TS. NGỌ VÃN NHẢN
t
TÁC ĐỘNG CÙA
D ư LUẬN XÃ HỘI
BÚ VỚI Ý THỨC PHÁP LUẬT
CÙA DỘI N6Ũ CÁN BỘ CẨP ca SỞ
■
•
NHÀ \ l ÂT BÁN CHÍNH TRỊ Ọl ( ) ( C I A - s ự THẬT
H \ NỘI - 2011
LÒI NHÀ XUẤT BẢN
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, xuất
hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Các giai cấp, tầng lớp
xã hội khác nhau có ý thức pháp luật khác nhau, trong đó ý thức
pháp luật giữ vai trò chủ đạo là ý thức pháp luật của giai cấp
cầm quyển. Nhưng trước khi có sự xuất hiện nhà nước và pháp
luật, cùng vối đó là ý thức pháp luật, thì những yếu tố tham gia
định hướng và điểu chỉnh ý thức, hành vi xả hội của con người
lại là dạo đức, phong tục, tập quán, truyền thống, tôn giáo, tín
ngưỡng... đặc biệt là dư luận xã hội.
Ngay từ thời xã hội nguyên thủy, dư luận xã hội đã từng
đóng vai trò điều hòa các môi quan hệ xã hội, định hướng hành
vi xả hội của con người. Dư luận xã hội là một hiện tượng đặc
biệt biểu thị sự phán xét, đánh giá, thái độ của các nhóm xá hội
dối với vấn để có liên quan đến lợi ích. Dư luận xả hội được hình
thành qua các cuộc trao đổi, thảo luận công khai. Dư luận xã hội
củng là một hiện tượng tinh thần nhưng gắn chật với thực tiễn
cuộc sống, xuất phát từ thực tiễn rồi tác động trở lại thực tiễn
đó. Dư luận xà hội vối tư cách là một hiện tượng xă hội đặc biệt
không tồn tại độc lập, mà nó tham gia, có mặt trong tất cả các
bộ phận, các thành phần của ý thức xã hội.
Dư luận xả hội có ý nghĩa là thước đo bầu không khí chính
trị, xã hội: là tấm gương phản hồi đưòng lối, chính sách, pháp luật
5
của Đáng và Nhà nước; phản ánh tám tư, tình cảm. nguyện
vọng của nhản dân; đánh giá năng lực. phấm chất của người
lành đạo; có thể dựa vào dư luận xà hội đê dự báo được những
diễn biến sắp tới của đời sổng xã hội: phát huy quyển làm chủ
tập thê của nhân dán, tảng cường môì quan hệ giữa chính quyển
và nhân dân. ngàn ngừa tệ quan liêu, xa ròi quần chúng,
V.V..
Cuôn sách T ác đ ộ n g c ủ a d ư lu ậ n x à h ộ i đ ố i với ỷ th ứ c
p h á p lu ậ t củ a đ ộ i n gụ c á n bộ c ấ p cơ sở phản tích, luận giãi
sự tác động của dư luận xã hội đôi VỚI ý thức pháp luật của đội
ngủ cán bộ cấp cơ sở ỏ nước ta hiện nay, chỉ ra thực trạng,
nguyên nhân của sự tác động này. Trên cơ sỏ đó. đê xuất một số
giải pháp phát huy tác động tích cực của dư luận xà hội trong
việc nâng cao ý thức pháp luật của đội ngủ cán bộ cấp cơ sở.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng ỉ ỉ năm 2011
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - s ự THẬT
6
LỜI NÓI ĐẨU
Dư luận xã hội là một hiện tượng thuộc lĩnh vực
tinh thần của đời sống xã hội, là một hiện tượng xả hội
đặc biệt, hiện diện ở tất cả các quổc gia, dần tộc khác
nhau trên thê giới. Trong bất kỳ xã hội nào, dư luận xã
hội cũng đều có ảnh hưởng nhất định đến các quá trình
chính trị - xã hội, đến việc lãnh đạo và quản lý xã hội;
tác động mạnh mẽ và quan trọng đến nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị,
văn hóa, đạo đức, pháp luật, giáo dục... Trong sô đó,
phải kế tới sự tác động không nhỏ của dư luận xã hội
đối với ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội nói
chung, của đội ngũ cán bộ cấp cơ sỏ nói riêng.
Có thể nói. ở nưốc ta hiện nay, xã hội chưa quen
với công tác nghiên cứu, điều tra, thăm dò dư luận xã
hội. Các cơ quan lãnh đạo các cấp cũng như mọi ngưòi
dân chưa có nhu cầu, thói quen công khai bày tỏ quan
điểm riêng, lắng nghe các ý kiến khác nhau. Tuy
nhiên, trong một xã hội đang vận hành mạnh mẽ theo
khuynh hướng dân chủ, công bằng, văn minh, các
quyền công dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm
7
thực hiện thì dư luận xã hội sẽ ngày càng có tác dộng
mạnh mẽ và đóng vai trò tích cực hơn đối với các chủ
trương, đường lối của Đảng và các quyết sách của Nhà
nưóc liên quan đến quốc kế, dân sinh. Cùng với sự vận
động, phát triển của dân chủ, dân trí và tiến bộ xã hội,
việc nghiên cứu dư luận xã hội, nghiên cứu sự tác động
của dư luận xã hội đối vỏi các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội sẽ ngày càng trở thành một nhu cầu
cấp thiết của xã hội.
Trong công cuộc đôi mới đất nưỏc, dưói sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đang tiến hành
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhán dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đả
khẩng định: “Nhà nưỏc ta là Nhà nước pháp quyền xả
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản iý
xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp
chê xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với
nhân dân, thực hiện đầy đủ quyển dân chủ của nhân dân,
8
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chê và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyển, xâm phạm quyển
dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tô
quốc và của nhân dân.
Tố chức và hoạt động của bộ máy nhà nưỏc theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân
cấp, đồng thời báo đảm sự chỉ đạo thống nhất của
Trung ương”1. Đế thực hiện thắng lợi mục tiêu này, một
trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải đưa
pháp luật vào đời sống xã hội ngay từ cơ sở, mà khâu
trung gian quan trọng là đội ngủ cán bộ, công chức cấp
cơ sỏ, phải xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho
đội ngũ cán bộ này. Cơ sơ khoa học và thực tiễn của vấn
đề trên thế hiện ở chỗ:
Một là, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sỏ là những
người thường xuyên tiếp xúc và trực tiếp giải quyết các
công việc liên quan tới nhu cầu, lợi ích của nhân dân, là
khâu chủ yếu thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chính
sách, pháp luật của Nhà nước muốn thực sự đi vào đời
sống xã hội cơ sở đều phải được triển khai thực hiện ở
cấp xã, phường, thị trấn. Vì vậy, cán bộ, công chức cấp
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biếu toàn
quốc lần thứX I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. tr. 85-86.
9
cơ sỏ cần phải được trang bị kiến thức, hiếu biết vê
pháp luật và có ý thức pháp luật cao đê giải quyết công
việc tại địa bàn tốt hơn.
Hai là, trình độ dân trí nói chung, dân trí vê pháp
luật nói riêng trong xã hội ta hiện nay ngày càng cao.
Điêu đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở cùng
phải có trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và ý thức
pháp luật ở trình độ cao mới đáp ứng được yêu cầu giải
quyết công việc chuyên môn.
Ba là, đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là những
người gần dân nhất, giải quyết các công việc liên quan
đến nhu cầu, lợi ích của dân dựa trên các nguyên tắc,
quy định của pháp luật; vì vậy, họ phải chịu sự tác động
và sức ép mạnh mẽ của dư luận xã hội trên địa bàn cơ
sở. Sự tác động của dư luận xã hội có thể gây ra những
phản ứng khác nhau từ phía cán bộ, công chức cấp cơ
sở, bao gồm những phản ứng tích cực và cả những phản
ứng tiêu cực.
Trong khi đó, ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở ở nước ta hiện nay còn chưa theo
kịp và chưa được nâng lên tương xứng với sự đôi mỏi hệ
thống pháp luật. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tê thị
trường, một số mặt trái của nó cũng đang bộc lộ, như
chủ nghĩa thực dụng, vị kỷ, tệ nạn xã hội... Một bộ phận
cán bộ, công chức cấp cơ sở thoái hoá, biến chất trước sự
cám dỗ của các lợi ích vật chất đã nhắm mắt làm liều, vi
phạm pháp luật. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã nhận định: “Tình trạng tham nhũng, suy
10
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sông ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đấng viên là rất nghiêm trọng.
Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máv của hệ thống
chính trị và trong nhiều tố chức kinh tê là một nguy cơ
lớn đe doạ sự sông còn của chê độ ta. Tình trạng lãng
phí, quan liêu còn khá phô biến”1. Đến Đại hội X, Đảng
ta tiếp tục nhấn mạnh: “Năng lực và phẩm chất của
nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không
nhỏ thoái hóa, biến chất. Dân chủ ở nhiêu nơi bị vi
phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu,
tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là
tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyển, thiếu trách nhiệm
của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ỏ các
cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp”2.
Đại hội XI của Đảng lại đặc biệt lưu ý: “Chất lượng đội
ngũ cán bộ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới của đất nước”3.
Thực trạng trên đây đã và đang gây nhiều khó
khăn cho công tác quản lý xã hội bàng pháp luật, ảnh
hưởng tiêu cực tới tiến trình xây dựng Nhà nưóc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tới công tác cải cách
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 76.
2. Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biêu toàn
quốc lần thứX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 175.
3. Dảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đại hội đại biêu toàn
quốc lấn thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia • Sự thật, Hà Nội, 2011,
tr .ll.
11
hành chính nhà nước, làm chậm trễ quá trình triển
khai và thực hành Quy chê dân chủ ơ cơ sở. Đặc biệt,
nó còn tạo ra những luồng dư luận xã hội bức xúc
trong các tầng lớp nhân dân, làm suy giảm niềm tin
của nhân dân đối với hiệu lực, hiệu quả hoạt động,
quản lý của bộ máy chính quyền cấp cơ sở. Một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên
là do ý thức pháp luật của một bộ phận đáng kê cán
bộ, công chức cấp cơ sở còn thấp, bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập. Do đó, trong việc củng cố, nâng cao trình độ
tri thức, hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật cho đội
ngủ cán bộ, công chức cấp cơ sở, ngoài việc áp dụng các
biện pháp có tính cưỡng chê đối vói những cá nhân có
hành vi phạm pháp, phạm tội theo quy định của pháp
luật; còn cần có nhiều giải pháp đồng bộ khác, như
giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, phát huy truyền
thống dân tộc, nâng cao trình độ văn hoá pháp lý, đặc
biệt là hình thành và phát triển ý thức pháp luật tích
cực trong đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, tạo cho họ thói quen
sống, làm việc theo pháp luật.
Có nhiều cách thức, cơ chế tác động tới ý thức pháp
luật của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở nưốc ta
hiện nay, trong đó có sự tác động của dư luận xã hội.
Được
* mệnh •danh là “búa rìu của xã hội”, •dư7luận xã
• hội •
có tác động mạnh mẽ tới ý thức pháp luật; qua đó, góp
phần nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp
cơ sỏ. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động mang ý
nghĩa tích cực, trong một sô trường hợp, dư luận xã hội
12
củng có thê có những tác động tiêu cực đối vổi ý thức
pháp luật của đội ngủ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn.
Vì thế, việc nghiên cứu và phân tích sự tác dộng của dư
luận xã hội đối vỏi ý thức pháp luật của đội ngù cán bộ
cấp cơ sơ sẽ phát huy những tác động tích cực của dư
luận xã hội tới ý thức pháp luật của họ, có thê khẳng
định, là một vấn đẻ có tầm quan trọng và mang tính
cấp bách; góp phần củng cố, xây dựng chính quyền cấp
cơ sở trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Nội dung cuốn sách góp phần làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc nghiên cứu, thăm dò dư luận xã
hội vê ý thức pháp luật của đội ngủ cán bộ cấp cơ sở.
Những kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng
dạv triết học, xã hội học và luật học trong chừng mực
những vấn để có liên quan đến dư luận xã hội và ý
thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Nó cũng
có ý nghĩa thực tiễn trong việc xây dựng các tiêu chí cụ
thê để đánh giá sự tác động của dư luận xã hội đối vỏi
ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ
sở, xây dựng các giái pháp phát huy tác động tích cực
của dư luận xã hội trong việc nâng cao ý thức pháp
luật của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ỏ nước ta
hiện nay.
Nhân dịp này, tốc giả xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới Hội đồng Khoa học Viện Triết học, Viện Khoa học
13
xã hội Việt Nam, bày tỏ lòng tri ân đối với PGS, TS.
Đặng Hữu Toàn, TS. Trần Thị Hồng Thúy đã có sự chỉ
dẫn tận tình, đóng góp ý kiến giúp tác giả hoàn thành
cuốn sách này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Tác giả
14
Chương một
DƯ LUẬN XÃ HỘI
I- KHÁI NIỆM, TÍNH CHẤT, CHỨC NĂNG
CỦA DƯ LUẬN XẢ HỘI
1. Khái niệm dư luận xã hội
1.1. Định nghĩa dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một dạng tồn tại đặc biệt của ý
thức xã hội, có thể hiện diện trong các hình thái ý
thức xã hội khác nhau. Mặc dù dựa trên nền tảng tinh
thần là ý thức xã hội và có sự tác động trở lại đối với ý
thức xã hội, song, dư luận xã hội không phải là một bộ
phận của ý thức xã hội, càng không phải là một hình
thái ý thức xã hội. Nó là một hiện tượng thuộc lĩnh
vực tinh thần của đòi sống xã hội, nảy sinh từ hiện
thực xã hội và mang bản chất xã hội. Từ trưốc đến
nay, vấn đê dư luận xã hội luôn thu hút được sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu và là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học, như triết học, xã hội
học, tâm lý học xã hội... Dư luận xã hội là một hiện
15
tượng xă hội phức tạp, do đó, khó có thế lột tả hết
được nội hàm của nó trong một sô dòng định nghĩa
ngán gọn. Chính vì vậy, về mặt lý luận, hầu như
không có một định nghĩa nào về dư luận xã hội được
tất cả mọi người đồng tình, chấp thuận.
Tính phức tạp của vấn để, trước hết, thể hiện ở việc
sử dụng thuật ngữ. Xung quanh việc sử dụng thuật ngữ
“dư luận xã hội” đang còn có những ý kiến khác nhau, ở
phương Tây, thuật ngữ xuất phát điểm được sử dụng là
thuật ngữ “public opinion”, thường được dịch sang tiếng
Việt là “công luận”. Thuật ngữ này thể hiện ý kiến của
công chúng, thường gắn liền với vai trò và sự can thiệp
tích cực của giới truyền thông vào quá trình hình
thành, uốn nắn ý kiến của công chúng; chẳng hạn,
thăm dò ý kiến cử tri trước các cuộc bầu cử. Bên cạnh
đó, ở phương Tây còn có thuật ngữ “social opinion”,
tiếng Việt dịch là “dư luận xã hội” vối ý nghĩa là ý kiến,
quan điểm chung của xã hội.
ở Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay, người
ta sử dụng tương đối phố biến thuật ngữ “oổmecTBeHHoe
MHeHHe” (obshestvennoe mnhenhie), trong đó, obshestvennoe
có nghĩa là xã hội, thuộc về xã hội; còn mnhenhie có
nghĩa là ý kiến, quan niệm. Thuật ngữ này được dịch
sang tiếng Việt là “dư luận xã hội”.
c. Mác đã gọi dư luận xã hội là “dư luận của nhân
dân”. Chẳng hạn, Mác cho rằng, cốc đại biểu nghị viện
“thường xuyên viện đến ý kiến của nhân dân, đang đem
16
lại cho ý kiến của nhân dân cái quyền nói lên ý kiến
thực sự của mình trong các thư thỉnh nguyện”1.
Năm 1980, trong cuốn sách Dư luận xã hội và công
tác tuyên truyền, bên cạnh việc thừa nhận khái niệm
“dư luận xã hội”, tác giả A.K. Ulêđốp còn đề nghị sử
dụng thêm thuật ngữ “dư luận của xã hội”. Thuật ngữ
này có nội hàm rộng hơn thuật ngữ “dư luận xã hội” vì
nó bao gồm “dư luận xã hội và các dư luận không phải
là dư luận xã hội”. Thực ra Ulêđổp muốn dùng khái
niệm này để phân biệt các cấp độ chủ thể của dư luận
xã hội, phân biệt dư luận của xã hội vối “dư luận của
một tập thể”, “dư luận của một nhóm xã hội” hay “dư
luận của một giai cấp”. Điều này cũng giống như V.I.
Lênin đã từng dùng khái niệm “dư luận xã hội của
những người lao động1'2.
Trong tiếng Việt, đôi khi trên các sách, báo, tạp chí
chúng ta còn bắt gặp thuật ngữ “dư luận”. Một số người
cho rằng dùng thuật ngữ “dư luận” ngắn gọn, đơn giản
mà vẫn đầy đủ; bởi lẽ, đã là dư luận thì nó chỉ có thể
hình thành, tồn tại và phát triển trong đòi sống xã hội
của con người, chứ không thể có cái gọi là “dư luận”
1.
c. Mác và Ph. Ảngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1993, t. 8, tr.201.
2. Dần theo A.K.Ulêđốp: Dư luận xả hội và công tác tuyên
truyền, Nxb. Tư tưởng, Mátxcơva, 1980 (Bản dịch tiếng Việt in
trong sách Nghiên cứu, sử dụng nà định hướng dư luận xã hội, Hà
Nội, 1999, tr. 95).
17
trong thế giới động vật được. Nói cách khác, bản thân
thuật ngữ “dư luận” đã bao hàm ý nghĩa xã hội trong đó
theo cách hiểu của ngưòi Việt Nam. Tuy nhiên, thuật
ngữ này sẽ gây khó khăn khi chúng ta dịch nó sang
tiếng nước ngoài vì trong đó không có sự xác định rõ
ràng về chủ thể của nó.
Từ thực trạng trên đây, chúng tôi cho rằng cần
thống nhất sử dụng khái niệm chuẩn là khái niệm “id ư
luận xã hội" trong nghiên cứu khoa học, vì nó là thuật
ngữ thông dụng trong hầu hết ngôn ngữ các nưốc; sử
dụng khái niệm “công luận” khi cần nhấn mạnh đến vai
trò của truyền thông đại chúng đối với quá trình hình
thành và phát triển của dư luận xã hội; sử dụng khái
niệm “dư luận” khi cần nhấn mạnh đến các cấp độ chủ
thể của dư luận xã hội, chẳng hạn, “dư luận của giai
cấp công nhân” hoặc “dư luận của người dân Hà Nội”.
Trở lại với vấn đề định nghĩa dư luận xã hội, có thể
thấy, trên các sách báo, tạp chí khoa học có khá nhiều
định nghĩa về dư luận xã hội đã được nêu ra. Trưỏc
hết, chúng ta xem xét một số định nghĩa theo trường
phái Nga.
B.K. Phađerin - nhà nghiên cứu dư luận xã hội người
Nga, đưa ra một định nghĩa như sau: “Dư luận xả hội là
tổng thể các ý kiên, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể
hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc
không bằng lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá
trình, hiện tượng, sự kiện đối với các thể chế, giai cấp xã
hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của các
18
nhóm xã hội lớn nhỏ đôi với các vấn đề của cuộc sống
xã hội có động chạm đến các lợi ích chung của họ”\ Còn
theo A.K. Ulêđốp dư luận xã hội là “sự phán xét thể
hiện sự đánh giá và thái độ của mọi người đối với các
hiện tượng của đời sống xã hội”2. Trong cuốn Từ điển xã
hội học tóm tắt xuất bản ở Mátxcơva năm 1989, các tác
giả đưa ra một định nghĩa khác: “Dư luận xã hội là
trạng thái ý thức của công chúng, hàm chứa trong đó
thái độ minh bạch hoặc ẩn giấu của các cộng đồng xã
hội khác nhau đối vởi những vấn đề, sự kiện và yếu tô
của hiện thực”3.
Từ các định nghĩa nêu trên, có thể thấy, trong quan
niệm của các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Nga
đều nhấn mạnh đến khía cạnh dư luận xã hội là sự
phán xét đánh giá của các nhóm xã hội và các cộng đồng
xã hội đối với các sự kiện, hiện tượng xã hội mà họ quan
tâm, là thái độ công khai, minh bạch hoặc ngấm ngầm,
che giấu trưóc một thực tế xã hội có liên quan đến lợi
ích chung.
Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Mỹ thường
sử dụng khái niệm “công luận” thay cho khái niệm dư
E.K. aaepHH, OõuịecmeeHHoe M H e H u e 8 pa38umoM
coụuanucmmecKOM oõuịecmee: cyuỊHocmb u 3QK0H cmaHo&AeHHM,
H 3A . Ka3ajibCKHH yHH B epcH TeT, 1980, ctp. 21 - 22.
2. A.K. y/ieaoB, OõuịecmeeHHoe M H e rn ie KQK npeỏMem
cou,uoAozimecKux uccnedoeaHuủ, Borrp. ^HiiocoỘHH, 1959, N°3, ctp. 47.
3 KpamKuủ CAoeapb no coụuoAoeuu /riofl. Oỗm. PeaaKUHeìí J\.
M. rBHHiHaHH/ H 3 fl. ncưiHT. JlHTepaTypa, MocKBa, 1989, ctp. 198.
1.
19
luận xã hội và củng nêu ra những định nghĩa tương tự.
Chẳng hạn, “công luận là sự phán xét đánh giá của các
cộng đồng xă hội đối với các vấn đề có tầm quan trọng
được hình thành sau khi có sự tranh luận công khai”
(Young, 1923); hoặc định nghĩa đơn giản hơn: “Công
luận là tập hợp ý kiên cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà
chúng ta có thể tìm được" (Childs, 1956)1. Trong bài viết
“Công luận là gì?” đăng trong Bách khoa toàn thư Mỹ,
năm 1967, tập 22, tác giả Paul B. Sheatsley đưa ra
quan điểm: “Nói một cách chung nhất, công luận gắn
liền với các phán xét đánh giá hoặc các nguyện vọng,...
công luận có thể xem xét như là các quan điểm của một
nhóm người xung quanh các vấn đề có liên quan đến lợi
ích chung”*.
Như vậy, các nhà nghiên cứu thuộc trường phái Nga
và trường phái Mỹ đều coi công luận (dư luận xã hội) là
các phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội, nhóm
xã hội trước những vấn đề liên quan đến lợi ích chung.
ở nước ta cũng đã có một số công trình nghiên cứu
về dư luận xã hội, trong đó các tác giả đều đưa ra định
nghĩa về dư luận xã hội. Theo Trung tâm Nghiên cứu
1. Xem Ban Tư tưởng • Văn hóa Trung ương - Trung tâm
Nghiên cứu dư luận xã hội: Nghiên cứu, sử dụng và định hướng dư
luận xã hội, Hà Nội, 1999, tr. 6.
2. Paul B. Sheatsley: “Công luận là g iĩ' in trong sách Bách khoa
toàn thư Mỹ, 1967, t. 22. (Bản dịch tiếng Việt in trong sách Nghiên
cứu, sử dụng và định hướng dư luận xả hội, Hà Nội, 1999, tr. 111).
20
dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương
(nay là Viện Nghiên cứu dư luận xã hội trực thuộc Ban
Tuyên giáo Trung ương): “Dư luận xã hội là tập hợp các
luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện
tượng có tính thời sự '1. Hoặc một định nghĩa khác: "Dư
luận xã hội là sự biểu hiện trạng thái ý thức xã hội của
một cộng đồng người nào đó, là sự phán xét, đánh giá
của đại đa số trong cộng đồng người đối với các sự kiện,
hiện tượng, quá trình xã hội có liên quan đến nhu cầu,
lợi ích của họ trong một thời điểm nhất định”2.
Có thể thấy rằng, trong hầu hết các định nghĩa được
nêu trên đây đều đề cập tới những nội dung chính của
khái niệm dư luận xã hội, bao gồm:
Thứ nhất, dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến,
quan điểm, thái độ có tính chất phán xét đánh giá của
các nhóm xã hội, các giai cấp, các cộng đồng người trước
một thực tế xã hội nhất định.
Thứ hai, sự phán xét đánh giá đó chỉ nảy sinh khi
trong xã hội có những vấn để xã hội, những sự kiện,
hiện tượng xã hội mang tính thời sự, có liên quan đến
lợi ích chung của các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội hay
của toàn xã hội nói chung.
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Trung tâm Nghiên cứu
dư luận xã hội: Nghiên cứu, sử dụng và định hưởng dư luận xã hội,
Hà Nội, 1999, tr. 6 - 7.
2. Lương Khắc Hiếu (Chủ biên): Dư luận xá hội trong sự nghiệp
đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr, 14.
21
Thứ ba, vấn đề, sự kiện xã hội mang tính thời sự đó
phải thu hút được sự quan tầm, chú ý của nhiều người,
của đa số các thành viên trong xã hội.
Kết hợp với vai trò, ý nghĩa thực tiễn của dư luận xã
hội, theo chúng tôi, có thể định nghĩa dư luận xã hội
như sau:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiên, thái độ có tính
chất phán xét đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã
hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có
liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm
của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định
hoặc hành động thực tiễn của họ.
Khi nghiên cứu dư luận xã hội cần chú ý phân biệt
dư luận xã hội với tin đồn. Tin đồn là một hiện tượng
tâm lý xã hội khác về bản chất so vói dư luận xã hội ở
chỗ, tin đồn không phải là sản phẩm của tư duy phán
xét của chủ thể mang nó.
Tin đồn chỉ là một
tin tức về một
sự• việc,
»
•
• / sự
• kiện,
• /
hay hiện tượng có thể có thật, không có thật hoặc chỉ có
một phần sự thật được lan truyền từ người này sang
người khác chủ yếu bằng con đường truyền miệng.
Ngoài con đường truyền miệng, trong xã hội hiện
đại, tin đồn còn có thể được phát tán qua các loại tờ rơi,
bằng điện thoại, tin nhắn SMS, email... Tin đồn có thể
xuất hiện từ một sự việc, sự kiện có thật, nhưng khi đi
qua lăng kính của chủ thể truyền tin thì nó bị méo mó,
sai lệch ít nhiều một cách có chủ ý; có thể xuất hiện từ
những tin tức hoàn toàn do tưởng tượng ra, được nhào
22
nặn sao cho hấp dẫn, lôi cuốn nhất. Tin đồn không phải
lúc nào cũng sai nhưng đó là dạng thông tin không
chính thức, chưa được kiểm chứng về tính trung thực và
do vậy, chủ thể của tin đồn thường không được xác định
một cách rõ ràng. Tin đồn thường là sự bịa đặt (phao
tin, đồn nhảm). Đặc điểm nổi bật của tin đồn là, trong
quá trình lan truyền từ ngưòi này sang người khác luôn
có sự thêu dệt, hư cấu, xuyên tạc hoặc tỉiổi phồng một
cách quá đáng. Tin đồn loang càng xa thì nội dung của
nó càng khác với nội dung lúc ban đầu tuỳ thuộc vào
mục đích và lợi ích của chủ thể truyền tin. Chính vì
vậy, tin đồn mang nặng màu sắc chủ quan, định kiến
của chủ thể truyền tin.
Dư luận xã hội, ngược lại, hình thành từ sự việc, sự
kiện, hiện tượng có thật thông qua quá trình trao đổi,
tranh luận để đi đến ý kiến chung, là sản phẩm của tư
duy phán xét của chủ thể mang nó. Dư luận xã hội thể
hiện quan điểm, thái độ của chủ thể trước các sự kiện,
hiện tương mà chủ thể đó quan tâm. Dư luận xã hội lúc
đầu có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau,
nhưng khi lan càng rộng thì càng có xu hướng thống
nhất vê nội dung phán xét hoặc tích tụ lại thành một
vài hướng cơ bản.
Tin đồn có thể chuyển hoá thành dư luận xã hội khi
trên cơ sỏ của tin đồn người ta đưa ra các phán xét
đánh giá bày tỏ ý kiến, thái độ của mình; khi thông tin
về sự kiện, hiện tượng mà tin đồn nêu lên được kiểm
chứng và các nhóm xã hội có thể được tiếp cận với
23
- Xem thêm -