Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Sưu tầm và biên soạn tài liệu dạy học lịch sử địa lí địa phương huyện thường xu...

Tài liệu Sưu tầm và biên soạn tài liệu dạy học lịch sử địa lí địa phương huyện thường xuân cho học sinh lớp 5 trường tiểu học thị trấn thường xuân

.PDF
23
68
61

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN TÀI LIỆU DẠY HỌC LỊCH SỬ - ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG HUYỆN THƯỜNG XUÂN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN THƯỜNG XUÂN Người thực hiện: Trịnh Ngọc Sơn Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường Tiểu học thị trấn Thường Xuân SKKN thuộc môn: Lịch sử và Địa lý THANH HOÁ NĂM 2018 Mục 1. 1.1 1.2 1.3 1.4 2. 2.1 2.2 2.3 2.3.1 2.3.2 1. 2. 3. 4. 5. 2.4 3 3.1 3.2 MỤC LỤC Nội dung Mở đầu Lý do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Nội dung của Đề tài Cơ sở lý luận Thực trạng trước khi áp dụng đề tài Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề Sưu tầm tài liệu Hướng dẫn dạy học Lịch sử - Địa lý địa phương Mục tiêu dạy học lịch sử - địa lý địa phương Nội dung dạy học lịch sử - địa lý địa phương Nguyên tắc dạy học lịch sử địa phương Phương pháp dạy học lịch sử -địa lý địa phương Tài liệu dạy học cho học sinh và giáo viên Hiệu quả của đề tài Kết luận – kiến nghị Kết luận Kiến nghị Trang 1 1 2 2 2 2 2 3 3 4 10 10 11 11 12 12 18 19 19 19 1. Mở đầu 1.1.Lý do chọn đề tài: Trong giáo dục phổ thông, các môn xã hội nói chung, môn Lịch sử nói riêng có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh và tư duy của con người. Bác Hồ kính yêu từng dạy “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Do vậy, dạy lịch sử không chỉ giúp học sinh nắm được lịch sử hình thành của một quốc gia, dân tộc mà còn hình thành ở các em lòng tự hào để từ đó các em thêm yêu quê hương, đất nước mình hơn. Đối với bậc Tiểu học môn lịch sử chưa phải là môn học riêng như các cấp học khác mà nó chỉ là một phần của môn Lịch sử và Địa lý lớp 4 – 5 vì vậy dung lượng, thời lượng dạy học chỉ có 1 tiết/tuần, mục tiêu chỉ nhằm giới thiệu các giai đoạn, các sự kiện lịch sử cho học sinh nắm bắt sơ bộ để học lên ở các bậc học sau này. “Có thể nói, lịch sử dân tộc hay lịch sử địa phương đều là dựng lại quá khứ về lòng yêu nước, về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước, ghi lại những nét văn hóa truyền thống, tinh thần nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển. Bởi qua mỗi bài học, mỗi sự kiện lịch sử, học sinh sẽ có thêm niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng. Từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, các em sẽ tự hào và ý thức hơn về tình yêu quê hương, đất nước. Qua đó, các em ra sức học tập, rèn luyện để trở thành những con người có ích góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”[3] “Địa phương có một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Đó là làng xã, thôn xóm, khu phố … những giá trị văn hóa và phong tục tập quán của quê hương gắn liền với mỗi một con người chúng ta. Đây là nơi các em được sinh ra và lớn lên vì thế các phong tục tập quán đã hằn sâu trong các em từ đó đã tạo nên nét khác biệt của con người ở mỗi vùng đất khác nhau.”[3] “Đặc biệt viêc cung cấp và giới thiệu cho các em về nguồn gốc hình thành nên vùng đất mà các em đang sinh sống sẽ có tác động to lớn và mạnh mẽ đến tâm lý, tình cảm của các em. Vì vậy việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương trong trường tiểu học là một phương thức dạy học gắn với đời sống xã hội, giúp cho học sinh nắm chắc về địa phương và vận dụng được vào thực tế cuộc sống đồng thời rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản, tạo hứng thú nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề của lịch sử quê hương, có ý thức bảo vệ tôn tạo các di tích lịch sử cũng như các giá trị văn hóa của quê hương đất nước.”[3] Trong những năm học gần đây, thực hiện chủ trương của Bộ GD&ĐT đưa chương trình giảng dạy lịch sử địa phương vào các nhà trường, Sở GD&ĐT Thanh Hóa đã biên soạn cuốn tài liệu dạy học lịch sử địa lý địa phương cho học sinh lớp 5 từ năm 2013-2014. Tài liệu đã giúp cho học sinh nắm bắt được các yếu tố địa lý, lịch sử, văn hóa … của tỉnh Thanh Hóa nói chung từ đó giúp các em học sinh tiểu học hiểu sâu hơn về quê hương mình. Trên thực tế làm công tác quản lý nhà trường, qua tìm hiểu tôi nhận thấy sau khi học các tiết học bằng bộ 1 tài liệu do Sở GD&ĐT biên soạn học sinh nắm chắc về các danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, vị trí địa lý của tỉnh Thanh Hóa. Nhưng khi hỏi về huyện Thường Xuân, về nơi các em sinh ra và đang sống các em không biết và chỉ trả lời chung chung, chưa biết được về lịch sử, vị trí, sự hình thành của quê hương mình. Chính vì lý do đó tôi rất trăn trở và suy nghĩ: làm sao để cho học sinh Thị trấn hiểu và biết được lịch sử hình thành nên vùng đất mình đang ở, các địa phương trong huyện, những di tích lịch sử văn hóa, các danh nhân của huyện nhà …Với những trăn trở đó tôi mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện đề tài “Sưu tầm tư liệu và biên soạn tài liệu giảng dạy Lịch sử, Địa lý địa phương huyện Thường Xuân cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân” nhằm bổ sung thêm kiến thức cho học sinh Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân bên cạnh bộ tài liệu đã có do Sở GD&ĐT biên soạn. 1.2.Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử địa phương tại nhà trường, trên cơ sở đó đề xuất nội dung dạy dọc lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học ở Trường Tiểu học Thị trấn, đồng thời đưa ra một số biện pháp dạy học lịch sử, địa lý địa phương cho học sinh tiểu học ở Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân nói riêng và trên địa bàn huyện nói chung. 1.3.Đối tượng nghiên cứu: Lịch sử hình thành và phát triển, vị trí của huyện Thường Xuân và Thị trấn Thường Xuân (những nét khái quát). Sưu tầm tài liệu và biên soạn lại thành một chỉnh thể thống nhất để dạy học cho học sinh khối lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. 1.4.Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu 2. Nội dung của Sáng kiến kinh nghiệm. 2.1.Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm: Chương trình môn Lịch sử - Địa lí bao gồm 2 phần là lịch sử và địa lí. Cấu trúc như vậy nhằm làm rõ đặc trưng của lịch sử và địa lí. Khi tiến hành bài học của chương trình này giáo viên cần tăng cường kết hợp nội dung gần nhau của hai phần có thể bằng nhiều cách. Bên cạnh những sự vật, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu phán ánh những thành tựu của dân tộc trong quá trình giữ nước chương trình còn tăng cường những nội dung về lịch sử kinh tế, lịch sử văn hóa. Chương trình địa lí tập trung hơn vào việc tìm hiểu về đất nước qua việc tăng cường thời lượng cho phần địa lí Việt Nam, còn phần địa lí các châu lục và châu đại dương trong chương trình chỉ lựa chọn những nội dung tiêu biểu qua từng châu lục và đại dương. Trong chương trình Lịch sử - Địa lý lớp 5 có 2 tiết dạy dành cho địa phương ( bài 29) gồm: tiết 31 và 32. Nội dung do các trường tự chọn, nhưng chủ yếu là giới thiệu về truyền thống tốt đẹp, các sự kiện lớn, các di tích lịch sử văn hóa, các sự kiện nhân vật lịch sử tiêu biểu của địa phương. Dạy và học lịch sử 2 địa phương về những làng, xã, thôn, bản, phố phường cụ thể, sẽ có tác dụng làm cho thầy trò có nhận thức cụ thể, sinh động về truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, sáng tạo, đoàn kết, vượt khó khăn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta. Dạy và học lịch sử, địa lý địa phương cần có hình ảnh, tư liệu minh họa thực tế giúp học sinh tiếp thu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng đề tài: Tôi nhận thấy đa số các giáo viên đều hiểu trách nhiệm và nghiên cứu, tổ chức cho học sinh sưu tầm tài liệu hiện vật. Nhằm góp phần xây dựng lịch sử địa phương. Đồng thời thường xuyên sử dụng tài liệu lịch sử, địa lý địa phương trong dạy học các bài học lịch sử dân tộc. Tuy nhiên vấn đề dạy học lịch sử địa phương chưa được thực hiện đồng bộ. Tùy theo sự phân công kế hoạch của nhà trường mà kết quả dạy học lịch sử địa phương của mỗi trường đều không giống nhau. Có những trường thực hiện tốt công tác lịch sử địa phương nhưng cũng có những trường chưa coi trọng vấn đề này. Vì vậy giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy. Có những trường không tiến hành bài giảng lịch sử địa phương. Vì vậy, nhiều học sinh khi được hỏi thì các em đều trả lời không biết, chưa hề được học tiết lịch sử địa phương. Sự quan tâm của các nhà trường chưa cao nên giáo viên không mấy hứng thú trong việc giảng dạy lịch sử địa phương. Vì vậy, số giáo viên chưa từng dạy tiết lịch sử địa phương nào còn nhiều. Có trường giáo viên cho học sinh nghỉ tiết lịch sử địa phương hoặc sử dụng giờ học này đề học những môn khác như toán, tiếng Việt … Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện ý nghĩa, tác dụng của việc dạy học lịch sử địa phương trong việc bồi dưỡng – giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Việc chỉ đạo đặc biệt là cung cấp tài liệu có những hạn chế, nên chưa phát huy đầy đủ những kiến thức đã học và năng lực bản thân trong công tác sưu tầm, nghiên cứu tài liệu lịch sử địa phương đề sử dụng trong dạy học. Ngoài hai nguyên nhân trên, những khó khăn trong đời sống của giáo viên, do ảnh hưởng, tác động của nền kinh tế - xã hội của đất nước, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, kinh phí của nhà trường cũng đã ảnh hưởng tới việc thực hiện chương trình lịch sử địa phương đã quy định. Ngoài ra, theo phân phối chương trình thì tiết dạy lịch sử địa phương như vậy là ít. Chúng ta biết rằng muốn cho học sinh hiểu rõ lịch sử địa phương thì tăng thêm tiết lịch sử địa phương. Có như vậy giáo vên mới có đủ thời gian giúp các em hiểu lịch sử địa phương mình sâu sắc. Thực tế cho thấy, sự hiểu biết của học sinh về lịch sử địa phương nói chung còn thấp, nhiều em khi được hỏi thì trả lời không biết lịch sử, vị trí của địa phương mình, hoặc còn hiểu sai và lơ mơ về vấn đề lịch sử địa phương. Vì vậy, tất cả các em đều mong muốn các thầy cô nên dạy tiết lịch sử - địa lý địa phương với hình thức nội khóa và ngoại khóa nhằm giúp các em hiểu rõ về lịch sử của địa phương mình. Điều đó đã chứng tỏ rằng, học sinh rất ham hiểu biết về lịch sử quê hương. 3 2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu lịch sử liên quan đến vùng đất Thường Xuân và Thị trấn Thường Xuân. Biên soạn thành tài liệu học tập trên cơ sở thời lượng tối thiểu của 1 tiết học ở tiểu học. Nội dung lịch sử, Địa lý địa phương cần dạy cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thị trấn Thường Xuân. 2.3.1. Sưu tầm tài liệu. A. Sơ lược lịch sử huyện Thường Xuân. 1) Vị trí địa lý: Thường Xuân là huyện miền núi, nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh Hóa. Cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 60 km theo Quốc lộ 47. Huyện nằm ở vị trí trí 190 đến 200 vĩ độ Bắc, 1040 đến 1050 kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Lang Chánh, Ngọc Lặc. Phía Tây giáp huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An và huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào (có 17 km đường biên giới Quốc gia). Phía Đông giáp huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn. Phía Nam giáp huyện Như Xuân và Như Thanh. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 111.380,8 ha. Địa hình của huyện thấp dần từ Tây Bắc và Tây xuống khu vực phía Đông và Nam. Có nhiều dãy núi như Chòm Vịn xã Bát Mọt cao 1.442m so với mặt nước biển. Địa hình bị chia cắt bởi các sông: Sông Khao, sông Chu, sông Đặt, sông Đằn. Có thể chia địa hình làm 3 vùng như sau: + Vùng cao gồm 4 xã: Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Chinh, Xuân Lẹ, có độ cao trung bình từ 500-700m. + Vùng giữa gồm 9 xã: Lương Sơn, Tân Thành, Xuân Thắng, Xuân Lộc, Vạn Xuân, Luận Khê, Xuân Cẩm, Luận Thành, Xuân Cao, có độ cao trung bình từ 150-200m. + Vùng thấp gồm 3 xã và 1 thị trấn: Ngọc Phụng, Thọ Thanh, Xuân Dương và Thị trấn Thường Xuân, có độ cao trung bình từ 50-150m.[1] 2) Quá trình hình thành. Lịch sử vùng đất, con người Thường Xuân gắn liền với tiến trình và truyền thống lịch sử của tỉnh Thanh Hóa, của dân tộc Việt Nam. Thường Xuân là một vùng đất cổ, đã qua quá trình hình thành và phát triển hàng ngàn năm lịch sử với các thời kì như sau: Thời thuộc Hán là vùng đất huyện Vô Biên, một phần ít thuộc huyện Cư Phong của quận Cửu Chân, một quận lớn thời kỳ đó. Thời Tam Quốc đến nhà Tuỳ thuộc huyện Di Phong. Thời Đường thuộc đất của huyện Trường Lâm. Thời Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như thời Đường. Thời Trần, Hồ và thời thuộc Minh gồm 2 phần thuộc các huyện: - Phần lớn thuộc huyện Nga Lạc (châu Thanh Hoá) - Một phần ít thuộc huyện Nông Cống (châu Cửu Chân). Thời Lê vẫn thuộc đất của huyện Nga Lạc và huyện Nông Cống. Thời nhà Nguyễn và Minh Mệnh thứ 16 (1835) nhập huyện Thọ Xuân cũ (gồm 2 tổng Mậu Lộc và Quân Nhân) vốn là đất của huyện Thường Xuân lệ vào châu Lang 4 Chánh. Huyện Thọ Xuân cũ (miền núi) mất tên (huyện Thọ Xuân cũ không phải là huyện Thọ Xuân bây giờ, lúc đó gọi là huyện Lôi Dương). Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), châu Thường Xuân (còn gọi là Châu Thường) ra đời. Năm Tự Đức thứ 3 (1850, Thường Xuân lúc này gồm 23 xã, chia làm 4 tổng: - Tổng Nhân Sơn gồm 4 xã: Bát Mọt, Yên Nhân, Sơn Cao (sau đổi là Xuân Khao), Nhân Trầm (gồm nữa xã Xuân Mỹ và nữa xã Xuân Khao) nằm ở phía Tây của huyện. - Tổng Trịnh Vạn có 4 xã: Trịnh Vạn (nay là Vạn Xuân), Lệ Khê (nay là Xuân Chinh và Xuân Lẹ), Mậu Lộc, Thắng Lộc (gồm xã Xuân Lộc, Thắng Lộc). - Tổng Luận Khê có 7 xã: Chu Hoành, Kỳ Pha, Trung Lập (nay là xã Tân Thành), Ngọc Trà, Yên Mỹ, Khê Hạ, La Lũ (nay là xã Luận Khê). - Tổng Quân Nhân gồm 4 xã: Ban Vân, Quân Nhân, Ban Công, Lâm Lư (4 xã này đã cắt về huyện Như Xuân năm 1949). Đến thời Đồng Khánh (1886 - 1888), châu Thường Xuân có một vài thay đổi nhỏ: Cả châu Thường Xuân có 4 tổng 26 xã: - Tổng Quân Nhân gồm 7 xã: Quân Nhân, Hương Cà, Bàn Cống, Phong Huân, Lâm Lư, Tri Giới và Ban Văn. - Tổng Trịnh Vạn gồm 4 xã: Trịnh Vạn, Mậu Lộc, Lệ Khê, Thọ Thắng. - Tổng Luận Khê gồm 7 xã: Kỳ Ban, Trung Lập, La Lũ, Chu Hoành, Khê Hạ, Yên Mỹ và Ngọc Trà. - Tổng Như Lăng gồm 8 xã: Quỳ Thanh, Tú Thịnh, An Cư, Bát Dân, Hữu Lễ, Cứ Đức, Thượng Cốc và Bát Vân. Sau cách mạng tháng Tám 1945, châu Thường Xuân đổi thành huyện Thường Xuân và giữ nguyên cho đến hôm nay. Đến trước năm 2005, Thường Xuân có 19 xã, 1 thị trấn. Sau 2005, để xây dựng công trình thuỷ lợi - thuỷ điện Cửa Đạt, đã di dời 3 xã: Xuân Mỹ, Xuân Khao, Xuân Liên và thôn Thắm xã Vạn Xuân đưa nhân dân đi định cư tại các vùng kinh tế mới ở trong và ngoài tỉnh.[1] 3) Khái quát về các xã, thị trấn trong huyện. Hiện nay, Thường Xuân có 16 xã, 1 thị trấn (gồm 143 thôn) cụ thể như sau: 1. Thị trấn Thường Xuân (có tên từ năm 1988), gồm các thôn cũ là: Ngọc Lâm, Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt gọi là các Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5. 2. Xã Bát Mọt (còn gọi là Bắt Mọt hay Bất Một, có tên từ thời Lê), gồm các tên hành chính (trước đây là bản): Hón, Ruộng, Khẹo, Chiềng, Cạn (Mót), Phống, Dưn, Đục, Vịn. 3. Xã Luận Thành (được thành lập năm 1983), gồm các thôn (xưa là làng, bản): Xuân Minh, Liên Thành và Thống Nhất (xưa là Khê Hạ), Tiến Hưng và Tiến Hưng 2 (xưa là bản Chượng), Sơn Cao (bản Poọng), Cao Tiến (bản Khoán), Thành Thắng (bản Than). 4. Xã Luận Khê (tên gọi có từ thời Nguyễn), gồm các thôn (xưa là làng, bản): Hún (bản Hôn), Tràng Cát, Buồng, Chiềng, Mơ, Yên Mỹ (bản Mọt), An 5 Nhân (gộp 2 bản An và Nhân), Thắm, Ngọc Trà (bản Muồng), Kha (bản Cả), Sông Đằn và Cửa Dụ (mới lập). 5. Xã Lương Sơn (tên gọi có sau năm 1945), xưa gồm 17 bản làng, nay sát nhập thành các thôn hành chính là: Ngọc Thượng, Minh Quang, Trung Thành, Lương Thiện, Lương Thịnh, Ngọc Sơn. 6. Xã Ngọc Phụng (tên gọi có sau năm 1945), gồm các thôn (xưa là các làng): Quyết Thắng, và Xuân Thành (làng Mé), Hưng Long (làng Ván), Xuân Liên (làng Tôm), Xuân Lập, Xuân Thắng, Hoà Lâm, Phú Vinh. 7. Xã Tân Thành (tên gọi có từ sau năm 1945), gồm các thôn (trước là bản): Thành Nàng (bản Nàng), Thành Lai (bản Lai), Thành Lãm (bản Lãm), Thành Lập (bản Lập), Thành Giỏ (bản Giỏ), Thành Hạ (bản Hạ), Thành Đon (bản Đon), Thành Lấm (bản Lấm), Thành Lợi (làng mới lập sau năm 1960, đồng bào huyện Thiệu Hoá lên định cư). 8. Xã Thọ Thanh (có tên từ sau năm 1945), gồm các thôn (trước là làng): Thanh Trung, Thanh Trung 2, Thanh Trung 3 (gồm làng Vực và làng Hạ cũ), Đông Xuân (làng Đông), Hồng Kỳ (làng Hồ), Thanh Cao (làng Đìn), Thanh Long (xưa là làng chài), Thanh Xuân và Thanh Sơn (tách từ Thanh Trung cũ). 9. Xã Vạn Xuân (thành lập năm 1963): gồm các thôn (xưa là bản): Công Thương (bản Tột), Bù Đồn, Lùm Nưa (gộp 2 bản Lùm và bản Nưa), Cang Khèn (gộp 2 bản Cỏ Pạo và bản Cảng), Ná Mén, Ná Cộng, Nhồng, Hanh Cáu (gộp 2 bản Hang va bản Cáu), Khằm, Quạn và thôn Thác Làng (mới lập). 10. Xã Xuân Cao (tên gọi có từ sau năm 1945), trước Cách mạng tháng Tám 1945 có các làng: Thé, Lù, Kha, Rạch; Nay gồm các thôn hành chính: Xuân Minh 1, và Xuân Minh 2, Xuân Thắng 1 và Xuân Thắng 2, Trung Thành, Nam Cao, Trung Tiến, Thành Công, Quyết Tiến. 11. Xã Xuân Cẩm (tên gọi có từ sau năm 1945), gồm các thôn (xưa là bản): Thanh Xuân (bản Mạ), Tiến Sơn 1 và Tiến Sơn 2 (bản Đòn), Trung Chính (bản Gắm), Xuân Quang (bản Quan), Xuân Minh (bản Láu). 12. Xã Xuân Chinh (thành lập năm 1963), gồm các thôn (xưa là bản): Cụt Ạc (gộp 2 bản Cụt và bản Ạc), Tú Tạo, Chinh, Thông, Hành, Xeo, Giang. 13. Xã Xuân Dương (tên gọi có sau năm 1945), gồm các thôn (xưa là bản): Thống Nhất 1, Thống Nhất 2, Thống Nhất 3 (làng Hún), Xuân Thịnh (làng Thịnh), Vụ Bản (làng Vò), Tân Lập (làng Suội), Tiến Long. 14. Xã Xuân Lẹ (thành lập năm 1963), gồm các thôn (xưa là bản): Liên Sơn (gộp 2 bản Bèn và Tùm Cũ), Đuông Bai (gộp 2 bản Đuông và bản Bai), Xuân Sơn (gộp 2 bản Cả và bản Soi), Xuân Ngù (bản Ngù), bản Tạn, Bọng Nàng (gộp 2 bản Bọng và bản Nàng), Lẹ Tà (gộp 2 bản Lẹ và bản Ná Tà), Cọc Chẽ (hay Cộc Chẽ, gộp 2 bản Cọc và bản Chẽ), Dài. 15. Xã Xuân Lộc (thành lập năm 1983), gồm các thôn (xưa là bản): Chiềng, Cộc, Vành, Quẻ, Pà-Cầu. 16. Xã Xuân Thắng (thành lập năm 1983), gồm các thôn (xưa là bản): Xương, Tú, Xem, Đót, Tân Thắng, Dín, Én, Tân Thọ. 17. Xã Yên Nhân (tên gọi có từ thời Nguyễn), gồm 6 thôn (xưa là bản): Khoong, Mỵ, Chiềng, Na Nghịu, Lửa, Mỏ. [1] 6 4) Dân cư và các dân tộc huyện Thường Xuân. Huyện Thường Xuân là mái nhà chung của các dân tộc anh em Thái, Mường, Kinh. Theo số liệu điều tra hiện nay, dân tộc Thái có 45.523 nhân khẩu, chiếm 53% dân số. Dân tộc Kinh có 37.192 nhân khẩu, chiếm 43,3% dân số. Dân tộc Mường có 3.178 nhân khẩu, chiếm 3,7% dân số. Từ xa xưa, nhân dân các dân tộc huyện Thường Xuân có truyền thống đoàn kết, chung lưng đấu cật khắc phục thiên tai, chống chọi thú dữ, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, sáng tạo những giá trị văn hóa cao đẹp. [1] 5) Điều kiện tự nhiên. Huyện Thường Xuân vừa có khí hậu vùng trung du, vừa có khí hậu vùng núi cao. Gió Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, gió mùa Đông Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm, đây là 2 hướng gió thịnh hành. Ngoài ra, vào mùa hè thỉnh thoảng còn có gió Tây Nam (gió Lào) khô nóng. Do địa hình cao, có hướng gió thịnh hành trên, nên khí hậu Thường Xuân mát mẻ, mưa nhiều (mát lạnh và mưa lớn nhất tỉnh). Nhiệt độ trung bình trong năm 22 250C, thấp nhất có thể xuống đến 00C - 30C (ở vùng Bát Mọt), cao nhất 400C 420C. Lượng mưa trung bình năm 2.200mm, có nơi như vùng Bù Rinh đạt 2.500mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 86%, độ ẩm thấp nhất thường từ tháng 12 đến tháng 01 năm sau (khô hanh) và tháng 5 - 9 (có gió Lào). Tổng lượng nước bốc hơi 778mm/năm, bốc hơi thấp nhất vào tháng 12 đến tháng 3 năm sau (600mm), bốc hơi nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 8 (900mm)... Nhìn chung, thời tiết, khí hậu Thường Xuân tương đối thuận lợi cho đời sống và sản xuất, đôi khi xảy ra giông bão, mưa đá, lũ quét, lũ ống. [1] 6) Sông ngòi và hệ thống đường giao thông. Thường Xuân là khu vực mưa nhiều nên có hệ thống sông suối dày đặc. Tổng chiều dài của hệ thống sông suối khoảng 1.000km, diện tích lưu vực 100km 2, tổng lượng dòng chảy 1.276.448 x 10 6 m3. Sông Chu (nặm Sắm) là con sông lớn nhất huyện, bắt nguồn từ Lào, qua đất Nghệ An, vào Thường Xuân được tiếp thêm nguồn nước từ các sông nhánh: sông Khao (Cao), sông Đặt, sông Đằn (Chàng), sông Âm... chảy về phía hạ lưu. Sông Chu và các chi lưu của nó trên đất Thường Xuân do phải luồn lách, cắt qua nhiều khối núi, vượt qua nhiều thác ghềnh để về xuôi nên tiềm năng thủy điện lớn, có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng các nhà máy thủy điện lớn nhỏ. Cũng chính vì thế, đầu thế kỷ XX người Pháp đã cho xây dựng đập Bái Thượng trên đoạn sông Chu đổ nước xuống đồng bằng (thác Vân Sam) đưa nước vào nông giang tưới tiêu cho một dải ruộng đồng rộng lớn tỉnh Thanh. Gần đây, công trình hồ Cửa Đặt được Chính phủ đầu tư xây dựng để điều tiết nguồn nước cung cấp cho sản xuất, sinh hoạt và kết hợp với phát điện lên lưới điện Quốc gia . Hệ thống đường giao thông liên tục được củng cố, mở rộng. Hiện nay 17/17 xã, thị trấn đều có đường ô tô, các tuyến đường trục chính của huyện, xã được rải nhựa; đường giao thông nông thôn, nội thị từng bước được nhựa hóa, bê tông hóa... giúp cho nhân dân đi lại, giao lưu thuận tiện. Đặc biệt, nhiều tuyến đường giao thông chiến lược được các cấp quan tâm, đầu tư nâng 7 cấp. Đường tỉnh lộ 507 nối với đường Quốc lộ Hồ Chí Minh, Quốc lộ 47, đường vành đai biên giới Việt - Lào… đặt huyện Thường Xuân vào vị trí giao lưu dễ dàng với các huyện, thị bạn trong tỉnh, đặc biệt là khu đô thị trẻ Ngọc Lặc, khu kinh tế động lực Lam Sơn - Thọ Xuân, Nghi Sơn - Tĩnh Gia; giao lưu với cả nước và quốc tế. [1] 7) Văn hóa và danh lam thắng cảnh. Do có nhiều dân tộc cùng chung sống nên văn hóa Thường Xuân là văn hóa giao thoa giữa văn hóa của 3 dân tộc Thái, Mường, Kinh. Dân tộc Thái có một kho tàng văn học, nghệ thuật mang tính đặc thù. Khặp (hát) Thái là những bài thơ, văn vần tự sáng tác để hát, ngâm vịnh có đệm đàn và múa là nghệ thuật độc đáo. Khặp Thái có nhiều loại như khặp một, khặp mo phục vụ nghi lễ; khặp giao duyên (báo sao) để nam nữ tâm tư tình cảm; khặp lóng Săm, lóng kéng Hum, kéng Mạ là những làn điệu hát xuôi bè trên dòng sông Chu. Múa Thái gọi là xòe, điệu xòe phổ biến nhất là nhảy sạp được đệm thêm tiếng khua luống, trống chiêng. Dân tộc Mường có đời sống tinh thần khá phong phú, đó là kho tàng truyện kể, cổ tích, ca dao, tục ngữ kể về nguồn gốc dân tộc, ca ngợi tinh thần đấu tranh chống thiên tai, đặc biệt là sử thi "Đẻ đất đẻ nước" lưu truyền từ đời này sang đời khác nhắc nhở con cháu ghi nhớ cội nguồn. Những bài hát dân ca như hát bọ mệnh, hát dặm, hát đúm, hát đối đáp, hát giao duyên; Người Mường có phong tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tổ chức lễ thượng điền, hạ điền, tổ chức ăn tết Nguyên tiêu; có lễ hội xéc bùa với dàn cồng chiêng do các cô gái Mường biểu diễn, lễ tục Pôồn Pôồng hát múa quanh cây hoa ước mong cuộc sống yên lành với tiếng trống chiêng, tiếng sáo ôi. Dân tộc Kinh ở Thường Xuân sinh sống chủ yếu bằng nghề cấy lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Làng của người Kinh ở các xã Xuân Dương, Thọ Thanh mang đặc điểm làng nông thôn xứ Thanh và Bắc Bộ: có cây đa, bến nước, sân đình; tất cả mọi sinh hoạt, hoạt động đều diễn ra trong làng. Tất cả các làng cổ ở xã Thọ Thanh, Xuân Dương đều có đình, đền, miếu; những ngày hội làng có ca công, múa hát (hát chèo, tuồng, hát giao duyên), tổ chức nhiều trò chơi vui vẻ. Một số làng còn gìn giữ được những phong tục đẹp, độc đáo như làng Hún (Xuân Dương) có lệ tục mừng vía cho ông bà, cha mẹ (cả khi đã chết) vào ngày cuối năm. Thổ âm của làng Hún cũng là hiện tượng hết sức độc đáo trong ngôn ngữ xứ Thanh. Cũng do địa hình rộng và điều kiện tự nhiên được thiên nhiên ban cho nên huyện Thường Xuân có rất nhiều di tích và danh lam thắng cảnh gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và truyền thống dựng nước và giữ nước của các dân tộc huyện Thường Xuân như di tích Hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc Phụng, đền thờ sĩ phu yêu nước Cầm Bá Thước, đền thờ Bà Chúa Thượng ngàn ở xã Xuân Cẩm và Xuân Mỹ nay thuộc xã Vạn Xuân. Thác Trai gái ở xã Xuân Lẹ, thác Thiên Thủy ở xã Vạn Xuân ... đắc biệt là khu du lịch sinh thái bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên cùng hồ Cửa Đặt đã tạo nên một chuỗi danh lam thắng cảnh góp phần đưa Thường Xuân trở thành một điểm du lịch trên bản đồ du lịch của tỉnh Thanh Hóa. [1] 8 8) Truyền thống đấu tranh cách mạng. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, mảnh đất Thường Xuân còn ghi lại dấu tích, dấu ấn văn hóa các cuộc khởi nghĩa gắn với con người, vùng đất Thường Xuân. Thế kỷ XV, Lê Lai, Lê Lợi đã tìm thấy ở Thường Xuân tiến có thế công, thoái có thế thủ và lòng nhân ái thương người vì nghĩa mà tụ họp hào kiệt bốn phương rèn binh, luyện tướng và tổ chức hội thề Lũng Nhai. Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, vua quan nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng dâng nước cho giặc. Nhưng ở Thường Xuân, đồng bào các dân tộc đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ chống Pháp của nhà ái quốc Cầm Bá Thước. Căn cứ Trịnh Vạn (thuộc thôn Bù Đồn, xã Vạn Xuân) đã cùng với di tích và chiến tích lịch sử phong trào Cần Vương trên đất Thanh Hóa như Hùng Lĩnh, Ba Đình... đi vào lịch sử dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, huyện Thường Xuân đã đóng góp sức người và của cải vật chất cho kháng chiến, những người con ưu tú của Thường Xuân đã tham gia chiến đấu trên các mặt trận, có nhiều người đã ngã xuống hi sinh xương máu để bảo vệ Tổ Quốc đã trở thanh những anh hùng liệt sĩ. Trong hai cuộc kháng chiến huyện có 3 xã và 5 người con ưu tú được phong tặng danh hiệu anh hùng đó là xã Xuân Dương, xã Thọ Thanh và xã Tân Thành. Trong kháng chiến chống Pháp có anh hùng Lò Văn Bường ở xã Xuân Lẹ, trong kháng chiến chống Mỹ có anh hùng Lê Thị Cửu ở xã Xuân Dương, anh hùng Hà Văn Thanh ở xã Lương Sơn, anh hùng Cầm Bá Trùng ở xã Luận Khê, trong chiến tranh bảo vệ Biên giới có anh hùng liệt sĩ Ngô Khắc Quyền ở xã Thọ Thanh và 14 bà mẹ liệt sỹ được nhà nước phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. [1] B. Vài nét về Thị trấn Thường Xuân. 1. Lịch sử hình thành: Thị trấn Thường Xuân được thành lập ngày 03/06/1988 theo quyết định của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ trên cơ sở địa giới hành chính của các xã Ngọc Phụng (thôn Hòa Lâm) và Xuân Dương (thôn Tân Long và một phần thôn Thống Nhất). Thời kì đầu mới thành lập Thị trấn có các thôn là: Ngọc Lâm, Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt dược đổi tên là các Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5.[1] 2. Vị trí địa lý: Thị trấn Thường Xuân nằm ở phía Đông của huyện Thường Xuân. Phía Bắc giáp xã Ngọc Phụng, phía Đông giáp xã Xuân Dương, phía Nam giáp xã Thọ Thanh, phía Tây giáp xã Xuân Cẩm. Quốc lộ 47 chạy xuyên suốt hết chiều dài của Thị trấn về phía tây bắc nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn, buôn bán.[2] 3. Điều kiện tự nhiên: Diện tích 2,73 km2 địa hình đồi núi thấp dần từ tây sang đông, điểm cao nhất của Thị trấn là đồi Chẹ nơi đặt trạm cung cấp nước sạch, điểm thấp nhất là khu vụng Vạo thuộc Khu phố 1. Khí hâu thị trấn thuộc kiểu khí hậu trung du 9 miền núi, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25 đến 28 0C, chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính là gió mùa đông bắc và gió phơn tây nam. Thị trấn Thường Xuân không có sông suối chảy qua mà chỉ có 2 hồ nhân tạo là hồ Ngọc Vàng ở khu phố 4 và hồ Bệnh Viện ở khu phố 2 làm nhiệm vụ điều hòa và tưới tiêu thủy lợi.[2] 4. Điều kiện xã hội: Thị trấn Thường Xuân là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện Thường Xuân nên là nơi đặt các cơ quan đầu não của huyện bao gồm các cơ quan hành chính như UBND huyện, huyện Ủy, Công an, Quân sự ... Dân cư bao gồm nhân dân từ nhiều nơi tụ họp về sinh sống, bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Thái, Mường trong đó dân tộc kinh chiếm hơn 90% dân số. Theo tổng điều tra dân số năm 1999 thì Thị trấn Thường Xuân có 4 968 người. Hiện nay dân số là 6 672 người (theo điều tra năm 2017). Nghề nghiệp của nhân dân phần lớn là buôn bán nhỏ và làm tiểu thủ công nghiệp, một phần là làm nghề nông nghiệp, trồng trọt và dịch vụ. Về văn hóa – y tế thì cả 3 trường học của 3 bậc học đều đạt chuẩn quốc gia, trạm Y tế đạt chuẩn quốc gia về Y tế. [2] 5. Truyền thống cách mạng: Mặc dù mới thành lập được 30 năm nhưng trên địa bàn thị trấn Thường Xuân còn lưu giữ các địa danh gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng dân tộc Lê Lợi như ngã ba Đồng Chó với t ruyền thuyết kể lại rằng, khi Lê Lai giả làm Lê Lợi, mặc áo vua để quân địch truy đuổi đã chạy về đây thì đàn chó của quân địch xồ đến, đường cùng, ông chạy trốn vào một gốc đa cổ thụ, lũ chó chạy đến thì bỗng đâu một con chồn trắng từ trong hốc đa chạy ra đánh lạc hướng, làm tất cả lũ chó đổ xô đuổi theo con chồn, vì vậy mà Lê Lai đã thoát được nanh vuốt của những con ác thú. Lại nói chuyện lũ giặc chạy đến, không tìm thấy ai chúng đã xộc thẳng kiếm vào trong hốc đa. Lê Lai đã nhịn đau không kêu mà lấy áo nắm chặt lưỡi kiếm để chúng tuốt ra không để lộ vết máu. Ngã ba có cây đa cổ thụ ấy sau này được Lê Lợi đặt cho cái tên ngã ba “Đồng Chó” là như vậy [2], ngôi đền thờ gần Bệnh viện huyện tương truyền là được lập nên để thờ chồn trắng đó. Trải qua hơn 600 năm lịch sử cây đa cánh đồng không còn nữa nhưng vẫn còn đó cái tên và ngôi đền gắn liền với thời gian (mặc dù ngày nay không ai gọi tên đó nữa và đã có một thời gian được đổi tên là ngã ba Đồng Mới). Trên đây là những nét khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của huyện Thường Xuân nói chung và Thị trấn Thường Xuân nói riêng. Là một người Thường Xuân, chúng ta cần phải quan tâm đến những tư liệu lịch sử về huyện nhà, chúng ta phải làm sao cho thế hệ hôm nay hiểu biết về lịch sử của địa phương mình, nơi mình sinh ra và lớn lên. Qua đó, giúp các em càng tự hào về quá khứ của cha ông ta. Họ đã hi sinh tất cả để giữ vững quê hương đất nước. từ đó các em luôn cố gắng phấn đấu trong học tập, trở thành người làm chủ đất nước trong tương lai và tiếp tục công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc cho cả hôm nay và mai sau. 10 2.3.2. Hướng dẫn thực hiện dạy học lịch sử - địa lý địa phương: 1. Mục tiêu dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học: a) Về kiến thức: Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản về: Học sinh biết được vị trí địa lí, quá trình hình thành và phát triển của huyện Thường Xuân. Quá trình hình thành và phát triển của huyện. Các em nắm rõ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử trong các giai đoạn. Tình hình kinh tế - chính trị văn hóa – xã hội trong các thời kì. Biết về những người anh hùng, những người có công trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm tiêu biểu. Biết về một số di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, một số truyền thống, phong tục tập quán, nét văn hóa của đất và người Thường Xuân. b) Về kĩ năng: Hình thành và rèn luyện cho các em một số kỹ năng: + Kỹ năng quan sát các sự vật hiện tượng và biết tìm kiếm các tư liệu lịch sử về địa phương mình thông qua nhiều cách khác nhau. + Các em biết phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá các sự kiện đã diễn ra. + Biết trình bày kết quả học tập, nghiên cứu của mình bằng lời nói, bài viết, lập bảng, biểu, sơ đồ,… + Biết gắn các sự kiện lịch sử địa phương vào tiến trình lịch sử dân tộc. Biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn, đời sống. c) Về thái độ: Thông qua việc tìm hiểu về lịch sử địa phương mình giúp học sinh từng bước phát triển thái độ, thói quen: + Ham học hỏi, tìm hiểu về lịch sử địa phương nơi mình sinh sống. Yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước. + Tôn trọng và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử tại địa phương mình. + Tích cực tham gia các hoạt động công ích xã hội ở địa phương. 2. Nội dung dạy học lịch sử địa phương: Nội dung dạy học lịch sử địa phương cho học sinh rất phong phú. Tài liệu trên đây là nguồn mở, giáo viên có thể phân loại các sự kiện diễn ra theo tiến trình lịch sử hoặc theo tính chất của các sự kiện lịch sử, đối với lịch sử của xã, thị trấn giáo viên có thể tìm hiểu thêm ở Lịch sử đảng bộ xã, thị trấn và huyện để đưa thêm tư liệu cho phong phú. 3. Nguyên tắc dạy học lịch sử địa phương: Việc lựa chọn tri thức lịch sử địa phương để xây dựng thành bài giảng là một yêu cầu được đặt ra cho giáo viên, bởi vì trong số hàng chục thậm chí hàng trăm sự kiện, hiện tượng lịch sử địa phương không phải cái nào chúng ta cũng đưa vào giảng dạy. Do vậy việc lựa chọn tri thức lịch sử địa phương để biên soạn thành bài giảng cần dựa vào những tiêu chí sau đây: Trước hết, sự kiện hiện tượng và cả nhân vật lịch sử địa phương được đưa vào giảng dạy phải là sự kiện hiện tượng và nhân vật tiêu biểu của địa phương. Cần phải chý ý đến tính toàn diện, hệ thống của một bài học lịch sử, dù đó là một bài học lịch sử địa phương. 11 Không làm cho bài giảng bị khô khan, chỉ còn cái sườn, rập khuôn thông sử một cách máy móc, mất đi tính hấp dẫn, sinh động, cụ thể, đặc thù của tiết học lịch sử địa phương. Trong quá trình giảng dạy một bài học lịch sử địa phương cần tuân thủ một số nguyên tắc chặt chẽ về lí luận dạy học: Đó là phải bảo đảm tính chất khoa học và tính chính xác cao của những thông tin được đưa thông báo. Phải đảm bảo đúng quy trình sư phạm của một tiết học, phù hợp với nhận thức, tâm lí của học sinh và những dự định sư phạn của nhà giáo dục. Phải đạt được mục tiêu giáo dục và giáo dưỡng của bài học. Bên cạnh những quy định trên, khi biên soạn một bài giảng lịch sử địa phương người giáo vên cần lưu ý những điều sau: Xác định vị trí của bài lịch sử địa phương trong quá trình cần đảm bảo tính thống nhất, liên hệ, bổ sung giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc. Đặc biệt đối tượng học sinh là tiểu học, chỉ cần nêu lên những mục tiêu vừa phải để học sinh tiếp cận tri thức lịch sử địa phương một cách dễ dàng. Về xây dựng nội dung và đề cương bài giảng lịch sử địa phương nó cũng tuân thủ chặt chẽ về mặt thời gian, cần lựa chọn nội dung thật khoa học tránh lan man theo lối kể chuyện lịch sử địa phương. Xác định rõ hình thức bài nội khóa trên lớp hay giảng dạy tại thực địa, các phương pháp và cách dạy học cụ thể của từng bài, tìm cách đổi mới phương pháp giảng dạy và tạo hứng thú cho học sinh học tập. Giáo án của một bài học lịch sử địa phương cũng như những môn học khác, tức là nêu rõ các bước chủ yếu, công việc của thầy và trò, vắn tắt nội dung, phương pháp của công việc nhằm đạt được mục đích yêu cầu đặt ra. Chú ý phát huy tính tích cực hoạt động, học tập của học sinh, khêu gợi ý thức say mê hiểu biết địa phương, tham gia sưu tầm tư liệu lịch sử địa phương. [5] 4. Phương pháp dạy học lịch sử địa phương. - Phương pháp kể chuyện lịch sử: Kể lại diễn biến sự kiện, hoạt động của nhân vật lịch sử… - Phương pháp quan sát: tranh ảnh, hiện vật, bản đồ, sơ đồ… - Phương pháp vấn đáp: đưa ra hệ thống câu hỏi cho học sinh nhằm tái hiện các kiến thức lịch sử, các sự kiện lịch sử, … - Phương pháp thảo luận nhóm: Thảo luận các câu hỏi như ý nghĩa lịch sử của sự kiện, vai trò của các nhân vật lịch sử… - Phương pháp đóng vai: Đóng vai các nhân vật lịch sử - Phương pháp điều tra: Điều tra, sưu tầm các tư liệu, mẩu chuyện lịch sử. - Phương pháp trò chơi lịch sử: trò chơi ô chữ, đánh trận giả,…[5] 5. Minh họa: Tài liệu dạy – học cho Giáo viên và học sinh. [7] THƯỜNG XUÂN – VÙNG ĐẤT “ĐỊA LINH, NHÂN KIỆT” A – Phần Địa lý: Tự nhiên và dân cư 1. Vị trí địa lý và các đơn vị hành chính: Thường Xuân là huyện miền núi, nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh Hóa. Cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 60 km theo Quốc lộ 47. Phía Bắc giáp 12 huyện Lang Chánh, Ngọc Lặc. Phía Tây giáp huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An và huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào. Phía Đông giáp huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn. Phía Nam giáp huyện Như Xuân và Như Thanh. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 111.380,8 ha. Trước năm 2005, Thường Xuân có 19 xã, 1 thị trấn. Sau 2005, để xây dựng công trình thuỷ lợi - thuỷ điện Cửa Đạt, đã di dời 3 xã: Xuân Mỹ, Xuân Khao, Xuân Liên đưa nhân dân đi định cư tại các vùng kinh tế mới ở trong và ngoài tỉnh. Hiện nay, Thường Xuân có 16 xã, 1 thị trấn gồm: Bát Mọt, Yên Nhân, Lương Sơn, Xuân Chinh, Xuân Lẹ, Vạn Xuân, Xuân Lộc, Xuân Thắng, Tân Thành, Luận Khê, Luận Thành, Xuân Cao, Xuân Cẩm, Ngọc Phụng, Thọ Thanh, Xuân Dương và thị trấn Thường Xuân. - Em hãy nêu vị trí của huyện Thường Xuân? - Hiện nay huyện Thường Xuân có bao nhiêu xã, thị trấn? em hãy nêu tên các xã, thị trấn? - Huyện Thường Xuân tiếp giáp với những huyện, tỉnh và nước nào? 2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên: Địa hình của huyện chủ yếu là núi và đồi, xen kẽ giữa là các thung lũng thấp như thung lũng Lương Sơn, Vạn Xuân và thấp dần từ Tây Bắc và Tây xuống khu vực phía Đông và Nam, nơi cao nhất tại Chòm Vịn xã Bát Mọt là 1.442m so với mặt nước biển. Nơi thấp nhất là thôn Xuân Thịnh xã Xuân Dương. Do địa hình đồi núi nên đất đai chủ yếu là đất đỏ vàng chiếm diện tích nhiều nhất sau đó đến các loại đất khác và một ít đất phù sa ven sông Chu, sông Âm. Khí hậu thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Có mùa đông lạnh do gió mùa đông bắc, mùa hè nóng do (gió Lào). Địa hình cao, có hướng gió thịnh hành trên, nên khí hậu Thường Xuân tương đối mát mẻ, mưa nhiều (mát lạnh và mưa lớn nhất tỉnh). Nhiệt độ trung bình trong năm 22 - 250C, thấp nhất có thể xuống đến 00C - 30C (ở vùng Bát Mọt), cao nhất 40 0C - 420C. Lượng mưa trung bình năm 2.200mm, có nơi như vùng Bù Rinh đạt 2.500mm. Nhìn chung, thời 13 tiết, khí hậu Thường Xuân tương đối thuận lợi cho đời sống và sản xuất, nhưng đôi khi xảy ra giông bão, mưa đá, lũ quét, lũ ống. Thường Xuân có hệ thống sông suối dày đặc. Tổng chiều dài của hệ thống sông suối khoảng 1.000km, trong đó Sông Chu (nặm Sắm) là con sông lớn nhất huyện, bắt nguồn từ Lào, sông Khao (Cao) bắt nguồn từ xã Bát Mọt, sông Đặt bắt nguồn từ Xuân Chinh, Xuân Lẹ, sông Đằn (Chàng) bắt nguồn từ Xuân Thắng, sông Âm bắt nguồn từ Lang Chánh ... Sông Chu có nhiều thác ghềnh nên tiềm năng thủy điện lớn. Đầu thế kỷ XX người Pháp đã xây dựng đập Bái Thượng trên sông Chu đưa nước vào nông giang tưới tiêu cho một dải ruộng đồng rộng lớn tỉnh Thanh. Gần đây, công trình hồ Cửa Đặt được Chính phủ đầu tư xây dựng để trữ nước cho sản xuất, sinh hoạt và kết hợp với phát điện . Đập Bái Thượng trên sông Chu Hệ thống đường giao thông được nối liền các xã, thị trấn và có đường ô tô vào đến trung tâm xã, các tuyến đường đã được rải nhựa, đường giao thông nông thôn, nội thị được nhựa hóa, bê tông hóa... giúp cho nhân dân đi lại, giao lưu thuận tiện. Đặc biệt, nhiều tuyến đường giao thông chiến lược được đầu tư nâng cấp. Đường tỉnh lộ 507 nối với đường Quốc lộ Hồ Chí Minh, Quốc lộ 47, đường vành đai biên giới Việt - Lào… đặt huyện Thường Xuân vào vị trí giao lưu dễ dàng với các huyện, thị bạn trong tỉnh, đặc biệt là khu đô thị trẻ Ngọc Lặc, khu kinh tế động lực Lam Sơn - Thọ Xuân, Nghi Sơn Tĩnh Gia; cảng hàng không Thọ Xuân tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu trong nước và quốc tế. - Hãy nêu các điều kiện tự nhiên của huyện Thường Xuân? Huyện Thường Xuân có bao nhiêu con sông? Hồ Cửa Đặt nằm trên con sông nào? Hãy nêu đặc điểm của hệ thống giao thông huyện Thường Xuân? B- Phần Lịch sử 1. Thường Xuân – Vùng đất “Địa linh, nhân kiêt”. Lịch sử vùng đất, con người Thường Xuân gắn liền với tiến trình và truyền thống lịch sử của tỉnh Thanh Hóa, của dân tộc Việt Nam. Thường Xuân là một vùng đất cổ, đã qua quá trình hình thành và phát triển hàng ngàn năm lịch sử với các thời kì như sau: Thời thuộc Hán là vùng đất huyện Vô Biên. Thời Tam Quốc đến nhà Tuỳ thuộc huyện Di Phong. Thời Đường thuộc đất của huyện Trường Lâm. Thời Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như thời Đường. Thời Trần, Hồ và thời thuộc Minh gồm 2 14 phần thuộc các huyện huyện Nga Lạc (châu Thanh Hoá),huyện Nông Cống (châu Cửu Chân). Thời Lê vẫn thuộc đất của huyện Nga Lạc và huyện Nông Cống. Thời nhà Nguyễn (1835) thuộc châu Lang Múa quanh cây hoa (cây nêu) kết hợp biểu diễn cồng chiêng, khua luống của phụ nữ bản Lùm Nưa. Chánh. Năm (1837), châu Thường Xuân (còn gọi là Châu Thường) ra đời. Sau cách mạng tháng Tám 1945, châu Thường Xuân đổi thành huyện Thường Xuân và giữ nguyên cho đến hôm nay. Huyện Thường Xuân có 3 dân tộc cùng chung sống là Thái, Mường, Kinh. Dân tộc Thái chiếm 53% dân số, dân tộc Kinh chiếm 43,3% dân số dân tộc Mường chiếm 3,7% dân số. Từ xa xưa, nhân dân các dân tộc huyện Thường Xuân có truyền thống đoàn kết, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, sáng tạo những giá trị văn hóa cao đẹp. - Huyện Thường Xuân thành lập năm nào? - Khi thành lập đến nay Thường Xuân có những tên gọi như thế nào? - Em hãy nêu đặc điểm dân cư huyện Thường Xuân ? 2. Văn hóa truyền thống danh nhân và các danh lam thắng cảnh: Văn hóa Thường Xuân là văn hóa giao thoa giữa văn hóa của 3 dân tộc Thái, Mường, Kinh. Dân tộc Thái với Khặp (hát) Thái là những bài thơ, văn vần tự sáng tác để hát, ngâm vịnh có đệm đàn và múa là nghệ thuật độc đáo. Múa Thái gọi là xòe, điệu xòe phổ biến nhất là nhảy sạp được đệm thêm tiếng khua luống, trống chiêng. Lễ hội Nàng Han ở xã Vạn Xuân là một trong những lễ hội truyền thống của người Thái Thường Xuân. Dân tộc Mường có kho tàng truyện kể, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là sử thi "Đẻ đất đẻ nước" nhắc nhở con cháu ghi nhớ cội nguồn. Các bài dân ca như hát bọ mệnh, hát dặm, hát đúm, hát đối đáp, hát giao duyên; phong tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tổ chức lễ thượng điền, hạ điền, tết Nguyên tiêu, lễ hội xéc bùa, lễ hội Pôồn Pôồng hát múa quanh cây hoa ước mong cuộc sống yên lành. Dân tộc Kinh ở Thường Xuân sinh sống chủ yếu bằng nghề cấy lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Làng của người Kinh ở các xã Xuân Dương, Thọ Thanh mang đặc điểm làng nông thôn xứ Thanh và Bắc Bộ: có cây đa, bến nước, sân đình. Các làng Thọ Thanh, Xuân Dương đều có đình, đền, miếu; những ngày hội làng có hát chèo, tuồng, hát giao duyên, tổ chức trò chơi. Làng Hún (Xuân Dương) có lệ tục mừng vía cho ông bà, cha mẹ (cả khi đã chết) vào ngày đầu năm mới. Thổ âm của làng Hún cũng là hiện tượng hết sức độc đáo trong ngôn ngữ xứ Thanh. 15 Thường Xuân có rất nhiều di tích và danh thắng gắn với truyền thống dựng nước và giữ nước của các dân tộc như Hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc Phụng, đền thờ sĩ phu yêu nước Cầm Bá Thước, đền thờ Bà Chúa Thượng ngàn ở xã Xuân Cẩm và Xuân Mỹ nay thuộc xã Vạn Xuân. Thác Trai gái ở xã Xuân Lẹ, thác Thiên Thủy ở xã Vạn Xuân ... khu du lịch sinh thái bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên cùng hồ Cửa Đặt đã tạo nên một chuỗi Dâng hương đầu xuân tại di tích Hội thể danh lam thắng cảnh góp phần đưa Lũng Nhai Thường Xuân trở thành một điểm du lịch trên bản đồ du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Khu đền thờ Cửa Đặt Đất Thường Xuân còn ghi lại dấu tích, dấu ấn văn hóa các cuộc khởi nghĩa gắn với con người, vùng đất Thường Xuân. Thế kỷ XV, Lê Lai, Lê Lợi tổ chức hội thề Lũng Nhai. Thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, ở Thường Xuân, đồng bào các dân tộc đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ chống Pháp của nhà ái quốc Cầm Bá Thước. Căn cứ Trịnh Vạn (thuộc thôn Bù Đồn, xã Vạn Xuân) đi vào lịch sử dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, huyện Thường Xuân đã đóng góp sức người và của cải vật chất cho kháng chiến, có 3 xã và 5 người con ưu tú của huyện được phong tặng danh hiệu anh hùng đó là xã Xuân Dương, xã Thọ Thanh và xã Tân Thành. Anh hùng Lò Văn Bường ở xã Xuân Lẹ, anh hùng Lê Thị Cửu ở xã Xuân Dương, anh hùng Hà Văn Thanh ở xã Lương Sơn, anh hùng Cầm Bá Trùng ở xã Luận Khê, anh hùng liệt sĩ Ngô Khắc Quyền ở xã Thọ Thanh và 14 bà mẹ liệt sỹ được nhà nước phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. - Anh hùng Lò Văn Bường Các dân tộc ở Thường Xuân có những nét văn hóa như thế nào? Hãy kể tên một số di tích lịch sử và danh nhân anh hùng ở Thường Xuân? 16 C- Thị trấn Thường Xuân – Trung tâm Văn hóa – Kinh tế - Chính trị của huyện Thường Xuân. Thị trấn Thường Xuân thành lập ngày 03/06/1988 trên cơ sở một phần đất và dân số của các xã Ngọc Phụng và Xuân Dương. Thời kì đầu có các thôn là: Ngọc Lâm, Đồng Tâm, Đồng Lực, Quyết Thắng, Tân Long; nay lần lượt dược đổi tên là các Khu phố 1, Khu phố 2, Khu phố 3, Khu phố 4, Khu phố 5. Thị trấn Thường Xuân nằm ở phía Đông của huyện Thường Xuân. Phía Bắc giáp xã Ngọc Phụng, phía Đông giáp xã Xuân Dương, phía Nam giáp xã Thọ Thanh, phía Tây giáp xã Xuân Cẩm. Quốc lộ 47 chạy xuyên suốt hết chiều dài về phía tây bắc nên tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn, buôn bán. Diện tích 2,73 km2 địa hình thấp dần từ tây sang đông, điểm cao nhất của là đồi Chẹ, điểm thấp nhất là khu vụng Vạo thuộc Khu phố 1. Khí hâu thuộc kiểu khí hậu trung du miền núi, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 25 đến 28 0C. Thị trấn Thường Xuân không có sông suối chảy qua mà chỉ có 2 hồ nhân tạo là hồ Ngọc Vàng ở khu phố 4 và hồ Bệnh Viện ở khu phố 2 làm nhiệm vụ điều hòa và tưới tiêu thủy lợi. Thị trấn Thường Xuân là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của huyện nên là nơi đặt các cơ quan như UBND huyện, huyện Ủy, Công an, Quân sự … Dân cư của bao gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Thái, Mường trong đó dân tộc kinh chiếm hơn 90% dân số. Hiện nay dân số là 6 672 người (theo điều tra năm 2017). Nghề nghiệp của nhân dân phần lớn là buôn bán nhỏ và làm tiểu thủ công nghiệp, một phần là làm nghề nông nghiệp, trồng trọt và dịch vụ. Về văn hóa – y tế thì cả 3 trường học của 3 bậc học đều đạt chuẩn quốc gia, trạm Y tế đạt chuẩn quốc gia về Y tế. Trên địa bàn Thị trấn Thường Xuân còn lưu giữ các địa danh gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của anh hùng dân tộc Lê Lợi như ngã ba Đồng Chó với truyền thuyết kể lại rằng, khi Lê Lai giả làm Lê Lợi, mặc áo vua để quân địch truy đuổi đã chạy về đây thì đàn chó của quân địch xồ đến, đường cùng, ông chạy trốn vào một gốc đa cổ thụ, lũ chó chạy đến thì bỗng đâu một con chồn trắng từ trong hốc đa chạy ra đánh lạc hướng, làm tất cả lũ chó đổ xô đuổi theo con chồn, vì vậy mà Lê Lai đã thoát được nanh vuốt của những con ác thú. Lại nói chuyện lũ giặc chạy đến, không tìm thấy ai chúng đã xộc thẳng kiếm vào trong hốc đa. Lê Lai đã nhịn đau không kêu mà lấy áo nắm chặt lưỡi kiếm để chúng tuốt ra không để lộ vết máu. Ngã ba có cây đa cổ thụ ấy sau này được Lê Lợi đặt cho cái tên ngã ba “Đồng Chó” là như vậy, ngôi đền thờ gần Bệnh viện huyện tương truyền là được lập nên để thờ chồn trắng đó. Trải qua hơn 600 năm lịch sử cây đa cánh đồng không còn nữa nhưng vẫn còn đó cái tên và ngôi đền gắn liền với thời gian (mặc dù ngày nay không ai gọi tên đó nữa và đã có một thời gian được đổi tên là ngã ba Đồng Mới). - Em hãy cho biết Thị trấn Thường Xuân thành lập năm nào và tiếp giáp với những xã nào? - Em hãy nêu một số đặc điểm tự nhiên của Thị trấn? Thị trấn Thường Xuân có mấy dân tộc, dân tộc nào có số dân đông nhất? 17 2.4. Hiệu quả của đề tài: Thực tế áp dụng tại trường trong những năm học trước khi chưa biên soạn thành tài liệu, tôi nhận thấy học sinh rất có hứng thú khi được học về quê hương mình, huyện mình, nơi mình sinh ra qua đó tôi nhận thấy: Dạy dọc lịch sử dân tộc nói chung, dạy học lịch sử - địa lý địa phương nói riêng có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Nó là hình ảnh thiết thực trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát tiển tư duy cho học sinh. Thứ nhất, giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương trong nhà trường làm chiếc cầu nối giữa nhà trường, học sinh, với đời sống xã hội, giữa quá khứ, hiện tại với tương lai. Thứ hai, dạy học lịch sử - địa lý địa phương trong trường tiểu học là một phương tiện quan trọng để nâng cao chất lượng kiến thức, hình thành thế giới quan khoa học và giáo dục cho học sinh lòng yêu đất nước, quê hương, góp phần cung cấp thêm một nguồn tri thức mới cho các em học sinh. Đồng thời cũng góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, lòng nhiệt tình say mê môn học. Thứ ba, giảng dạy lịch sử - địa lý địa phương đóng vai trò quan trọng để phát triển tư duy cho học sinh. Giúp cho học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm lịch sử - địa lý chung và riêng, nhận thức được các hình thái kinh tế xã hội qua từng giai đoạn phát triển của lịch sử… Ngoài ra, nó còn giúp cho học sinh nắm vững hơn nữa những khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống: “Tự nhiên – con người – xã hội”. Thấy được vai trò của con người tác động đến việc cải tạo và chinh phục tự nhiên một cách hợp quy luật, không phải là tàn phá thiên nhiên. Thứ tư, dạy học lịch sử địa phương nhằm góp phần vào việc bồi dưỡng tình cảm, trách nhiệm đối với quê hương. Thứ năm, dạy học lịch sử - địa lý địa phương là hình thành cho thế hệ trẻ lòng yêu quê hương đất nước. Thông qua nguồn tri thức giúp cho học sinh hiểu sâu sắc hơn về lịch sử - địa lý tại địa phương mình. Từ đó, học sinh sẽ hình thành, kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của cha ông. Thứ sáu, việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương có tác dụng tích cực trong việc rèn luyện khả năng thực hành cho học sinh cùng với các môn học khác và các hoạt động khác của nhà trường, gắn nhà trường với đời sống xã hội. [6] Với những ý nghĩa trên, giúp cho giáo viên và học sinh thấy rõ tầm quan trọng của việc dạy học lịch sử - địa lý địa phương. Chỉ khi chúng ta hiểu biết được về quê hương thì mới có cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu, dạy học lịch sử địa phương cần được quan tâm hơn nữa. Có như vậy mới thật sự làm cho tiết học thêm phong phú và sinh động. Học sinh mới cảm thấy hứng thú khi học tập lịch sử dân tộc nói chung, của địa phương nói riêng, mới thật sự không bị lãng quên, ngày càng làm cho nhiều người nghiên cứu và tìm hiểu. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan