®¹i häc quèc gia Hµ Néi
khoa kinh tÕ
---------------------
Lª ThÞ Th¶o
LuËn v ¨n th ¹c s Ü kin h t Õ c hÝ nh tr Þ
Hµ Néi - n¨m 2005
®¹i häc quèc gia Hµ Néi
khoa kinh tÕ
---------------------
Lª ThÞ Th¶o
Sù ph¸t triÓn cña khu vùc kinh tÕ t- nh©n
d- íi t¸c ®éng cña luËt doanh nghiÖp
Chuyªn ngµnh
: Kinh tÕ ChÝnh trÞ
M· sè
: 5.02.01
LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ
Ng- êi h- íng dÉn khoa häc: PGS. TS TrÇn §×nh Thiªn
Hµ Néi - n¨m 2005
MỤC LỤC
Phần mở đầu ....................................................................................
1
Chƣơng 1: Khu vực kinh tế tƣ nhân và nền kinh tế chuyển đổi
5
1.1. Bản chất của kinh tế tư nhân ............................................
6
1.2. Đặc điểm sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ............................................
17
1.3. Điều kiện tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế chuyển đổi ...................................................
27
Chƣơng 2: Thực trạng của khu vực kinh tế tƣ nhân đƣới tác động
của Luật Doanh nghiệp ................................................
38
2.1. Vài nét về khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời kỳ
kế hoạch hóa tập trung ...................................................
38
2.2. Sự tái lập và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong
thời kỳ đổi mới từ 1986 đến 2000 ...................................
42
2.3. Ban hành Luật Doanh nghiệp - một yêu cầu cấp bách .......
50
2.4. Tiến triển của khu vực kinh tế tư nhân dưới tác động của
Luật Doanh nghiệp ........................................................
63
Chƣơng 3: Kiến nghị, giải pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của
Luật Doanh nghiệp ......................................................
87
3.1. Vị trí và xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ..........................................................
87
3.2. Kiến nghị, giải pháp tiếp tục phát huy tác dụng của Luật
Doanh nghiệp ................................................................
109
Kết luận............................................................................................
119
1
Tài liệu tham khảo ..........................................................................
121
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt nam hiện nay đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp là cần thiết, song các doanh nghiệp phải được đặt trong môi
trường cạnh tranh bình đẳng với một khung pháp lý đồng bộ và thống nhất.
Bước vào công cuộc đổi mới, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư
nhân được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 21/12/1990 và được Quốc hội
khóa IX sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 1994.
Sự ra đời của hai đạo luật trên có ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội to
lớn. Nó khẳng định quan điểm nhất quán, không phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, động viên được các nguồn lực
đầu tư và tạo công ăn việc làm cho đông đảo người lao động trong thời gian
vừa qua.
Tuy nhiên, sau một số năm thực hiện, cùng với đà chuyển biến nhanh
sang hệ thống kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập, các đạo luật đó đã bộc lộ
những hạn chế: thủ tục thành lập công ty quá phiền hà, Luật Công ty năm
1990 còn thiếu quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý công ty;
mặt khác, vẫn còn sự đối xử bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp nhà nước: chẳng hạn như việc không thừa nhận tư cách pháp
nhân của các doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp tư nhân dễ bị hình sự hoá
các quan hệ dân sự nếu chẳng may họ vay vốn ngân hàng hoặc những chủ nợ
khác mà chưa trả được nợ... doanh nghiệp tư nhân luôn bị lép vế trong quan
hệ với các cơ quan công quyền...
Không ít nhà kinh doanh vì những lý do trên mà ngại chọn loại hình
doanh nghiệp tư nhân để đầu tư. Rõ ràng điều đó đã làm giảm tính hấp dẫn
3
của các đạo luật trên, gây tác động kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng.
Với trình độ phát triển mới của hệ thống doanh nghiệp nước ta, khung
khổ pháp lý cũ không còn phù hợp. Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 4
(khóa VIII) đã nhận thấy cần “sửa đổi bổ sung các văn bản pháp quy về loại
hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, xây dựng luật thống nhất, áp
dụng cho các loại chủ thể kinh doanh”.
Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 12/6/1999, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội (khóa
X) đã thông qua Luật Doanh nghiệp, trên cơ sở hợp nhất sửa đổi bổ sung Luật
Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân.
Việc ban hành Luật Doanh nghiệp đã góp phần tạo khung khổ pháp lý
đồng bộ, phù hợp với tình hình phát triển mới, hạn chế các hiện tượng tiêu
cực, gây phiền hà quan liêu, tạo điều kiện thông thoáng, hấp dẫn và yên tâm
cho các nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy khai thác nội lực cho sự nghiệp CNHHĐH và tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế.
Sau 5 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp (kể từ ngày có hiệu lực
1/1/2000). Luật Doanh nghiệp đã có những tác động nhất định đến quá trình
cải cách kinh tế của đất nước, đặc biệt đối với khu vực kinh tế tư nhân. Có thể
nói Luật Doanh nghiệp đã “thổi luồng sinh khí mới vào môi trường kinh
doanh”, đã khơi dậy và thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tinh thần tự
lập nghiệp trong các tầng lớp nhân dân; khuyến khích sáng tạo và tự chủ trong
kinh doanh, làm cho cộng đồng doanh nghiệp tự tin hơn trong hoạt động đầu
tư và kinh doanh; tăng thêm sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối và chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thi hành Luật Doanh nghiệp gặp không ít khó khăn và
tồn đọng. Ví dụ một số văn bản cần thiết hướng dẫn thi hành Luật chưa được
ban hành. Nhiều văn bản luật đã được ban hành nhưng nội dung chưa phù
4
hợp, việc xoá bỏ hệ thống giấy phép “xin - cho” gặp nhiều trở ngại ...
Điều đó cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, làm chậm
bước tiến của quá trình hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và hệ
thống thể chế kinh tế thị trường đồng bộ.
Để hiểu rõ những thay đổi của khu vực kinh tế tư nhân từ khi áp dụng
Luật Doanh nghiệp tôi chọn nghiên cứu đề tài: Sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân dưới tác động của Luật Doanh nghiệp.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
- Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài: Luật Doanh nghiệp ở Việt nam
được ban hành và có hiệu lực từ 1/1/2000 nên còn khá mới mẻ, tuy nhiên
chính những tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp đã khiến Tổ chức phát
triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), Ngân hàng Thế Giới (WB) và các nhà tài
trợ khác đánh giá Luật Doanh nghiệp là điểm sáng trong thực hiện cải cách
thể chế một cách có hiệu quả, cần được nhân rộng không chỉ ở nước ta mà
còn ở các nước đang phát triển khác.
- Tình hình nghiên cứu trong nước: Viết về sự phát triển của khu vực
KTTN, từ năm 1986 cho đến nay đã có nhiều bài báo, tham luận khoa học,
các công trình nghiên cứu...
Cụ thể như:
- Đào Thị Phương Liên (1995): “ Sự phát triển của KTTN trong giai
đoạn chuyển nền kinh tế Việt nam sang kinh tế thị trường”, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân, Hà nội.
- Nguyễn Huy Oánh (2001): “Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế Việt nam”, Nghiên cứu kinh tế, (12), tr. 45-55.
- GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền (2002): “Thành phần kinh tế tư bản tư
nhân trong quá trình CNH-HĐH”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
- TS Hà Huy Thành (2002: “Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và tư
5
bản tư nhân”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
- Nguyễn Minh Thảo (2003) : “Kinh tế tư nhân ở Việt nam - thực trạng
và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học quốc gia, Hà nội.
Các công trình nói trên đã nghiên cứu kinh tế tư nhân ở nhiều góc độ
khác nhau: Phát triển khu vực kinh tế tư nhân; quan điểm về sự phát triển
KTTN; các giải pháp cụ thể về môi trường, thể chế chính sách nhằm phát
triển KTTN trong phạm vi cả nước.
Từ khi có Luật Doanh nghiệp (1/1/2000) hoạt động của khu vực KTTN
trở nên cực kỳ sôi động. Viết về tác động của Luật công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân nay là Luật Doanh nghiệp đối với khu vực kinh tế tư nhân
cũng đã có một số tác giả như: Trần Văn Thông, Phạm Hồng Vân, Xuân
Dũng... các tác giả đề cập đến vấn đề thực hiện Luật Công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân, nay là Luật Doanh nghiệp (LDN) ở những năm trước (2001,
2002, 2003) nhưng chủ yếu chỉ đề cập đến vấn đề đó dưới góc độ là những
chyên đề mang tính thời sự, chưa đủ mức hệ thống và khái quát ...
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
* Mục đích:
Luận văn tập trung đánh giá sự phát triển của khu vực KTTN dưới tác
động của LDN, phát hiện các vấn đề còn tồn đọng và đang đặt ra, trên cơ sở
đó đưa ra một số quan điểm định hướng tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật
Doanh nghiệp trong việc tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh
nghiệp.
* Nhiệm vụ:
- Để có thể đánh giá được sự phát triển của khu vực KTTN dưới tác
động của LDN luận văn tập trung phân tích thực trạng hoạt động của khu vực
kinh tế tư nhân Việt nam trước và sau khi ban hành Luật Doanh nghiệp và
một số vấn đề về việc thi hành Luật Doanh nghiệp trong thời gian từ
6
1/1/2000-2004.
- Luận văn đưa ra một số quan điểm định hướng, kiến nghị một số giải
pháp tiếp tục phát huy hiệu lực của Luật Doanh nghiệp trong giai đoạn tới.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: Sự phát triển của khu vực KTTN dưới tác
động của Luật Doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung đánh giá sự phát triển của
khu vực KTTN dưới tác động của LDN giai đoạn 2000-2004.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận văn sử dụng phương pháp lô gích lịch sử, phép duy vật biện
chứng, phương pháp thống kê, điều tra, phân tích tổng hợp, kết hợp mô hình
hóa...
6. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN:
Đánh giá vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường nói chung và nền kinh tế chuyển đổi.
Đánh giá vai trò của khu vực KTTN dưới tác động của LDN giai đọan
2000-2004.
Đánh giá những mặt được và chưa được trong việc thực hiện LDN
trong thời gian từ 2000-2004.
Một số quan điểm định hướng, kiến nghị giải pháp tiếp tục phát huy
hiệu lực của Luật Doanh nghiệp trong việc tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng cho các doanh nghiệp.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được sắp xếp thành 3 chương 10 tiết :
Chương 1. Khu vực kinh tế tư nhân và nền kinh tế chuyển đổi.
Chương 2. Thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân dưới tác động của
Luật Doanh nghiệp.
7
Chương 3. Kiến nghị giải pháp tiếp tục phát huy phát huy hiệu lực của
Luật Doanh nghiệp.
CHƢƠNG 1
KHU VỰC KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI
Kinh tế tư nhân (KTTN) là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của
nền kinh tế đất nước và ngày càng tỏ rõ sự năng động cũng như tính hiệu quả
hoạt động của mình trong nền kinh tế thị trường. Bảo hộ về pháp lý, tôn trọng
các lợi ích hợp pháp và tạo mọi điều kiện cho hoạt động kinh doanh và phát
triển khu vực kinh tế tư nhân trong khuôn khổ luật pháp quy định, đã đang và
sẽ vẫn là xu hướng lớn, chi phối nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống kinh
tế - xã hội ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
Với những quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, quá trình chuyển từ
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường gắn liền với việc đưa
khu vực kinh tế tư nhân thay thế dần khu vực kinh tế nhà nước. Nói cách
khác, kinh tế thị trường của các nước chuyển đổi dựa vào khu vực kinh tế tư
nhân, xem kinh tế tư nhân như là tiền đề của sự phát triển. Tuy nhiên trong
quá trình thực hiện cải cách nền kinh tế, không phải quốc gia nào ngay từ đầu
cũng đã nhận thức được đúng bản chất của kinh tế tư nhân và vai trò của nó
đối với sự phát triển toàn bộ nền kinh tế. Từ đó đã không tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát huy hết những khả năng vốn có
của nó, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất phát từ tình hình nói trên, việc luận chứng để làm rõ bản chất, vị
trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế thị trường nói
chung và chỉ ra những điều kiện cần thiết để kinh tế tư nhân có thể tồn tại và
phát triển trong nền kinh tế chuyển đổi, được chúng tôi coi là nhiệm vụ đầu
tiên trong công trình nghiên cứu này.
8
1.1. Bản chất của kinh tế tƣ nhân
1.1.1. Nguồn gốc hình thành và đặc điểm phát triển của KTTN
1.1.1.1. Sự hình thành kinh tế tư nhân là kết quả tất yếu của sự phát triển lực
lượng sản xuất (LLSX)
Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của LLSX còn thấp kém, đời
sống còn hết sức khó khăn thiếu thốn, muốn tồn tại con người phải gắn chặt
cuộc sống của mình với tập thể, với thị tộc và bộ lạc. Trong xã hội đó mọi tư
liệu sản xuất (TLSX), mọi thành quả lao động đều thuộc quyền sở hữu của tập
thể, mọi người cùng làm chung, hưởng chung. Ở đây không hề có ý niệm về
quyền tư hữu, về “cái tôi” của mình và cũng chưa hề xảy ra tình cảnh áp bức
bóc lột. Cuộc sống như vậy đã diễn ra hàng vạn, hàng chục vạn năm.
Nguyên nhân sâu xa của những bước tiến hết sức chậm chạp trong xã
hội nguyên thuỷ bắt nguồn từ việc công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá chậm
được cải tiến. Nhưng sau đó với việc xuất hiện công cụ sản xuất bằng đồng và
sắt, thì nhân loại đã có những bước tiến dài, nhảy vọt đầy ý nghĩa.
Sự xuất hiện công cụ đồng, sắt làm cho nông nghiệp phát triển nhanh
chóng và sau đó được triển khai trên quy mô lớn - nền nông nghiệp dùng cày
đã ra đời. Đặc biệt nó đã làm xuất hiện và đẩy mạnh nền sản xuất thủ công,
làm hàng loạt ngành nghề mới ra đời và phát triển.
Sự ra đời của công cụ đồng, sắt cũng góp phần làm hình thành các bộ
lạc chuyên nghiệp hoá, dẫn đến những sự phân công lao động lớn trong xã
hội.
Từ thời kỳ còn phổ biến công cụ đá - đồng, một số bộ lạc từ kinh tế
nông nghiệp chuyển hẳn sang hình thức chăn nuôi, dẫn đến sự phân công lớn
đầu tiên trong lịch sử - ngành chăn nuôi tách khỏi ngành trồng trọt. Sang thời
kỳ đồ sắt lại diễn ra sự phân công lao động lớn tiếp theo giữa nông nghiệp và
thủ công nghiệp. Việc thủ công nghiệp được tách ra khỏi nông nghiệp, ngày
9
càng chuyên môn hoá, đã làm cho của cải xã hội tăng lên nhanh chóng. Từ đó
việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc chăn nuôi, nông nghiệp và thủ công
nghiệp trở nên thường xuyên và đều đặn. Đến đây nền sản xuất hàng hoá ra
đời và cùng với nó là sự ra đời của tầng lớp xã hội mới - tầng lớp thương
nhân. Như vậy thương nghiệp cũng đã được chuyên nghiệp hoá và tách ra
khỏi ngành tiểu thủ công nghiệp.
Do năng suất lao động trong các ngành sản xuất kinh tế ngày càng
nâng cao, con người không cần phải tiến hành lao động tập thể đông đảo như
trước nữa, trừ những trường hợp làm các lao động công ích. Lúc này người ta
đã có khả năng tiến hành lao động cá thể, hay từng đơn vị gia đình nhỏ mà vẫn
bảo đảm duy trì và nâng cao đời sống. Nền sản xuất cá thể đã ra đời.
Những trao đổi lúc đầu ít nhiều còn mang tính chất ngẫu nhiên, chỉ sau
khi xuất hiện các cuộc phân công xã hội lớn và sản phẩm thặng dư, sự trao đổi
kinh tế thực sự mới mang tính chất thường xuyên. Nó làm cho tài sản được
chuyển nhượng tự do, tư tưởng tư hữu được nảy nở và như vậy chế độ tư hữu
đã thực sự ra đời.
Rõ ràng sự phát triển của LLSX là nguồn gốc cơ bản và trực tiếp dẫn
đến sự ra đời của chế độ tư hữu.
1.1.1.2. Sự xuất hiện gia đình, thiết chế xã hội, giai cấp và nhà nước - nguồn
gốc xã hội dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu:
Vào giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, năng suất lao động ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của LLSX thì chế độ tư hữu với những
mâu thuẫn giai cấp và xung đột giai cấp trong lòng nó phát triển, dẫn đến kết
quả là xã hội cũ (xã hội nguyên thuỷ) bị thủ tiêu và một xã hội mới được hình
thành - đó là xã hội chiếm hữu nô lệ (CHNL). Xã hội mới hình thành được
khẳng định là một quốc gia, đơn vị cơ sở của nó không còn là liên minh dựa
trên quan hệ huyết thống, mà là liên minh dựa trên địa vị hành chính do nhà
10
nước quản lý.
Trong chế độ phụ hệ việc để lại tài sản cho con đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tích luỹ của cải trong gia đình và biến gia đình thành một thế lực
đối lập với thị tộc.Trong gia đình đó, quyền lực của ngườ i đàn ông đã được
xác lập, họ làm chủ cả trong gia đình và ngoài xã hội. Chế độ một vợ, một
chồng là hình thức đầu tiên không dựa trên điều kiện tự nhiên mà dựa trên
những điều kiện kinh tế. Nó là biểu hiện thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với
sở hữu công cộng nguyên thuỷ tự phát. Và kể từ đây, gia đình cá thể đã trở
thành đơn vị kinh tế cơ sở của xã hội, là tế bào cơ bản của quan hệ xã hội
mới - xã hội có giai cấp.
Những mâu thuẫn hình thành trong lòng xã hội thị tộc và khả năng sản
xuất riêng lẻ của các gia đình cá thể đã làm cho quan hệ dòng máu ngày càng
phai nhạt và lỏng lẻo hơn. Nền sản xuất cá thể cùng với chế độ tư hữu mới
nảy sinh làm cho các gia đình nhỏ bé có xu hướng tách khỏi thị tộc lớn. Họ
đưa nhau đến những vùng đất mới dễ làm ăn hơn và sống cùng với những gia
đình không có quan hệ họ hàng thân thuộc như trước. Những gia đình này kết
hợp lại thành cộng đồng xã hội mới không có quan hệ dòng máu với nhau,
nhưng họ có lợi ích kinh tế chung. Cộng đồng xã hội mới này được gọi là
công xã nông thôn (hay công xã láng giềng). Công xã nông thôn vừa duy trì
sở hữu tập thể của công xã thị tộc về ruộng đất, mặt khac nó bao hàm cả chế
độ tư hữu về TLSX mới nảy sinh.
Trong nền kinh tế hàng hoá đang trên đà phát triển, sự tích tụ và tập
trung của cải vào tay một số ít người đang diễn ra nhanh chóng cùng một lúc
với sự bần cùng hoá ngày càng tăng của một số quần chúng và sự tăng thêm
của đông đảo người nghèo. Những người giàu có bắt đầu tập hợp thành tầng
lớp quý tộc chiếm hữu nhiều của cải và nô lệ; còn những kẻ nghèo khó gồm
đông đảo những thành viên thị tộc bộ lạc thì mất dần của cải, súc vật, ruộng
11
đất, cuối cùng rơi vào tình trạng bị lệ thuộc vào tầng lớp trên và bị tầng lớp
này áp bức bóc lột không khác gì người nô lệ. Xã hội bắt đầu phân hoá thành
hai giai cấp: giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột.
Giai cấp xuất hiện dẫn đến mâu thuẫn giai cấp ngày càng phát triển.
Một xã hội mới như vậy chỉ có thể tồn tại trong cuộc đấu tranh không ngừng
và công khai giữa hai giai cấp: thống trị và bị thống trị; cuộc đấu tranh đó
ngày càng gay gắt buộc phải có một lực lượng thứ ba xuất hiện. Nhà nước
hình thành nên những cơ quan quyền lực công cộng nhằm giải quyết mâu
thuẫn giai cấp, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân mới ra đời
và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị.
Sự ra đời sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và chế độ tư hữu đã được xuất
phát từ sự phát triển kinh tế và biến đổi xã hội hoàn toàn hợp logic như thế.
1.1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư
nhân, trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh vì lợi
ích trực tiếp của cá nhân, hay tập thể cá nhân hoạt động dưới những hình
thức kinh tế khác nhau, dù có thuê hay không thuê lao động.
Trong loại hình sở hữu tư nhân cũng có sự khác nhau về trình độ và
phương thức kinh doanh giữa những chủ sở hữu tư nhân. Những chủ tư nhân
sở hữu vốn, tư liệu sản xuất có quy mô lớn vượt quá khả năng sử dụng lao
động của cá nhân và gia đình phải sử dụng lao động làm thuê để kinh doanh
nhằm thu giá trị thặng dư, còn những chủ sở hữu nhỏ về vốn, tư liệu sản xuất
chỉ đủ kết hợp với lao động của bản thân và gia đình không sử dụng lao động
làm thuê làm phương thức kinh doanh kiếm lời - đây là loại hình sở hữu phổ
biến của hộ nông dân và hộ buôn bán nhỏ, tiểu chủ ở thành thị. Trong nền
kinh tế thị trường, loại hình sở hữu tư nhân nhỏ cũng có sự biến đổi: trở thành
chủ tư nhân (sở hữu lớn), hoặc tham gia vào các loại hình kinh tế hợp tác (sở
12
hữu tập thể hỗn hợp), hoặc phá sản (không còn sở hữu tư liệu sản xuất, vốn)
trở thành lao động làm thuê. Còn loại hình sở hữu tư nhân lớn cũng sẽ biến
chuyển: mở rộng hơn nữa quy mô và đa dạng sở hữu, cũng có thể bị phá sản.
Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân tuy có nhiều trình độ phát triển khác
nhau với sự đa dạng của các loại hình sản xuất kinh doanh: kinh tế cá thể của
nông dân, thợ thủ công và tiểu thương, kinh tế tư bản tư nhân (TBTN), kinh tế
TBTN trong kinh tế tư bản nhà nước (TBNN), kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài... nhưng bản chất chung của khu vực kinh tế tư nhân chính là sở hữu tư
nhân. Dù là kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công hay kinh tế tư bản tư
nhân thì giữa chúng cũng có điểm chung là: đều dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân về TLSX và về các nguồn lực sản xuất.
1.1.3. Mấy nét chung về phạm trù sở hữu và sở hữu tư nhân
Sở hữu là một phạm trù rộng, phức tạp và có vai trò rất quan trọng
trong lý thuyết của nhiều ngành khoa học xã hội. Xét về nguồn gốc, sở hữu là
một khái niệm ban đầu được sử dụng trong quan hệ pháp lý dùng để chỉ các
quan hệ tài sản, các nhà triết học lại coi sở hữu như một mặt quan trọng của
quan hệ sản xuất, gắn liền với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Sở hữu
lại được các nhà khoa học kinh tế sử dụng như một phạm trú kinh tế chính trị
nhằm chỉ một nội hàm rộng hơn - đó là quan hệ giữa người với người trong tổ
chức sản xuất xã hội. Ở đây chúng tôi coi sở hữu thuộc phạm trù kinh tế chính
trị, có liên quan đến một số lĩnh vực khoa học xã hội khác, được thể hiện qua
những nội dung chính sau đây:
1.1.3.1. Khái niệm sở hữu và một số nội dung về sở hữu
Đã có nhiều định nghĩa về sở hữu với nhiều cách diễn tả khác nhau về
nó. Song nếu xét về tổng thể nội dung sở hữu luôn thể hiện hai mối qun hệ
sau đây: thứ nhất, quan hệ giữa chủ thể với đối tượng; thứ hai là quan hệ giữa
người với người trong tổ chức sản xuất xã hội.Trên cơ sở hai mối quan hệ đó,
13
có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về sở hữu như sau:
Sở hữu là một phạm trù xã hội, phản ánh quan hệ giữa người với người
trong việc chiếm hữu của cải vật chất, là hình thái xã hội có tính lịch sử của
việc chiếm hữu của cải vật chất và thông qua quan hệ sở hữu ấy thỏa mãn
nhu cầu của mình; sở hữu không phải là quan hệ giữa người với vật mà là
quan hệ giữa người với người đối với vật.
Nội dung của khái niệm này có thể được hiểu rõ thêm như sau:
- Xét về mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng. Ở đây chủ sở hữu
thường ít nhất phải có đủ ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt tài sản, trong đó chiếm hữu được coi là hình thức và nội dung
đầu tiên của sở hữu. Còn đối tượng của sở hữu bao giờ cũng đa dạng và khác
nhau về chủng loại. Riêng trong lý thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền
thống, đối tượng sở hữu thường được coi chủ yếu chỉ bao gồm những tư liệu
sản xuất được đưa vào sản xuất kinh doanh trong các loại hình kinh tế. Xuất
phát từ quan niệm đó, nên mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng từ lâu vẫn
được giải thích theo sơ đồ: Chủ thể - Tư liệu sản xuất.
Nhìn chung trong quá trình phát triển của lịch sử, đối tượng sở hữu
luôn có sự thay đổi để phù hợp với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với sự vận
động của phương thức sản xuất.Trong xã hội hiện đại ngày nay, đối tượng sở
hữu đã trở nên đa dạng và phong phú hơn: từ đồ vật tiêu dùng đến TLSX; từ
đối tượng sở hữu hữu hình đến vô hình (như: trí tuệ, thông tin, bí quyết công
nghệ, thương hiệu, thị phần...); từ hàng hoá đồ vật cá nhân đến hàng hoá công
cộng...Thực tiễn này cho thấy, việc coi sở hữu đồng nghĩa với TLSX, là c ách
tiếp cận còn phiến diện, không phù hợp với thực tế cuộc sống hôm nay.
- Về mối quan hệ giữa người với người trong tổ chức sản xuất xã hội,
đó là mối quan hệ giữa người và người trong việc chiếm hữu TLSX và của cải
vật chất được tạo ra nhờ TLSX ấy. Chủ nghĩa Mác - Lê nin coi sở hữu về
14
TLSX là quan hệ giữa người với người, giữa các giai cấp, giữa các tập đoàn
người trong hệ thống sản xuất xã hội. Quan hệ này thay đổi tùy theo sự thay
đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội trong đời sống xã hội. Chính những
quan hệ mới này là những quan hệ kinh tế về sở hữu mang tính chất kinh tế xã hội và quy định trước hết các hình thức phân phối tài sản, sản phẩm thu
nhập giá trị giữa các chủ sở hữu.
Khi coi sở hữu là quan hệ xã hội của sự chiếm hữu, cần phải xem xét
nó ở hai bình diện là nội dung pháp lý và nội dung kinh tế của sở hữu. Nội
dung pháp lý của sở hữu quy định đối tượng của sở hữu thuộc quyền của ai.
Nó quy định các quyền: sử dụng, định đoạt, chuyển nhượng, cho thuê, thừa
kế, thế chấp tài sản...và thực hiện lợi ích của các chủ thể. Nội dung kinh tế
của sở hữu thể hiện một hệ thống quan hệ kinh tế rất phức tạp giữa con người,
các tập thể người với nhau trong việc vận dụng, khai thác nguồn lực kinh tế xã hội. Quan hệ sở hữu cũng không thể tách rời quan hệ tổ chức, quản lý,
phân phối được thể hiện qua quan hệ lợi ích kinh tế.
- Nội dung sở hữu khi được thể chế hoá về mặt pháp lý, gọi là chế độ
sở hữu. Nói cách khác, chế độ sở hữu là tập hợp các thể chế về mặt pháp lý,
bảo đảm cho các quyền sở hữu được thực hiện. Còn sở hữu được thể hiện
thông qua đời sống xã hội gọi là: quyền sở hữu.
Chế độ sở hữu bao gồm nhiều quyền, trong đó đáng chú ý nhất là
quyền sở hữu và quyền sử dụng. Đây là hai nhóm quyền vừa phân cực, vừa
thống nhất với nhau. Sự phát triển kinh - tế xã hội càng phức tạp thì sự phân
chia, sự tác động giữa hai nhóm quyền trên càng phong phú và đa dạng. Nhất
là từ khi “tư bản sở hữu tách rời tư bản sử dụng”, rồi sự ra đời của các công ty
cổ phần. Đặc biệt từ khi quản lý trở thành một nghề thì sự tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng lại càng trở nên hoàn thiện hơn.
Lý luận về sự tách biệt tương đối, giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
15
cùng với việc xuất hiện vấn đề quyền sở hữu thực tế và quyền sở hữu danh
nghĩa, đã mở ra phương hướng mới cho các giải pháp về vấn đề sở hữu như
việc tổ chức sản xuất kinh doanh, huy động nguồn lực và đặc biệt là việc tìm
ra giải pháp đúng đắn cho vấn đề sở hữu nhà nước trong các nước xã hội chủ
nghĩa và trong một số nước đang phát triển hiện nay.
- Hình thức sở hữu cũng là một nội dung quan trọng khác của sở hữu.
Nó là cơ sở khách quan của sở hữu, tương ứng với những trình độ phân công
lao động xã hội và trình độ phát triển của LLSX.
Cho đến nay loài người đã trải qua nhiều hình thức sở hữu, phát triển
qua các giai đoạn khác nhau từ sở hữu bộ lạc, đến các hình thức sở hữu tư
nhân và sở hữu xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội hiện đại ngày nay, phần lớn
các quan điểm đều cho rằng, mặc dù rất phong phú, nhưng trên thực tế chỉ tồn
tại ba hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu
hỗn hợp.
1.1.3.2. Sở hữu - nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất
a) Sở hữu - nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất (QHSX), là nền móng của
chế độ kinh tế xã hội.
LLSX và QHSX là hai mặt cơ bản của mỗi phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau, hình
thành quy luật phổ biến của toàn bộ loài người - Quy luật về sự phù hợp của
QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Chính sự phù hợp đó là động lực
làm cho LLSX phát triển. Trong mối quan hệ giữa chúng, LLSX bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên QHSX không phải là mặt hoàn toàn thụ
động, nó có tác động to lớn đến sự phát triển LLSX. Trong sự tác động đó của
QHSX thì quan hệ sở hữu luôn giữ vai trò quyết định nhất.
Vai trò đó của sở hữu được thể hiện ở những mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sở hữu quyết định mục đích của sản xuất và toàn bộ cơ chế
16
điều tiết của nền sản xuất xã hội. Nó quy định quy mô và phương thức thực
hiện lợi ích kinh tế trong quá trình sản xuất xã hội. Nó quyết định quan hệ lợi
ích vật chất của các thành viên khác nhau trong xã hội.
Thứ hai, sở hữu là nhân tố cơ bản của QHSX khi nó giữ vai trò chi phối
hai mặt còn lại của QHSX, tức là nó quyết định phương thức, phương pháp tổ
chức và quản lý sản xuất, nó cũng quyết định tính chất và hình thức phân phối
sản phẩm.
Thứ ba, chế độ sở hữu quyết định địa vị khác nhau của con người, của
giai cấp và các mối quan hệ lẫn nhau của họ trong quá trình sản xuất. Từ đó
nó quyết định các mối quan hệ trong trao đổi và phân phối. Nó còn quy định
cả đặc điểm, hình thức và cơ cấu của giai cấp, tầng lớp của xã hội.
Thứ tư, sở hữu vừa là quan hệ kinh tế, vừa là quan hệ pháp lý, vì vậy
nếu không có sự biến đổi của quan hệ sở hữu phù hợp thì LLSX khó có thể
phát triển bình thường. Điều này thể hiện yếu tố mở đường cho sự phát triển
của LLSX, nếu thiếu sự mở đường này, LLSX sẽ bị kìm hãm, sẽ khó phát
triển thuận lợi. Đương nhiên, bị kìm hãm tới mức nào đó LLSX tất yếu sẽ phá
vỡ QHSX với chế độ sở hữu lỗi thời, tạo lập chế độ sở hữu mới.
Thứ năm, trên mức độ tổng quát ta thấy mỗi phương thức sản xuất được
đặc trưng bởi một quan hệ sản xuất riêng, tạo thành một chế độ kinh tế - xã
hội, do chế độ sở hữu quy định. Trong mối quan hệ đó, sở hữu là cái quyết
định bản chất chế độ kinh tế - xã hội , còn QHSX là tiêu chí hàng đầu để phân
biệt các hình thái kinh tế - xã hội.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội của xã hội có giai cấp, sở hữu liên
quan đến cơ sở hạ tầng của xã hội như là tổng hợp các kiểu QHSX, các loại
hình kinh tế... Cơ sở hiện thực của sở hữu gồm 3 loại hình cơ bản: 1. Loại
hình sở hữu điển hình, giữ vai trò chủ đạo, nó ứng với QHSX thống trị; 2.
Loại hình sở hữu gắn với QHSX tàn dư; 3. Loại hình sở hữu gắn với QHSX
17
mầm mống của xã hội tương lai. Do đó duy trì cùng một lúc nhiều loại hình
sở hữu trong một hình thái kinh tế - xã hội là một tất yếu khách quan.
b) Quan hệ giữa sở hữu với lợi ích - nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế và
tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển.
Trong quá trình vận động của mình, sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ
sở hữu và hình thức kinh tế được nối liền qua khâu trung gian là: Lợi ích kinh
tế. Có thể nói lợi ích kinh tế của mỗi người, mỗi tập đoàn, mỗi giai cấp được
quy đinh trước hết do mối quan hệ của nó đối với việc chiếm hữu TLSX. Lợi
ích kinh tế là QHSX trong hành động, đang biến thành các nhân tố kích thích
hoạt động kinh tế.
Trong mối quan hệ của mình, mặc dù sở hữu không phải là động lực
trực tiếp, nhưng chính quan hệ sở hữu lại quyết định bản chất, cơ cấu hệ
thống lợi ích kinh tế. Vì vậy quan hệ sở hữu luôn là nguồn, là kiểu phương
thức sản xuất mở rộng hệ thống lợi ích và do đó là nguồn gốc sâu xa của động lực
kinh tế.
Tóm lại, để hiểu rõ bản chất của phạm trù sở hữu, đòi hỏi ta phải nhận
thức được nội dung và mọi hình thức biểu hiện của nó. Ngày nay việc phân
tích rõ vai trò của các mặt, các khâu của sở hữu, xác định rõ chủ thể của mỗi
khâu và sự tác động qua lại giữa chúng... đã và đang là hướng tiếp cận để vận
dụng tốt vấn đề sở hữu trong quá trình phát triển sản xuất.
1.1.3.3. Sở hữu tư nhân
Từ cách tiếp cận sở hữu với tư cách là một quan hệ xã hội về kinh tế,
chúng tôi đưa ra khái niệm về sở hữu tư nhân như sau:
* Khái niệm sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu các nguồn lực sản xuất được đầu tư
vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế của cá
nhân những nhà sản xuất kinh doanh trong hoặc ngoài nước. Cá nhân tự
- Xem thêm -