ngân hàng đầu tư và sẽ yêu cầu
họ làm nhà quản lý chính của một nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ phát hành
trái phiếu vào thị trường. Nhà quản lý chính thường sẽ mời thêm các
ngân hàng khác kết hợp tạo thành một nhóm quản lý để giúp thương
thảo với tổ chức muốn phát hành trái phiếu, xác định các điều kiện thị
trường quản lý việc phát hành. Hầu hết các nhà bao tiêu, cùng với các
ngân hàng khác, sẽ là một phần của một nhóm chuyên bán trái phiếu
vào thị trường đầu tư công chúng. Rất nhiều thành viên của nhóm bao
tiêu sẽ nhận được một phần chia của phí bao tiêu (thường là từ 2%
đến 2.5% của lượng phát hành), dựa trên số lượng và loại trái phiếu.
Nhà quản lý chính sẽ nhận được đầy đủ phí bao tiêu, và ngân hàng
hoạt động chỉ như là thành viên của một nhóm bán trái phiếu thì nhận
được phần nhỏ hơn.
Đối với việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế
phải tuân thủ các quy định trong Luật Quản lý nợ công còn phải có đề
án phát hành trái phiếu được Chính phủ phê duyệt. Giá trị phát hành
trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế phải nằm trong tổng hạn
mức vay thương mại nước ngoài của Chính phủ hàng năm và phù hợp
với chiến lược quản lý nợ công, chương trình quản lý nợ trung hạn
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Quy trình của việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường
quốc tế do Bộ Tài chính là cơ quan đảm nhận phát hành trái phiếu
quốc tế của Chính phủ. Việc phát hành trái phiếu quốc tế của Chính
phủ chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
+ Đầu tiên việc phát hành trái phiếu từ thị trường vốn quốc tế
phải được sử dụng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn từ phát
hành trái phiếu quốc tế được xác định là trọng điểm quốc gia; ngoài ra
còn dùng cho các chương trình, dự án đầu tư có hiệu quả, đã hoàn
thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy
định của pháp luật có liên quan góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt
nam.
+ Bộ tài chính trình đề án phát hành trái phiếu lên Chính phủ.
Sau khi đề án phát hành được Chính phủ thông qua thì Bộ tài chính là
cơ quan được Chính phủ giao cho nhiệm vụ thực hiện đề án phát hành
trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế.
+ Căn cứ vào tình hình thực tế, trình tự phát hành trái phiếu
theo một số bước cơ bản như sau:
Để nâng cao mức tín nhiệm của chủ thể phát hành trong quá
trình tiếp cận nguồn vốn, cần thiết phải có người bảo lãnh phát
hành. Thông thường Bộ tài chính sẽ lựa chọn các tổ chức hoặc
tổ hợp bảo lãnh phát hành: lựa chọn một hoặc một số tổ chức tài
chính, tín dụng đầu tư quốc tế hàng đầu trên thế giới, có kinh
nghiệm trong lĩnh vực phát hành trái phiếu để bảo lãnh phát
hành cho đợt phát hành trên cơ sở chào thầu cạnh tranh theo các
tiêu chí cụ thể và danh sách các tổ chức do các tạp chí uy tín
quốc tế bình chọn. Đây có thể là một tập đoàn tài chính hoặc
một ngân hàng đầu tư có uy tín, có kinh nghiệm trên thị trường
vốn quốc tế, đã từng giúp một quốc gia trong khu vực phát hành.
Việc lựa chọn sẽ thông qua phương thức đấu thầu cạnh tranh để
đảm bảo có lợi nhất cho chính phủ phát hành. Vì vậy các định
chế tài chính quốc tế hoặc các ngân hàng lớn sẽ là tổ chức mà
chúng ta lựa chọn làm nhà bảo lãnh phát hành. Vd như: tổ chức
Standard & Poor’s hoặc Moody’s …;
Lựa chọn các tư vấn pháp lý: chủ trì, phối hợp với tổ chức hoặc
tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các tổ chức, công ty luật có
uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước làm tư vấn pháp lý
trong nước, tư vấn pháp lý quốc tế cho Bộ Tài chính và tổ chức
hoặc tổ hợp bảo lãnh phát hành. Vd như: Công ty Luật
Freshfields Bruckhaus Deringer, Công ty Shearman & Sterling;
Hoàn thiện hồ sơ phát hành: chủ trì, phối hợp với tư vấn pháp lý
trong nước hoặc tư vấn pháp lý quốc tế đàm phán, ký kết các
hợp đồng với tổ chức hoặc tổ hợp bảo lãnh phát hành, các đại lý
có liên quan và chuẩn bị các tài liệu trong hồ sơ phát hành phù
hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp của Việt Nam;
Đánh giá hệ số tín nhiệm: chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên
quan làm việc với các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm để xác
nhận hệ số tín nhiệm cho quốc gia. Kết quả xếp hạng tín nhiệm
có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của các đợt phát hành,
cũng như lại suất của trái phiếu. Đối với các nước đang phát
triển như Việt nam, giai đoạn đầu khi tiếp cận với kệnh huy
động vốn này , nên cần phải được một công ty xếp hạng có uy
tín trên thế giới thực hiện. Điều này, nhằm tạo nềm tin tưởng
cho các nhà đầu tư. Vì vậy, chính phủ có thể chọn thuê những
công ty như: CBRS (Canadian Bond Service), JBRI(Japanese
Bond Intitute), Stnadard&Poor’s, Moody’s hoặc Fitch’s;
Tổ chức quảng bá: việc tổ chức quảng bá chào bán trái phiếu do
Bộ Tài chính thực hiện tùy thuộc yêu cầu của từng phương thức
phát hành trái phiếu. Bộ Tài chính phối hợp với tổ chức hoặc tổ
hợp bảo lãnh phát hành tổ chức quảng bá trái phiếu tại các trung
tâm tài chính lớn trên thế giới để tiếp xúc với cộng đồng các nhà
đầu tư quốc tế trước khi thực hiện việc định giá để phát hành trái
phiếu;
Tổ chức phát hành: Bộ Tài chính quyết định các điều kiện, điều
khoản phát hành trái phiếu trong quá trình định giá trái phiếu
trên cơ sở tư vấn của tổ chức hoặc tổ hợp bảo lãnh phát hành,
phù hợp với điều kiện thị trường và các nguyên tắc nêu tại đề án
phát hành trái phiếu đã được Chính phủ phê duyệt;
Tiếp nhận vốn: Bộ Tài chính tổ chức tiếp nhận nguồn vốn trái
phiếu đã phát hành theo đúng các thỏa thuận đã ký;
Hoàn tất giao dịch phát hành: sau khi nhận tiền bán trái phiếu,
Bộ Tài chính hoàn tất và ký kết các văn bản pháp lý kết thúc
giao dịch phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời báo cáo kết
quả phát hành theo các quy định hiện hành
1.3. Mục tiêu của phát hành trái phiếu trên thị trường
quốc tế:
Góp phần bổ sung nguồn lực tài chính trung và dài hạn, góp
phần thúc đẩy sự tăng trưởng và ổn định kinh tế của các nước
Đáp ứng khả năng thanh toán của các chủ thể khác nhau khi
tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế
Góp phần hình thành và phát triển hệ thống thị trường tài chính
quốc tế
Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân
sách trung ương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước;
Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ Chính phủ;
Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa
phương vay lại theo quy định của pháp luật;
Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh được phát hành để đầu tư
cho các chương trình, dự án: Chương trình, dự án đầu tư được
Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu
tư, bao gồm cả phương án tái cơ cấu nợ của các chương trình dự
án này; Chương trình, dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án
trong lĩnh vực năng lượng khai thác, chế biến khoáng sản hoặc
sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu do Thủ tướng
Chính phủ quyết định phù hợp với định hướng phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước; Chương trình, dự án thuộc lĩnh vực, địa
bàn được nhà nước khuyến khích đầu tư theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; Chương trình tín dụng có mục tiêu của
nhà nước do Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính
sách xã hội hoặc tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện theo quyết
định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Chương 2: Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc
tế:
2.1. Tác động của phương thức phát hành trái phiếu quốc tế:
2.1.1.
Cân bằng bên trong và bên ngoài đối với nền kinh
tế của một nước:
2.1.1.1. Cân bằng bên trong (cân bằng giữa thị trường hàng
hóa và tiền tệ):
Khoản vay tiền từ trái phiếu sẽ được chính phủ chi tiêu vào nền
kinh tế. Khi chi tiêu của chính phủ tăng lên thì làm cho thu nhập
của toàn bộ nền kinh tế tăng lên vì khi đó năng lực sản xuất của
nền kinh tế tăng lên (nếu việc sử dụng vốn vay là có hiệu quả).
Hay nói một cách khác, nền kinh tế đã tăng trưởng lên một mức
mới. Khi đó, để đáp ứng với nhu cầu giao dịch hàng hóa trong nền
kinh tế thì lượng tiền trong lưu thông sẽ tăng lên. Và với một mức
lãi suất đã định, thị trường tiền tệ và thị trường hàng hoá trong nền
kinh tế gặp nhau tại một vị trí cân bằng mới. Điểm cân bằng mới
này nói lên sự tăng trưởng của nền kinh tế khi huy động nguồn vốn
từ bên ngoài thông qua hình thức phát hành trái phiếu quốc tế.
2.1.1.2. Cân bằng bên ngoài:
Khi chính phủ vay nợ bên ngoài bằng hình thức phát hành trái
phiếu quốc tế, thì luồng vốn vay này chảy vào nền kinh tế làm cho
cán cân vốn thặng dư. Để cán cân thanh toán cân bằng thì cán cân
vốn và cán cân vãng lai có mối quan hệ bù trừ cho nhau. Như
chúng ta đã biết, khi có một lượng vốn đổ vào nền kinh tế thì thu
nhập của nền kinh tế sẽ tăng lên (nếu như việc sử dụng vốn đó là
có hiệu quả). Khoảng tăng thu nhập này là lượng thu nhập cần thiết
để cán cân vãng lai thâm hụt một lượng chính bằng luồng vốn chảy
vào nền kinh tế, và khi đó cán cân thanh toán sẽ cân bằng. Hay nói
cách khác, luồng vốn quốc tế đổ vào nền kinh tế bằng hình thức
phát hành trái phiếu quốc tế sẽ đưa cán cân thanh toán đến một vị
trí cân bằng mới cao hơn so với điểm cân bằng cũ. Đây là vị trí nói
lên sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Cả hai vị trí cân bằng mới đối với cân bằng bên trong và cân bằng
bên ngoài chỉ đạt được khi việc sử dụng vốn mang lại hiệu quả.
Nếu như việc sử dụng nguồn vốn vay này là không có hiệu quả thì
khi đó áp lực trả nợ gia tăng, làm cho chính phủ phải cắt giảm chi
tiêu cho đầu tư. Sự cắt giảm này sẽ làm cho nền kinh tế trở nên trì
trệ hơn.
Hơn nữa, việc trả lãi sẽ làm cho cán cân vãng lai thâm hụt và việc
trả vốn làm cho cán cân vốn thâm hụt. Do đó, cán cân thanh toán
sẽ thâm hụt nhiều hơn mức thặng như ban đầu đạt được. Hay nói
cách khác, trong trường hợp này, nếu như điểm cân bằng mới đạt
được, thì vị trí cân bằng này sẽ thấp hơn vị trí cân bằng cũ. Và vì
vậy, nền kinh tế đã thụt lùi so với trước khi vay vốn bằng hình thức
phát hành trái phiếu quốc tế.
2.1.2.
Cung cầu ngoại tệ:
Trái phiếu khác với vay nợ. Trái phiếu đưa lên giao dịch thì luân
chuyển trong thị trường. Ông nào bỏ tiền ra mua trái phiếu ngày
hôm nay, ngày mai cần tiền thì bán đi. Chứ không phải cho vay.
Cho vay thì làm sao sang nợ được? Còn đây mua trái phiếu, ngày
mai nếu bí tiền thì bán đi, có người mua ngay lập tức. Bởi vì người
đó đang có nhu cầu đầu tư mà thấy lãi suất (trái phiếu) này hấp dẫn
hơn lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ. Hoặc giả sử muốn đa dạng hoá
danh mục đầu tư, mua trái phiếu vào...
Trái phiếu không phải là nợ mà là công cụ nợ, có thể mua bán,
sang nhượng. Tính thanh khoản khi niêm yết cao hơn hẳn việc vay
nợ.
2.1.3.
Ngưỡng an toàn của các khoản vay nợ nước
ngoài:
Lấy ví dụ như nước ta thì giá trị trái phiếu phát hành quá bé. Nước
ta vay hàng tỷ đôla, trái phiếu chỉ có mấy trăm triệu. Hơn nữa, vay
nợ để phục vụ kinh tế nói chung, còn trường hợp này là phát hành
trái phiếu phục vụ cho những dự án cụ thể có thu nhập bằng đôla.
Nên việc phát hành trái phiếu theo một vài chuyên gia thì không
ảnh hưởng đến ngưỡng an toàn của các khoản vay nước ngoài.
Tuy nhiên, huy động trái phiếu có nghĩa là chính phủ đi vay ở
nước ngoài. Đã đi vay thì phải trả mà còn phải trả với lãi suất cao.
Một khoản đi vay chỉ có thể trả được khi suất sinh lợi mà nó làm ra
tối thiểu phải bằng lãi suất đi vay.
Vấn đề đặt ra đầu tiên đối với khoản vay này là phải sử dụng một
cách hiệu quả. Có nghĩa là, việc sử dụng khoản vốn này không
được rơi vào vết xe đổ của các khoản vốn vay ODA khi đi vay chỉ
lãi suất tượng trưng một vài phần trăm năm, nhưng ta phải chịu
những ràng buộc để lãi suất thực phải trả cao hơn gấp nhiều
lần. Hoặc rơi tình trạng đầu tư lãng phí ngân sách hiện nay với một
tỷ lệ thất thoát không thể tính toán được .
Thế hệ này đi vay, thế hệ sau sẽ phải trả . Các khoản nợ chỉ có thể
trả được khi mà một nền tảng vững chắc được để lại. Nếu không
gánh nặng nợ nần cho thế hệ sau là rất khủng khiếp.
Nhìn vào biểu đồ trên, có thể thấy rằng, thị trường trái phiếu đóng
vai trò rất quan trọng. Điều này cho thấy, các nước trên thế giới
đều tận dụng tối đa nguồn vốn bên ngoài để đẩy mạnh việc phát
triển nền kinh tế nội địa.
Lý do chủ yếu tại sao các nước này lại tranh thủ nguồn vốn bên
ngoài để đẩy mạnh đầu tư phát triển nền kinh tế nội địa của mình ?
2.2. Ưu và nhược điểm của phương thức phát hành trái phiếu
quốc tế:
2.2.1.
Ưu điểm của việc phát hành trái phiếu :
2.2.1.1. Đối với tổ chức phát hành :
Huy động vốn đồng thời quảng bá được thương hiệu
trên thị trường quốc tế :
Phát hành trái phiếu quốc tế có thể giúp doanh nghiệp huy động
được lượng vốn lớn với kỳ hạn dài để tài trợ cho các nhu cầu
kinh doanh của mình. Ngoài ra, thông qua đó, doanh nghiệp có
thể quảng bá thương hiệu. ra thế giới. Bản thân doanh nghiệp
cũng trưởng thành và trở nên hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư nhờ
việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Có thể nói, một doanh
nghiệp được các nhà đầu tư quốc tế quan tâm sẽ dễ dàng thu hút
sự quan tâm của cộng đồng đầu tư.
Đồng tiền phát hành:
Trái phiếu quốc tế có thể được phát hành bằng nhiều loại tiền
khác nhau, nhưng hiện nay, trái phiếu được phát hành bằng
đồng USD là phổ biến nhất. Một phần là do đồng tiền có thể lưu
chuyển trong bất kỳ quốc gia nào, một phần là do tính ổn định
của nó.
Tuy nhiên, đồng tiền phát hành trái phiếu không chỉ được lựa
chọn bằng một loại duy nhất, mà có thể là một danh mục các
đồng tiền. Hơn nữa, thời hạn trái phiếu là quá dài để có thể chọn
ra một đồng tiền nào đó là an toàn, do đó việc chọn một danh
mục các đồng tiền có thể làm giảm thiểu rủi ro về sự tăng giảm
giá trị của một đồng tiền.
Quyền sử dụng vốn:
Tổ chức phát hành trái phiếu có toàn quyền trong việc sử dụng
vốn vay và không chịu sự ràng buộc nào từ phía các nhà đầu tư.
Đây là một ưu điểm vượt trội hơn so với việc phát hành cổ
phiếu. Nếu như các cổ đông có quyền tham gia vào các quyết
định định đầu tư cũng như cách thức sử dụng vốn, và đôi khi vì
mâu thuẫn trong lợi ích nhận được từ các quyết định đầu tư mà
các cổ đông sẽ ngăn cản, thậm chí bác bỏ các dự án đầu tư mặc
dù chúng sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty; thì ngược lại, các trái
chủ hoàn toàn đứng ngoài các quyết định này.
Quyền quyết định khối lượng và thời hạn của trái
phiếu:
Khối lượng vốn huy động và thời hạn của trái phiếu đều do tổ
chức phát hành quyết định. Điều này tỏ ra có hiệu quả tốt, nhất
là trong các trường hợp phát hành trái phiếu trung và dài hạn.
Chi phí:
Chi phí có thể thấp hơn nếu xét về lâu dài, khi đã có được sự tin
tưởng của thị trường thì càng về sau lãi suất huy động có thể
giảm. Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ là một phương
thức huy động vốn đơn thuần mà nó còn là một cách khẳng định
uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường vốn quốc tế.
Quan trọng hơn nữa, nếu như các khoản nợ và lãi vay được
thanh toán đúng hạn, cũng như vốn vay được sử dụng hiệu quả,
đem lại lợi nhuận cao cho công ty thì sẽ làm gia tăng uy tín và
kéo theo việc nâng bậc hệ số tín nhiệm, một chỉ số rất quan
trọng mà các nhà đầu tư thường tham khảo khi muốn đầu tư vào
một công ty. Một khi công ty được đánh giá cao thì lãi suất vay
cho những lần phát hành sau sẽ giảm hơn lần trước.
Không cần thế chấp :
Phát hành trái phiếu không đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm hay
thế chấp. Điều đó giúp các công ty chủ động hơn trong việc sử
dụng tài sản của mình trong kinh doanh.
Công cụ quản lý nợ quốc gia :
Đối với những nước có thị trường tài chính phát triển, ngân sách
nhà nước thặng dư, trái phiếu quốc tế còn đóng vai trò là công
cụ để thực hiện chính sách quản lý nợ quốc gia. Thông qua việc
phát hành mới trái phiếu ra thị trường quốc tế, chính phủ có thể
chủ động điều tiết danh mục tài sản nợ chính phủ để thực hiện
các chính sách tài chính tiền tệ.
2.2.1.2. Đối với nhà đầu tư :
Về phía các nhà đầu tư, khi mua các trái phiếu quốc tế họ cũng
thường tham khảo thêm chỉ số tín nhiệm của tổ chức phát hành
do các tổ chức có uy tín lâu năm xếp hạng. Để có thể đưa ra các
chỉ số này thì các tổ chức xếp hạng đã phải căn cứ vào rất nhiều
yếu tố quan trọng như tình hình tài chính, doanh số, các dự án…
của công ty. Điều đó có nghĩa là các tổ chức xếp hạng đã đảm
bảo một phần cho sự an toàn khi đầu tư vào trái phiếu của các tổ
chức đó.
2.2.2.
Nhược điểm của việc phát hành trái phiếu quốc tế
:
Bên cạnh những ưu điểm, thì việc phát hành trái phiếu quốc tế
vẫn có những nhược điểm sau đây :
2.2.2.1. Đối với tổ chức phát hành:
- Các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu quốc tế là chi phí
tư vấn, minh bạch hóa thông tin và đáp ứng các yêu cầu thủ tục
là không nhỏ. Ngoài ra, doanh nghiệp còn chịu rủi ro ngoại hối
do vay vốn bằng ngoại tệ trong khi tiền đồng có xu hướng giảm
giá. Nếu không có nguồn thu trong tương lai bằng ngoại tệ hoặc
thực hiện các công cụ bảo hiểm, doanh nghiệp có thể sẽ bị thua
lỗ do biến động tỉ giá.
- Phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế hoàn toàn không
phải là chuyện đơn giản chút nào. Các tổ chức phát hành phải
tuân thủ chặt chẽ các thông lệ quốc tế về trình tự, thủ tục phát
hành và cách thức thanh toán trái phiếu. Những thủ tục này
tương đối phức tạp, đòi hỏi phải được chuẩn bị chu đáo về cơ sở
pháp lý, kinh tế, các kỹ thuật nghiệp vụ phức tạp như lựa chọn
thị trường, loại tiền tệ, hình thức phát hành, lựa chọn người bảo
lãnh, đại lý thanh toán, tư vấn pháp lý. Tất cả các nghiệp vụ này
đều yêu cầu phải được tiến hành thận trọng bởi những chuyên
gia có kinh nghiệm.
- Trái phiếu quốc tế thường trung hoặc dài hạn mà những trái
phiếu càng dài hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào
các trái phiếu này các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt
với các rủi ro về khủng hoảng kinh tế, thay đổi lãi suất, tỷ giá
hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. Điều đó buộc
các tổ chức phát hành phải có những cam kết vay chặt chẽ với
những điều khoản khắt khe hơn để tạo lòng tin nơi các nhà đầu
tư.
- Để phát hành trái phiếu quốc tế buộc phải có sự xếp hạng tín
nhiệm của một công ty xếp hạng uy tín mà chi phí cho việc mời
công ty đó thường không rẻ và việc mời các công ty xếp hạng
thường là công ty nước ngoài sẽ cần nhiều thời gian để đưa ra
xếp hạng.
- Nguy cơ là chính phủ và các công ty trong nước sẽ trở nên phụ
thuộc quá nhiều vào các khoản vay nước ngoài, để né tránh
những quyết định khó khăn hơn nhưng cần thiết để củng cố hệ
thống tài chính trong nước. Nếu sử dụng các khoản vay này
không hiệu quả thì các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường vốn
quốc tế thì rủi ro phải trả một cái giá khá đắt cho những khoản
vay không mang lại mấy giá trị. Bên cạnh đó, ngay cả trong giai
đoạn thị trường thuận lợi thì nhà nước vẫn phải thận trọng trong
việc giữ nợ ở mức kiểm soát được để tránh những cú sốc chắc
chắn sẽ xảy ra trong tương lai.
- Lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế sẽ được quyết định theo
thị trường quốc tế và sẽ phản ánh mức chi phí vốn thực tế so với
các nước khác. Với chính sách kinh tế mở, hội nhập kinh tế
quốc tế sản phẩm hàng hóa quốc gia cần phải cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Lãi suất trái phiếu quốc tế sẽ phản ánh chi phí
vốn thực tế của quốc gia trên thị trường và sẽ giúp cho chính
phủ cũng như các công ty tính toán đầu tư vào các dự án có hiệu
quả, đảm bảo sản phẩm có thể cạnh tranh được trên thị trường.
Đây là một bước đi chiến lược đảm bảo tính hiệu quả và cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
- Lãi suất có thể cao hơn lãi suất danh nghĩa của các khoản vay ưu
đãi, tín dụng xuất nhập khẩu và vay qua ngân hàng nước ngoài.
Tuy nhiên theo dự đoán nguồn ODA sẽ giảm trong tương lai tín
dụng xuất nhập khẩu thường kèm theo các ràng buộc đẩy phí
vay lên cao, trong khi hệ thống ngân hàng không đủ đáp ứng
nhu cầu vốn trung dài hạn. Huy động vốn bằng phát hành trái
phiếu quốc tế sẽ đa dạng hóa các nguồn vốn vay, tạo kênh huy
động vốn trung dài hạn, nếu được quản lý thận trọng, hạn chế
được những ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh tài chính quốc gia,
hình thức huy động mới này sẽ tạo động lực thúc đẩy tiến trình
tự do hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phải xây dựng kế hoạch sử dụng có hiệu quả ngay tiền thu được
từ phát hành trái phiếu quốc tế: Với hình thức huy động vốn qua
thị trường trái phiếu quốc tế, một lượng vốn lớn sẽ được thu về
trong một thời gian ngắn, cho nên, cần có kế hoạch cụ thể để
giải ngân ngay cho đầu tư, tránh ứ động vốn sẽ làm tăng chi phí,
gây nên lãng phí trong đầu tư.
- Có kế hoạch cụ thể trong thanh toán nợ gốc và lãi trái phiếu khi
đáo hạn: Chính phủ cần phải có kế hoạch cân đối nguồn thu và
chuẩn bị nguồn ngoại tệ đủ để thanh toán lãi và vốn gốc khi đáo
hạn. Nếu việc thanh toán không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, và đến các đợt phát
hành tiếp sau.
2.2.2.2. Đối với nhà đầu tư :
Trái phiếu quốc tế thường trung hoặc dài hạn mà những trái
phiếu càng dài hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào
các trái phiếu này các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt
với các rủi ro về khủng hoảng kinh tế, thay đổi lãi suất, tỷ giá
hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành.
Từ những phân tich trên ta có thấy rằng phát hành trái phiếu
quốc tế có những khó khăn và thuận lợi nhất định, nếu như có
phương án phát hành và sử dụng vốn vay hợp lý thì việc làm
- Xem thêm -