Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ SỰ KẾT HỢP PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC...

Tài liệu SỰ KẾT HỢP PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

.PDF
164
420
126

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Tô Kim Yến SỰ KẾT HỢP PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Tô Kim Yến SỰ KẾT HỢP PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kì một công trình nào khác. Họ và tên tác giả Tô Kim Yến LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin kính gửi đến Cô, PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân lời cảm ơn sâu sắc về sự tận tình chỉ bảo tôi trong học tập, cũng như trong thời gian tìm hiểu và trình bày hoàn chỉnh luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy Cô giảng dạy tại khoa Ngữ văn của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường. Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy Cô công tác tại Phòng Sau Đại học của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn tất chương trình học tập và thực hiện luận văn. Cuối cùng, xin cảm ơn người thân và bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này. TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014 Học viên Tô Kim Yến MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 16 1.1. Thể loại truyền kỳ .................................................................................... 16 1.1.1. Khái niệm “truyền kỳ” ...................................................................... 16 1.1.2. Nguồn gốc thể loại truyền kỳ ............................................................ 16 1.1.3. Đặc trưng thể loại .............................................................................. 18 1.1.4. Truyền kỳ trung đại Việt Nam .......................................................... 24 1.2. Truyền kỳ mạn lục ................................................................................... 28 1.2.1. Tác giả Nguyễn Dữ và thời đại của ông ........................................... 28 1.2.2. Nguồn gốc ......................................................................................... 30 1.2.3. Nội dung ............................................................................................ 32 1.2.4. Nghệ thuật ......................................................................................... 42 1.2.5. Liên hệ với “Tiễn đăng tân thoại” ................................................... 47 1.3. Những phương thức sáng tác trong tác phẩm văn học............................. 50 1.3.1. Phương thức tự sự ............................................................................. 50 1.3.2. Phương thức trữ tình ......................................................................... 51 1.3.3. Hiệu quả sự kết hợp các phương thức trong sáng tác văn học ......... 52 Chương 2. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC – NHỮNG DẠNG THỨC KẾT HỢP VÀ TÁC DỤNG NGHỆ THUẬT..................................... 54 2.1. Phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục ............................................ 54 2.1.1. Biểu hiện của phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục .............. 54 2.1.2. Ý nghĩa của phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục................. 72 2.2. Phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ........................................ 73 2.2.1. Biểu hiện của phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục .......... 73 2.2.2. Ý nghĩa của phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ............. 80 2.3. Sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ...... 82 2.3.1. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào cốt truyện .......................................... 82 2.3.2. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào nhân vật............................................. 96 2.3.3. Tác dụng nghệ thuật của việc kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ............................................................ 99 Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ĐỐI VỚI VĂN XUÔI VIỆT NAM .................................................................... 105 3.1. Văn xuôi Việt Nam trước Truyền kỳ mạn lục với những chuẩn bị có ý nghĩa tiền đề ............................................................................................... 105 3.2. Văn xuôi Việt Nam sau Truyền kỳ mạn lục với những kế thừa và phát huy…….………………………………………………………………...116 3.2.1. Ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục đối với văn xuôi trung đại Việt Nam (xuất hiện sau Truyền kỳ mạn lục) ........................................... 116 3.2.2. Vấn đề ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục đối với văn xuôi hiện đại Việt Nam ............................................................................................. 125 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 136 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 139 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TKML : Truyền kỳ mạn lục TĐTT : Tiễn đăng tân thoại LNCQ : Lĩnh Nam chích quái VĐUL : Việt điện u linh TTDT : Thánh Tông di thảo NÔML : Nam Ông mộng lục TKTP : Truyền kỳ tân phả LTKVL : Lan Trì kiến văn lục VTTB : Vũ trung tuỳ bút TTNgL : Tang thương ngẫu lục 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong lịch sử Văn học Việt Nam, đặc biệt là trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, có một tác giả mà cho tới nay chúng ta biết được duy nhất một tác phẩm nhưng đây lại là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Đặc sắc từ phương diện nội dung cho đến phương diện nghệ thuật. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những chuyện lạ) nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập, sao chép đơn thuần mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã từng làm hao tổn tâm trí và giấy mực của nhiều thế hệ. Từ các bậc Nho sĩ thời trước cho đến các nhà nghiên cứu văn học thời hiện đại đều đánh giá cao và coi tác phẩm là một kiệt tác của nền văn học nước nhà. Đặc biệt ở thế kỷ XVIII, một thế kỷ rực rỡ nhất của văn học trung đại, các học giả nổi tiếng như Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đã từng ca ngợi Truyền kỳ mạn lục là một thiên cổ kỳ bút, áng văn hay của bậc đại gia với lời lẽ thanh tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen. Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục là việc làm có ý nghĩa nhằm khám phá đầy đủ hơn các giá trị của tác phẩm xứng danh này. Truyền kỳ mạn lục không chỉ là mối quan tâm của người Việt Nam mà còn là một tác phẩm văn học được sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu văn học trên thế giới. Ngay từ những năm sáu mươi của thập niên hai mươi, tác phẩm đã được dịch ra tiếng Nga, các nhà nghiên cứu Xô - Viết khi nghiên cứu văn học phương Đông thường chú ý tới Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm của Nguyễn Dữ là một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam trung đại, ngày càng trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu, càng chiếm được cảm tình của bạn đọc. Càng ngày, người ta càng phát hiện và khẳng định vị trí, vai trò của tác phẩm bởi sự ra đời của tác phẩm đã đánh dấu sự trưởng thành của truyện ngắn Việt Nam trung đại, đánh dấu sự chuyển biến từ văn xuôi mang nặng tính 2 chức năng sang văn xuôi giàu tính nghệ thuật. Mặc dù, khi khai thác những đề tài dân tộc, tác giả chú ý đến những truyền thuyết dân gian nhưng đồng thời cũng đã vươn lên và có những bước đột phá trên cách ghi chép của lối biên soạn truyện cổ. Tác phẩm biểu hiện một xu hướng thoát dần khỏi sự ảnh hưởng thụ động của văn học dân gian và văn xuôi lịch sử để bước sang giai đoạn mới, giai đoạn của văn xuôi tự sự, của truyện ngắn nghệ thuật. Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục phần nào giúp ta ứng dụng vào việc tìm hiểu loại hình truyện ngắn trung đại Việt Nam. Đặc biệt hơn hết, sự ra đời của Truyền kỳ mạn lục đã khẳng định một cách đầy đủ sự ra đời của thể loại truyền kỳ cho nền văn xuôi trung đại Việt Nam. Sở dĩ tác phẩm được đánh giá cao, được quan tâm như vậy là vì ngoài giá trị nội dung tư tưởng còn có những thành tựu đặc sắc về phương diện nghệ thuật. Mặc dù viết theo thể loại truyền kỳ, một thể loại ảnh hưởng từ văn học Trung Quốc, chuyên dùng hình thức kỳ ảo, hoang đường làm phương tiện nghệ thuật nhưng tập truyện đã có nhiều đóng góp đáng kể về nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật, kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca trong một lời văn trau chuốt, sinh động, giàu sức hấp dẫn. Đặc biệt tác phẩm còn có sự kết hợp tinh tế, linh hoạt giữa phương thức tự sự và trữ tình, điều này đã làm nên sự khác biệt rõ rệt với các tác phẩm trước nó như Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái. Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục về phương diện nghệ thuật, cụ thể là sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình, là một công việc cần thiết, hữu ích để khẳng định rõ nét thêm những giá trị đặc sắc của tác phẩm xứng danh “thiên cổ kỳ bút” này. Truyền kỳ mạn lục thực sự xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của các sáng tác dân gian. Hơn nữa, với tư cách là một tác phẩm được xếp vào loại đỉnh cao của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Truyền kỳ mạn lục đã được tuyển chọn để giảng dạy ở nhiều cấp học, cụ thể là Chuyện người con gái Nam Xương được 3 dạy và học ở lớp 9, Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên được dạy học ở lớp 10, tác phẩm được giới thiệu trọn vẹn ở ngành Ngữ văn trong các trường đại học và cao đẳng. Việc dạy học truyện truyền kỳ theo đúng đặc trưng của thể loại văn chương là một điều khó khăn, trước hết phụ thuộc vào việc nhận thức những giá trị thẩm mỹ đặc thù thể loại của người dạy và học, từ đó mới hiểu đúng, truyền thụ đúng những giá trị cơ bản của từng tác phẩm cụ thể. Truyền kỳ mạn lục là tập truyện đã tạo được nhiều hứng thú cho cả người dạy và người học nhưng cũng là một tác phẩm không dễ dàng chiếm lĩnh và cần phải được tiếp tục khám phá. Bởi vì nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục có ý nghĩa rất quan trọng kể cả trong lí luận và trong thực tiễn cho nên việc nghiên cứu vấn đề đã nêu là một điều cần thiết và rất hữu ích cho người viết để hiểu sâu hơn và giảng dạy đạt hiệu quả tốt hơn. 2. Mục đích nghiên cứu Là người đang theo học và giảng dạy môn Ngữ văn tại trường Trung học phổ thông, hơn ai hết, tôi cần phải thông hiểu ở một mức độ nhất định đối với những tác phẩm văn học để đời của dân tộc, đặc biệt là những tác phẩm được trích giảng trong chương trình sách giáo khoa ở cấp Trung học phổ thông. Do vậy, tiến hành nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục và thực hiện tìm hiểu sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong tác phẩm, trước hết chúng tôi nhằm góp phần vào việc xem xét, phân tích và đánh giá tác phẩm ở một số phương diện nghệ thuật đặc sắc, điều này đã mang lại những thành tựu đáng ghi nhận cho tập truyện. Sau khi giải quyết được thoả đáng những vấn đề đã đặt ra trong đề tài, người viết sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về giá trị của tác phẩm. Từ đó, bổ sung những kiến thức mới, cần thiết trong việc giảng dạy tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ở các cấp học, giúp người học nhìn nhận đầy đủ những nét đặc sắc nghệ thuật của tập truyện nói riêng và của cả văn xuôi trung đại Việt Nam nói chung. Qua đó, đề tài cũng góp phần bồi dưỡng tinh thần trân trọng và 4 giữ gìn những tinh hoa của dân tộc trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật văn chương của tiền nhân. 3. Lịch sử vấn đề Truyền kỳ mạn lục ra đời vào cuối thế kỉ XVI. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã được người đọc quan tâm và giới nghiên cứu đánh giá rất cao. Nhiều vấn đề trong Truyền kỳ mạn lục là đối tượng, là đề tài của các công trình nghiên cứu từ trước đến nay không chỉ ở trong nước mà còn ở ngoài nước, chẳng hạn ở Nga, Trung Quốc, Nhật Bản… Chúng tôi xin được lược dẫn về những công trình, những bài viết có liên quan đến đề tài đang nghiên cứu: * Các công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục trước thế kỉ XX: Trước hết, cần kể đến Lời đề tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định sơ niên 1547: - Trong lời đề tựa, tác giả đã cho ta thấy xuất thân và con đường làm quan của Nguyễn Dữ, chỉ ra lí do Nguyễn Dữ cáo quan về ở ẩn “Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền. Mới được một năm ông cáo quan về nuôi mẹ, thế rồi viết ra tập lục này để ngụ ý”. - Tác giả bài viết đã nhận xét: “Xem lời văn thì Truyền kỳ mạn lục không vượt khỏi phên dậu của Tông Cát, nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hoá ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu”. Rõ ràng, đây là một thái độ trân trọng và sự khẳng định đóng góp lớn của Nguyễn Dữ trong kho tàng văn học nước nhà. Đây có lẽ là ý kiến đánh giá sớm nhất về tác phẩm, Hà Thiện Hán chủ yếu khẳng định mục đích sáng tác Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là để nhắc nhở khuyên răn con người biết làm điều thiện, tránh điều ác. Nguyễn Dữ đề cập đến những chuyện liên quan đến cuộc sống thường nhật của con người, mục đích 5 cuối cùng là việc dạy người, dạy đời. Chính vì lẽ đó mà tác phẩm ngoài là một tác phẩm văn học có giá trị còn là một cuốn sách có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Trên tinh thần kế thừa ý kiến của thế hệ đi trước, nhiều học giả, giới phê bình và nghiên cứu của của Việt Nam trong giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX, khi đánh giá về Truyền kỳ mạn lục thường hết lời ngợi khen về giá trị của tác phẩm, đặc biệt hết là về phương diện nghệ thuật, chẳng hạn như: - Ôn Như hầu Vũ Khâm Lân (1702 - ?) trong Bạch Vân am cư sĩ phả kí coi Truyền kỳ mạn lục là một “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời). - Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Kiến văn tiểu lục đánh giá văn chương Truyền kỳ mạn lục là “lời lẽ thanh tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”. Và trong Nghệ văn chí phần Truyền kỳ ở Đại Việt thông sử có viết: “… trứ tác Truyền kỳ mạn lục gồm bốn quyển, văn từ trong sáng, mỹ lệ”. - Phan Huy Chú (1782 – 1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí đã từng khen rằng: “Bấy giờ học trò ông (Nguyễn Bỉnh Khiêm) thành đạt rất nhiều, chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thì Cử là có tiếng nhất... Khi Nguyễn Dữ viết quyển Truyền kỳ mạn lục được ông sửa chữa nhiều chỗ, sau thành áng văn hay của bậc đại gia”. - Vũ Phương Đề (1697 - ?) trong Công dư tiệp kí coi Truyền kỳ mạn lục là “thiên cổ kỳ bút”. Như vậy, các học giả thế kỉ XVIII – XIX, đã chú ý nhiều tới mặt văn phong, tới nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật xây dựng nhân vật nhưng họ chỉ cho thấy cái nhìn tổng thể về tác phẩm, chưa thực sự chú ý một cách thích đáng tới khía cạnh sự kết hợp giữa các phương thức sáng tác, chẳng hạn như mối quan hệ giữa hai phương thức tự sự, trữ tình và tác dụng nghệ thuật của sự kết hợp những phương thức ấy trong việc chuyển tải nội dung, tư tưởng của tác phẩm. * Các công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục từ đầu thế kỉ thứ XX đến nay: 6 Bước vào thế kỉ XX, Truyền kỳ mạn lục đã tiếp tục được khảo cứu trên nhiều phương diện cả về nội dung và nghệ thuật. Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục của Bùi Kỷ được Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch ra quốc ngữ in năm 1941: - Khi đánh giá về phương diện nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục, Bùi Kỷ viết: “Nguyễn Dữ học rất rộng, lại có tài viết văn dùng nhiều điển tích. Lối viết nào cũng hay, về phần uyên bác có thể ngang với Bồ Tùng Linh, về phần vận dụng các văn thể vượt hơn Đặng Trần Côn”. - Về phương diện nội dung, tác giả bài viết cũng cho rằng Truyền kỳ mạn lục đã đề cập đến vấn đề có liên quan trong cuộc sống của người phụ nữ xã hội Việt Nam thời kì trung đại. Ngoài một số công trình nghiên cứu chủ yếu về nghệ thuật viết truyện ngắn, về thể loại của tác phẩm như công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Dân Loại hình văn xuôi huyễn tưởng (Tạp chí Văn học, số 5, năm 1984), công trình của Nguyễn Hữu Sơn Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỉ XVI – các bước nối tiếp và phát triển (Tạp chí Văn học, số 5 và số 6, năm 1988), còn có khá nhiều bài viết khác trong đó đáng lưu ý là các bài viết Truyền kỳ mạn lục một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán - Văn học Việt Nam của Bùi Duy Tân (Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2001). Trong bài viết, tác giả đã nhận định những thành tựu vượt bậc về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục trong dòng truyện ký văn học trung đại Việt Nam. Bài viết của Bàn luận thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Lại Văn Hùng (Tạp chí Văn học, số 10, năm 2002) đã khẳng định lại một số vấn đề cơ bản về thân thế Nguyễn Dữ và nguồn gốc, nội dung, nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục. Bài viết Những biến đổi của những yếu tố kỳ và thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam (Tạp chí Văn học, số 6, năm 2004) của Vũ Thanh đã cho thấy sự biến chuyển linh hoạt và sinh động của hai yếu tố kỳ và thực và tác dụng nghệ thuật của sự biến đổi này trong tác phẩm. 7 Bộ sách Lịch sử văn học Việt Nam, tập II (sách Đại học Sư phạm – Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1978) có đoạn: “Nguyễn Dữ cũng đã ít nhiều nói lên được đời sống cơ cực của nhân dân, đặc biệt tác giả đã chú ý đến đời sống tình cảm của những con người nhỏ bé nhất là người phụ nữ bình dân”. Tác giả của bộ sách này đã khẳng định số phận người phụ nữ bị đày đoạ vì loạn li, điêu đứng vì thế lực cường quyền chủ yếu là người phụ nữ bình dân. Ngoài yếu tố ấy, theo những người viết sách đồng tiền cũng là một “quyền lực tối cao” và ảnh hưởng, chi phối đạo đức của con người. Đồng tiền gián tiếp gây nên những nỗi thống khổ cho con người, và hơn ai hết đó chính là người phụ nữ. Bộ sách Văn học Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2001) viết: “Truyền kỳ mạn lục có nhiều truyện miêu tả tình yêu nam nữ, hạnh phúc gia đình trong hoàn cảnh khó khăn và đầy biến động của xã hội phong kiến”. Trong đó, rõ nét nhất là Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện người con gái Nam Xương. Đây là hai ví dụ tiêu biểu cho thái độ của tác giả: phản ánh, lên án tình trạng đáng thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Cho dù tất cả phụ nữ có đảm đang bao nhiêu, chung thuỷ và tình nghĩa bao nhiêu thì cũng phải chịu số phận oan nghiệt trước cuộc đời dâu bể. Chuyện Lệ Nương là một câu chuyện đầy bi kịch về sự chung thuỷ của tình vợ chồng trong cảnh đất nước bị ngoại xâm. Ngoài đề tài tình vợ chồng, Truyền kỳ mạn lục còn đề cập khía cạnh khác của đời sống con người lúc bấy giờ. Các câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn: Chuyện nghiệp oan của Đào thị, Chuyện nàng Thuý Tiêu, Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây miêu tả những mối tình vụng trộm, trái hẳn với đạo lí Nho gia “nam nữ thụ thụ bất tương thân”. Các tác giả trong bộ sách này cho rằng Nguyễn Dữ đã táo bạo và phóng túng khi thể hiện quan hệ yêu đương không lành mạnh giữa Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, giữa Hà Nhân và hai nàng họ Đào, họ Liễu trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây và họ đã kết luận: đối với truyện này Nguyễn Dữ đã có lời phê bình để phê phán những quan niệm đồi truỵ và khẳng định lại những giáo điều về “đức hạnh tiết 8 nghĩa” và bình luận thêm “tuy thông cảm với khát vọng yêu đương của con người nhưng quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ nét tích cực của lễ giáo nho phong. Điều đó phản ánh thái độ đầy mâu thuẫn trong tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Dữ”. * Song song đó, còn có các bài viết, công trình đã nghiên cứu về một số khía cạnh chuyên biệt của Truyền kỳ mạn lục có ý nghĩa trực tiếp đối với việc thực hiện đề tài, chẳng hạn như: Bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Tạp chí Văn học, số 1, năm 1987) của Nguyễn Phạm Hùng. Đây là bài viết mà chúng tôi quan tâm nhất, nội dung bài viết có ý nghĩa định hướng cho việc triển khai đề tài. Theo tác giả, Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm đã đặt ra những vấn đề về người phụ nữ. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý nhận xét của tác giả: “Niềm khát khao hạnh phúc gia đình là chủ đề chính của nhiều truyện. Mâu thuẫn khao khát hạnh phúc đó với các thế lực tàn bạo của xã hội chính là hạt nhân nghệ thuật của những truyện này”. Không phải đến Nguyễn Dữ thì vấn đề này mới được nhắc đến. Thực ra, trong những tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Húc, chúng ta đã thấy những vấn đề ấy được đề cập. Tuy nhiên, ở những tác giả ấy, niềm khao khát hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến, và sự xung đột giữa khát khao cao đẹp của con người với sự hẹp hòi, gò bó, tàn nhẫn của chế độ xã hội đương thời chỉ đơn thuần dừng lại ở sự nhận thức trên bình diện tâm lí và được thể hiện trong suy nghĩ, trong diễn biến nội tâm của nhân vật mà thôi. Đến Truyền kỳ mạn lục, niềm khát khao ấy, mâu thuẫn ấy đã thực sự trở thành đối tượng của sự nhận thức mang tính thẩm mĩ một cách trọn vẹn, đó trở thành ước vọng chung của người phụ nữ trong đời sống văn học. Nguyễn Dữ đã phản ánh, lên án, phê phán những gì của xã hội đã trái với đạo lí luân thường, trái với khát vọng tự do, hạnh phúc chính đáng của con người. Đó chính là một trong những biểu hiện của trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa. Và đây cũng chính là khuynh hướng sáng tác 9 chung của thời đại. Từ bài viết, ta có thể nhìn nhận tác phẩm của Nguyễn Dữ được xem là mở đầu cho khuynh hướng phản ánh hiện thực xã hội đương thời để rồi những thế hệ văn sĩ sau đó tiếp tục kế thừa và phát triển nó, tạo nên những tên tuổi nổi tiếng như: Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái… Trong công trình này, Nguyễn Phạm Hùng đã đề cập rất rõ về khuynh hướng sáng tác Truyền kỳ mạn lục ở phương diện nội dung, tuy nhiên, về ở phương diện nghệ thuật tác giả vẫn còn chưa đi sâu, chưa đề cập đến các phương thức sáng tác trong tác phẩm. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Dương (Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1996) đã nghiên cứu về Số phận người phụ nữ và các phương thức thể hiện số phận ấy trong Truyền kỳ mạn lục. Tuy nhiên, hai phương thức tự sự và trữ tình trong tác phẩm cũng chưa được quan tâm đúng mức mà tác giả chỉ khái quát về các phương thức thể hiện số phận người phụ nữ trong tác phẩm. Luận văn thạc sĩ Loại hình các nhân vật trong truyền kỳ trung đại Việt Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Lan trì kiến văn lục của Trương Thị Hoa (Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011) đã tiếp cận và khai thác Truyền kỳ mạn lục theo loại hình nhân vật và cũng chưa đề cập đến vấn đề mà luận văn đã đề ra. Luận văn thạc sĩ Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam của Trần Nghi Dung (Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012) đã tiếp cận tác phẩm từ góc nhìn thể loại để đi đến đánh giá vị trí quan trọng của Truyền kỳ mạn lục nói riêng và tất cả những tác phẩm thuộc thể loại truyền kì nói chung trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. Tác giả cũng không đặt ra vấn đề tiếp cận Truyền kỳ mạn lục theo phương thức sáng tác nghệ thuật. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, các học giả, các công trình nghiên cứu đã có những nhận xét tương đối thống nhất về những đóng góp đáng kể về mặt nghệ thuật của tập truyện. Tuy nhiên, do những mục đích khác nhau mà các tác 10 giả chưa quan tâm cụ thể và đi sâu vào sự biểu hiện cũng như hiệu quả quan trọng của việc kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục. Với mong muốn kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục của các thế hệ đi trước, chúng tôi chọn vấn đề sự kết hợp phương thức tự sự, trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục nhằm cố gắng hoàn chỉnh và làm nổi rõ hơn vấn đề đã nêu, hy vọng góp thêm ý kiến vào việc nghiên cứu một tác phẩm văn học lớn và có giá trị nhiều mặt này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Như trên đã nói do yêu cầu và mục đích, nhiệm vụ cụ thể của đề tài, chúng tôi chọn những biểu hiện của phương thức tự sự, phương thức trữ tình và chỉ ra tác dụng nghệ thuật của sự kết hợp hai phương thức sáng tác ấy trong Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm có tất cả hai mươi truyện, chia làm bốn quyển, được viết theo lối tản văn, biền văn xen lẫn thơ ca, được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm. Dù độ ngắn dài của mỗi câu chuyện là khác nhau, dù mỗi câu chuyện chuyển tải mỗi tư tưởng của tác giả là khác nhau nhưng nhìn chung thì tất cả những câu chuyện ấy đều có sự kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt giữa hai phương thức tự sự và trữ tình. Tuy nhiên tuỳ mức độ thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm mà tác giả có cách tổ chức, thể hiện sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình đậm nhạt khác nhau trong mỗi câu chuyện. Điều này cũng cho chúng ta thấy tài năng sáng tạo của một tác giả lớn. Để thuận tiện cho việc triển khai các vấn đề đã đặt ra, chúng tôi đồng tình và sử dụng thứ tự các câu chuyện theo tập truyện Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Nhà xuất bản Văn nghệ, Hội nghiên cứu giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh, in lại năm 1988, cụ thể như sau: 11 - Truyện thứ nhất: Câu chuyện ở đền Hạng Vương (Hạng Vương từ kí) - Truyện thứ hai: Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái châu (Khoái Châu nghĩa phụ truyện) - Truyện thứ ba: Chuyện cây gạo (Mộc miên thụ truyện) - Truyện thứ tư: Chuyện gã Trà đồng giáng sinh (Trà đồng gián đản lục) - Truyện thứ năm: Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (Tây viên kỳ ngộ kí) - Truyện thứ sáu: Chuyện đối tụng ở Long cung (Long đình đối tụng lục) - Truyện thứ bảy: Chuyện nghiệp oan của Đào thị (Đào thị nghiệp oan kí) - Truyện thứ tám: Chuyện chức Phán sự đền Tản viên (Tản Viên từ phán sự lục) - Truyện thứ chín: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Từ Thức tiên hôn lục) - Truyện thứ mười: Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào (Phạm Tử Hư du thiên tào lục) - Truyện mười một: Chuyện yêu quái ở Xương Giang (Xương Giang yêu quái lục) - Truyện mười hai: Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa (Na sơn tiều đối lục) - Truyện mười ba: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào (Đông Trào phế tự lục) - Truyện mười bốn: Chuyện nàng Tuý Tiêu (Tuý Tiêu truyện) - Truyện mười lăm: Chuyện bữa tiệc ở Đà Giang (Đà Giang dạ ẩm kí) - Truyện mười sáu: Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử lục) - Truyện mười bảy: Chuyện Lý tướng quân (Lý tướng quân truyện) - Truyện mười tám: Chuyện Lệ Nương (Lệ Nương truyện) - Truyện mười chín: Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Kim Hoa thi thoại kí) - Truyện hai mươi: Chuyện tướng Dạ Xoa (Dạ Xoa bộ soái lục) 12 4.2. Phạm vi nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm của Nguyễn Dữ, được viết bằng chữ Hán, ra đời vào thế kỉ XVI, đến nay đã nhiều lần tái bản. Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã dùng bản Truyền kỳ mạn lục do Trúc Khê Ngô Văn Triện (1943) dịch, Nhà xuất bản Văn nghệ, Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, in lại 1988, bởi vì Trúc Khê Ngô Văn Triện được giới nghiên cứu văn học đánh giá rất cao về tài dịch thuật và vốn Hán học, đặc biệt là Văn Tâm trong Từ điển Văn học (bộ mới) đánh giá: “vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng khá nhuần nhị, ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống (…) khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực” [32, tr.1828]. Theo yêu cầu của đề tài, trong luận văn này chúng tôi tập trung nghiên cứu hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục và chỉ ra hiệu quả thẩm mỹ của sự kết hợp hai phương thức trên trong tác phẩm. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong bài viết, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau đây: - Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn. Bằng phương pháp phân tích, chúng tôi tìm hiểu cụ thể và đào sâu mỗi câu chuyện trong tác phẩm về các khía cạnh nội dung và nghệ thuật, từ đó tìm ra những vấn đề có liên quan, phục vụ cho đề tài đang nghiên cứu. Sau khi phân tích mỗi truyện cụ thể, phương pháp tổng hợp được sử dụng để tìm ra quy trình hoặc sự đồng loạt, thống nhất trong cách kết hợp các phương thức tự sự và trữ tình trong toàn tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. - Tiếp theo là phương pháp thống kê, phân loại. Sự kết hợp của phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục được thể hiện ở nhiều truyện, ở nhiều dạng thức khác nhau. Vì vậy, trên cơ sở khảo sát, lựa chọn những truyện cụ thể có sự kết hợp hiệu quả các phương thức sáng tác kể trên, chúng tôi thống kê, phân loại và khái quát thành những dạng thức thể hiện sự kết hợp của phương thức tự sự và trữ tình trong toàn bộ tác phẩm (thống kê, phân loại cách 13 thức tổ chức, cách thâm nhập của yếu tố trữ tình vào cốt truyện, vào nhân vật (ngôn ngữ, hành động, nội tâm) hay vào các tình tiết, sự kiện…) Từ đó, có thể thấy rõ và sâu sắc hơn cách kết hợp của phương thức tự sự và trữ tình trong tác phẩm để rút ra kết luận về tác dụng nghệ thuật của sự kết hợp của hai phương thức ấy trong tác phẩm. - Để làm rõ hơn nét độc đáo của việc kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục nói riêng và trong các tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ hoặc những tác phẩm có những đặc trưng gần với thể loại truyền kỳ của văn học trung đại Việt Nam nói chung, chúng tôi sử dụng phương pháp loại hình. - Cuối cùng phương pháp so sánh cũng được sử dụng nhằm so sánh sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục và các tác phẩm khác trước và sau khi Truyền kỳ mạn lục xuất hiện. Bên cạnh đó, so sánh giữa Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc) cũng làm nổi bật sự độc đáo của Truyền kỳ mạn lục, một lần nữa khẳng định giá trị nhiều mặt của “thiên cổ kỳ bút” này. Ngoài ra, trong bài viết, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác để bổ trợ cho việc tìm hiểu kỹ và sâu tác phẩm. 6. Đóng góp của luận văn Trên tinh thần của thế hệ đi sau học hỏi, kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục của các thế hệ đi trước, chúng tôi mong muốn góp thêm một phần nhỏ vào kho tri thức liên quan đến tác phẩm bằng việc bổ sung thêm một số thành tựu về mặt nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục, từ đó có thể vận dụng những kiến thức thiết thực này một cách cụ thể, linh hoạt vào thực tế giảng dạy Truyền kỳ mạn lục trong nhà trường. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm có ba phần cơ bản: mở đẩu, nội dung và kết luận. Mở đầu, người viết trình bày cụ thể về lí do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm nghiên cứu, phương pháp, những đóng góp của luận
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan