Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của hs trong ...

Tài liệu Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của hs trong dạy học mô khoa học lớp 5

.PDF
29
12
90

Mô tả:

MỤC LỤC STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 Đề mục A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài.................................................................... 2. Mục đích nghiên cứu............................................................. 3. Đối tượng nghiên cứu............................................................ 4. Phương pháp nghiên cứu...................................................... B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm. 2. Bản chất của phương pháp thí nghiệm. 3. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong việc vận dụng để dạy môn khoa học lớp 5. II. Thực trạng của việc sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn khoa học lớp 5. 1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy thí nghiệm ở các nhà trường: 2. Thực trạng học sinh học thí nghiệm: 3. Thực trạng dạy thí nghiệm của giáo viên: 4. Khảo sát học sinh: III. Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh thông qua việc sử dụng phương pháp thí nghiệm trong giờ khoa học. 1. Giáo viên phải xác định rõ mục đích, lựa chọn thí nghiệm phù hợp 2. Chuẩn bị chu đáo dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho từng bài dạy cụ thể 3. Xây dựng góc học tập môn Khoa học. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học. 3.1. Xây dựng góc học tập môn Khoa học 3. 2. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học 4. Vận dụng kỹ thuật dạy học: Kỹ thuật “Trình bày một phút” trong việc hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm. 5. Sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh 6. Một số hoạt động minh họa cho bài dạy cụ thể: 6.1. Ví dụ 1 6.2. Ví dụ 2 6.3. Ví dụ 3 IV. Một số kết quả đạt được 1. Đối với giáo viên Trang 1 2 2 2 3 3 3 4 5 5 5 5 6 6 6 8 9 9 10 11 12 13 13 14 16 18 29 30 2. Đối với học sinh C. PHẦN KẾT LUẬN 18 18 20 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Khoa học là môn học về các sự vật hiện tượng tự nhiên, về cơ thể và sức khỏe của con người. Có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học sơ đẳng ban đầu về các hiện tượng và sự vật gần gũi trong tự nhiên, bao gồm cả con người và các hoạt động của con người tác động vào thế giới tự nhiên; bước đầu hình thành một số kỹ năng quan sát, dự đoán và vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống. Môn Khoa học ở lớp 5 được xây dựng trên cơ sở nối tiếp những kiến thức về tự nhiên của môn Tự nhiên và Xã hội các lớp 1,2,3. Nội dung chương trình được cấu trúc đồng tâm mở rộng và nâng cao theo các chủ đề: Con người và sức khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Các chủ đề này được mở rộng và đào sâu ở lớp 5. Với trình độ phát triển tư duy của học sinh lớp cuối cấp Tiểu học, chương trình môn Khoa học lớp 5 đã đưa vào những nội dung về tính chất, đặc điểm của các quá trình, hiện tượng trong tự nhiên, trong cơ thể người. Các hiện tượng hay quá trình diễn ra trong tự nhiên nhiều khi rất khó quan sát trong điều kiện bình thường, bằng mắt thường. Bởi chúng thường diễn ra quá nhanh hoặc quá chậm hoặc “vô hình”. Những kiến thức về tính chất và sự biến đổi của các chất thì lại rất trừu tượng, muốn nhận thấy chúng, cần phải tạo ra sự tương tác, phản ứng giữa các chất, nghĩa là phải tiến hành thí nghiệm. Bên cạnh đó khoa học còn là môn học tiền đề để sau này các em học tốt môn hóa học, vật lí ở THCS và THPT. Nhưng thực tế cho thấy nhiều học sinh mặc dù nắm chắc phần lí thuyết nhưng khi thực hành thí nghiệm thì vô cùng lúng túng, chưa thành thạo hoặc chưa biết cách thao tác thí nghiệm. Các em có rất ít trải nghiệm thực tế về kĩ năng làm thí nghiệm. Việc lĩnh hội kiến thức của các em còn xa rời thực tiễn, các em khó hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Mặt khác học sinh đa phần là người dân tộc thiểu số, các em ít được tiếp cận với phát triển khoa học. Không những thế Trường Tiểu học Cẩm Châu đóng trên địa bàn xã vùng cao, trình độ dân trí của địa phương không đồng đều, điều kiện kinh tế chưa phát triển nên việc chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm đồ dùng phục vụ cho thí nghiệm còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để học sinh học tốt môn Khoa học ở lớp 5, giúp các em khai thác hết giá trị của dạy học thí nghiệm, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, gắn lí thuyết với thực tiễn, thỏa mãn nhu cầu tò mò, khám phá tri thức của các em, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của các sự vật hiện tượng, mạnh dạn trong các hoạt động,… thì giáo viên cần vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực trong đó có thể lựa chọn và phối hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trong khuôn khổ đề tài này tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm trong việc “Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5” sao cho đạt hiệu quả cao nhất để góp một phần nhỏ vào việc thực hiện nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng dạy và học Khoa học ở Trường Tiểu học Cẩm Châu nói riêng. 2 II. Mục đích nghiên cứu: - Vận dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 5 theo hướng phát huy tính cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua các thí nghiệm. III. Đối tượng nghiên cứu: - Quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5 bằng phương pháp thí nghiệm. - Một số thí nghiệm nhằm giúp học sinh lớp học tốt môn Khoa học lớp 5. IV. Phương pháp nghiên cứu: 1. Phương pháp điều tra: - Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của giáo viên; tìm hiểu tính tích cực nhận thức của học sinh. 2. Phương pháp thực nghiệm: - Dạy thực nghiệm tại lớp 5A, để đối chiếu kiểm nghiệm với đầu năm, đánh giá hiệu quả nghiên cứu. 3. Phương pháp trực quan: - Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập… - Trao đổi với giáo viên - học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy - học môn Khoa học lớp 5. 3 B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm: Thí nghiệm có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách quan được thực hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó con người có thể chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy ra để phục vụ cho các mục đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ những cái phụ, không bản chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. Thí nghiệm giúp con người phát hiện ra những quy luật còn ẩn náu trong tự nhiên. Mặt khác nó còn giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học [9]. Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, là tiêu chuẩn đánh giá tính chân thực của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy sáng tạo. Nó là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo thực hành và tư duy sáng tạo. Thí nghiệm được thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình dạy học. Phương pháp thí nghiệm là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tái tạo lại những hiện tượng đã xảy ra trong thực tế để tìm hiểu và rút ra những kết luận khoa học [9]. Qua đó tạo niềm tin vào khoa học; nâng cao tính tự lực và khả năng tư duy khoa học khi tiếp xúc với các hiện tượng thực tế; làm quen và hình thành ở học sinh kĩ năng sử dụng các dụng cụ thí nghiệm. Như vậy phương pháp thí nghiệm có sự hợp tác giữa thầy và trò để thực hiện thành công thí nghiệm phát hiện ra tri thức của bài học. Phương pháp thí nghiệm làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của giáo viên và học sinh về vai trò của mình trong quá trình dạy học. Học sinh sẽ là người trực tiếp thực hiện thí nghiệm từ đó phát hiện ra tri thức của bài học. Mục tiêu của phương pháp thí nghiệm là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp thí nghiệm còn chú ý nhiều đến việc phát triển tư duy và nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh. Do vậy để sử dụng tốt phương pháp thí nghiệm trong dạy học Khoa học đòi hỏi giáo viên phải nắm chắc bản chất của phương pháp thí nghiệm. 2. Bản chất của phương pháp thí nghiệm: Phương pháp thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Thí nghiệm được sử dụng theo các cách khác nhau nhằm giúp học sinh thu thập và xử lí thông tin qua đó rút ra được các khái niệm, quy luật, tính chất của các sự vật, hiện tượng. Bản chất của phương pháp thí nghiệm là lấy học sinh làm trung tâm thông qua đó giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thí nghiệm đơn giản từ đó phát hiện ra tri thức của bài học. Học sinh tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động thí nghiệm từ khâu nắm mục đích của thí nghiệm sau đó lựa chọn thí nghiệm, lựa chọn dụng cụ, tiến hành thí nghiệm, quan sát và rút ra kết quả. Qua các thí nghiệm, học sinh thể hiện sự hiểu biết của mình. Sự hiểu biết 4 ấy được chứng minh thông qua các quá trình học sinh tự lực làm thí nghiệm và các kết quả của quá trình ấy. Với phương pháp thí nghiệm khả năng tư duy của học sinh cũng được phát huy một cách tối đa. Học sinh có cơ hội tìm hiểu khám phá tri thức thông qua các bài tập thực tế và các thí nghiệm thực hành. Học sinh bước đầu được làm quen với hình thức nghiên cứu thỏa mãn nhu cầu tò mò khám phá tri thức của mình. Học sinh mạnh dạn trong các hoạt động và tự tin thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Phương tiện thí nghiệm hỗ trợ, thúc đẩy học sinh muốn được tham gia vào các hoạt động thí nghiệm điều đó rất có lợi trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức của người học. Học sinh được chủ động sử dụng các dụng cụ thí nghiệm và các chất tham gia vào thí nghiệm để tìm ra kiến thức. Điều đó cũng rất thuận lợi cho các em phát triển các giác quan, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện. Trong phương pháp thí nghiệm giáo viên chỉ là người hướng dẫn gợi mở mà không làm thay học sinh. Trên cơ sở đó học sinh phát triển tư duy logic, năng lực cá nhân và hoàn thành tốt công việc được giao. Như vậy với phương pháp thí nghiệm học sinh đã phát huy được sự sáng tạo và khả năng hiểu biết của mình đem lại hiệu quả giáo dục rất lớn. 3. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong việc vận dụng để dạy môn khoa học lớp 5: Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của phương pháp thí nghiệm và đặc điểm nội dung của môn Khoa học lớp 5 tôi thấy vận dụng phương pháp thí nghiệm vào dạy môn Khoa học là rất cần thiết vì nó phù hợp với nội dung kiến thức của môn. Do khoa học là một môn học tích hợp kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nên nội dung của nó mang tính thực tiễn cao. Những hiểu biết mà học sinh tiếp thu được sẽ ứng dụng được rất nhiều vào trong cuộc sống. Học sinh có thể tư duy tranh luận để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế từ đó tìm ra kiến thức của bài học, hình thành niềm tin khoa học. Phương pháp thí nghiệm đóng vai trò quan trọng giúp các em hiểu chúng và làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học này. Quá trình nhận thức của học sinh mang tính trực quan cụ thể: Tri giác của học sinh gắn liền với hoạt động thực tiễn, trí nhớ mang tính chất hình ảnh, cụ thể, trực tiếp. Dạy học có sử dụng thí nghiệm luôn đặt học sinh vào những hoạt động trực tiếp, lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực hành thí nghiệm dựa vào kiến thức, kinh nghiệm có sẵn để tiến hành thí nghiệm. Bằng các hoạt động tự lực thực hiện thí nghiệm học sinh sẽ nắm bắt kiến thức một cách sâu sắc và vững chắc. Thí nghiệm còn giúp học sinh hiểu được bản chất của vấn đề một cách nhanh chóng và chính xác, học sinh được đặt vào tình huống có vấn đề và tự mình lựa chọn thí nghiệm, tự tổ chức thí nghiệm thông qua sự hướng dẫn của giáo viên. Học sinh tự thực hiện thí nghiệm rồi trình bày trước lớp, dù làm hỏng hay làm tốt, các em đều được trình bày và giải thích kết luận của mình. Chính qua những lần thử nghiệm liên tiếp ấy, qua những sai lầm học sinh sẽ rút ra kinh nghiệm và hiểu sâu bản chất của vấn đề. 5 Thí nghiệm có tác dụng kích thích động cơ học tập của học sinh. Khi nhận được các vấn đề, học sinh nảy sinh nhu cầu muốn tiến hành thí nghiệm để giải quyết vấn đề được nêu ra. Học sinh sẽ tự nghiên cứu, nêu ra các ý tưởng, những khả năng có thể xảy ra khi thực hiện thí nghiệm rồi dần dần chiếm lĩnh tri thức. Hơn thế nữa, khi tiến hành thí nghiệm học sinh luôn ở trạng thái vận động, sử dụng mọi giác quan, điều này không chỉ giúp học sinh lĩnh hội được nhiều thông tin, kiến thức, kĩ năng mà còn giúp học sinh phát triển thể chất, thẩm mĩ… Đây là mục tiêu phát triển toàn diện mà mục đích của giáo dục đề ra. Vì vậy sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nhằm đạt được mục tiêu dạy học đã đề ra. II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5: 1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy thí nghiệm môn Khoa học ở nhà trường: Hiện nay, đồ dùng thí nghiệm ở các nhà trường còn thiếu, chưa được đầu tư về các vật dụng, đồ dùng phục vụ cho việc thực hành thí nghiệm của giáo viên và học sinh. Bộ đồ dùng được cấp từ sau năm 2000 đến nay đã xuống cấp, hầu như không sử dụng được. Phòng thiết bị dạy học không đảm bảo điều kiện phục vụ cho giáo viên và học sinh làm thí nghiệm. Nhà trường không có nhân viên chuyên trách riêng về thiết bị mà do giáo viên văn hóa kiêm nhiệm không được đào tạo về chuyên môn. Bởi vậy đồ dùng thí nghiệm do giáo viên giảng dạy tự chuẩn bị. 2. Thực trạng học sinh học thí nghiệm trong môn Khoa học: Phần lớn học sinh ham thích học khoa học. Học sinh nắm rất tốt về lí thuyết nhưng thiếu kĩ năng làm thí nghiệm. Các em có rất ít trải nghiệm thực tế qua thực hành làm thí nghiệm. Chính vì vậy việc lĩnh hội kiến thức của học sinh luôn xa rời thực tiễn, học sinh khó hình thành kĩ năng kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Việc chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm của học sinh chưa tích cực do các em ngại tìm kiếm, ngại sưu tầm, … 3. Thực trạng dạy thí nghiệm của giáo viên trong môn Khoa học: Một bộ phận không nhỏ giáo viên còn ngại đầu tư, công sức. Cho rằng môn học này không quan trọng bằng môn Toán, Tiếng Việt, … Bên cạnh đó khi làm thí nghiệm các tiết dạy rất dễ thất bại nếu không làm thí nghiệm trước, không có sự chuẩn bị chu đáo kĩ càng về đồ dùng dạy học bởi việc chuẩn bị đồ dùng mất rất nhiều thời gian, kinh phí, … 6 Một số giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm, chưa biết cách khai thác nên chưa thu hút được học sinh tham gia, khiến cho hiệu quả giờ học chưa cao. 4. Khảo sát học sinh: Trong quá trình giảng dạy học về khoa học, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh nắm được thí nghiệm và vận dụng vào thực tiễn lớp 5A và nhận được kết quả như sau: Lớp 5A TSHS 33 Số HS nắm chắc lí thuyết và thực hành tốt thí nghiệm Số HS nắm chắc lí thuyết nhưng chưa thực hành tốt thí nghiệm Số HS chưa nắm chắc lí thuyết, chưa thực hành tốt thí nghiệm SL TL SL TL SL TL 7 21% 16 48% 10 31% Từ bảng kết quả trên cho thấy: Số học sinh nắm được lí thuyết và thực hành thí nghiệm thành thạo, có hứng thú với thực hành thí nghiệm còn hạn chế. Những học sinh có đam mê khoa học, thích nghiên cứu, tìm tòi và nắm chắc lí thuyết từ đó biết vận dụng vào thực tiễn, có tư duy kĩ thuật còn rất ít. Số học sinh trong lớp nắm được lí thuyết nhưng thực hành thí nghiệm chưa tốt hoặc chưa nắm được lí thuyết và chưa biết cách thực hành thí nghiệm còn nhiều. Từ những thực trạng trên đây, việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh vào dạy môn Khoa học ở nhà trường Tiểu học là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú trong học khoa học, lĩnh hội những tri thức khoa học một cách dễ dàng, tạo điều kiện củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc. Tạo ra không khí học tập sôi nổi, kích thích học sinh chủ động tìm kiếm tri thức trong nội dung từng bài học cụ thể. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁP PHÁT HUY TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ KHOA HỌC: 1. Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, lựa chọn thí nghiệm phù hợp: Qua tìm hiểu, dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc áp dụng phương pháp thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5 nói riêng và môn Khoa học nói chung ở các trường Tiểu học có thể chia ra các cách tiến hành thí nghiệm mà giáo viên thường dùng như sau: Cách 1: Giáo viên nêu kiến thức khoa học. 7 - Giáo viên làm thí nghiệm để minh họa học sinh quan sát và đối chiếu kết quả thí nghiệm với kiến thức khoa học. Cách 2: Giáo viên nêu kiến thức khoa học. - Yêu cầu học sinh dự kiến kết quả thí nghiệm. - Giáo viên làm thí nghiệm. - Học sinh giải thích diễn biến thí nghiệm. Cách 3: Giáo viên nêu kiến thức khoa học. - Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm. - Học sinh làm thí nghiệm và đối chiếu kết quả với kiến thức khoa học. Cách 4: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu kiến thức khoa học. - Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm. - Học sinh làm thí nghiệm và đối chiếu kết quả với kiến thức khoa học. Cách 5: Giáo viên nêu vấn đề: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi. Cách 1 thực chất là dạng thí nghiệm chứng minh do giáo viên tiến hành. Khi tiến hành phương pháp thí nghiệm theo cách này, giáo viên chưa phát huy được tính tích cực học tập của học sinh vì những lí do sau: - Kiến thức khoa học đã nêu ra không còn kích thích được trí tò mò của học sinh. - Thí nghiệm do giáo viên tiến hành, học sinh chỉ cần quan sát theo dõi nên khó tập trung chú ý. - Thí nghiệm do giáo viên tiến hành nên xác xuất thành công thường rất cao, ít có tình huống sư phạm xảy ra. Vì vậy, không kích ứng khả năng tư duy và óc phán đoán của học sinh. Ở cách 2, mặc dù vẫn là giáo viên làm thí nghiệm nhưng mức độ tham gia của học sinh đã tích cực hơn so với cách 1. Làm theo cách 2, học sinh được dự kiến kết quả thí nghiệm nên phần nào kích thích trí tò mò, khơi dậy khả năng phán đoán của các em. Học sinh sẽ hào hứng theo dõi thí nghiệm để so sánh với kết quả mà mình dự đoán. Ngoài ra, các em còn được giải thích diễn biến của thí nghiệm nên không khí học tập sôi nổi hơn. Mỗi em đưa ra cách giải thích riêng của mình sao cho phù hợp với kết quả tìm được. Theo cách 3, HS bắt đầu được làm thí nghiệm, nhưng sự tích cực của HS lại thể hiện ở các mức độ khác nhau. Khi được trực tiếp thực hành trên dụng cụ thí nghiệm, các em sẽ rất hào hứng. Đặc biệt, HS được tiến hành thí nghiệm theo nhóm sẽ tăng cường tinh thần tập thể, dễ thảo luận với nhau, cùng giúp đỡ nhau thực hiện nhiệm vụ nhóm mình. Tuy vậy ở cách 3, GV vẫn là người đưa ra cách tiến hành thí nghiệm, HS chưa thực sự được chủ động khám phá kiến thức mới. 8 Trong sách giáo viên (SGV) Khoa học 5, phần lớn các thí nghiệm được gợi ý tiến hành theo cách 3, đó là: GV nêu kiến thức khoa học - GV hướng dẫn HS làm thí nghiệm - HS làm thí nghiệm đối chiếu kết quả thí nghiệm với kiến thức khoa học. Như vậy, theo kết quả điều tra nói trên, GV đã có sự sáng tạo, linh hoạt (so với SGV) trong việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS. Với 5 cách tiến hành thí nghiệm đã nêu, tuy cách sau có nhiều ưu điểm hơn cách trước, nhưng vẫn chưa phát huy tối đa tính tích cực học tập của HS. Các em chỉ quan sát là chủ yếu, chưa được trực tiếp sử dụng và thao tác trên các dụng cụ thí nghiệm. Ở cách 3 và cách 4, HS được làm thí nghiệm để tìm ra kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV. Song cách làm việc của HS vẫn được GV chỉ dẫn khá cụ thể nên các em chỉ việc áp dụng một cách máy móc, không có sự sáng tạo, mặc dù HS có thể có cách làm khác. Ngoài ra, khi tất cả các nhóm cùng làm theo một cách thì khó có sự so sánh, đối chiếu kết quả đa dạng giữa các nhóm tổ. Trong khi đó giờ Khoa học, làm thí nghiệm không phải chỉ để thay đổi hình thức học tập, làm thí nghiệm cho vui mà thông qua thí nghiệm giúp học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học một cách rõ ràng, dễ hiểu và có thể nhớ lâu. Do đó khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm giáo viên cần xác định rõ mục đích của thí nghiệm, phải suy nghĩ xem mình tổ chức thí nghiệm nhằm mục đích gì? nhằm rút ra kiến thức, kỹ năng nào? Để từ đó có hướng thiết kế một cách phù hợp. Vì vậy khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm trong dạy học Khoa học chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để thiết kế thí nghiệm cho phù hợp. Muốn tổ chức được cho học sinh làm thí nghiệm trong dạy học Khoa học có hiệu cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau : - Cần xác định rõ mục đích, nhiệm vụ, thời gian làm thí nghiệm. - Lựa chọn thí nghiệm phù hợp với nội dung bài học và phải được chuẩn bị chu đáo. 2. Chuẩn bị chu đáo dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho từng bài dạy cụ thể: Để chuẩn bị cho một bài dạy môn Khoa học đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, từ việc chuẩn bị bài dạy, nghiên cứu nắm vững kiến thức khoa học, đến việc sưu tầm tài liệu, chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài dạy. Chính vì vậy, đối với những bài Khoa học cần phải chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm tôi nghiên cứu rất kỹ xem mình cần chuẩn bị những dụng cụ nào. Nếu bài nào khó, còn phân vân thì tôi sẽ đưa ra trong buổi sinh hoạt tổ chuyên môn để thống nhất xây dựng kế hoạch cụ thể về việc nên chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm đối với từng bài dạy cụ thể trong chương trình khoa học lớp 5 (có sử dụng phương pháp thí nghiệm). Sau đó phân công chuẩn bị và chia sẻ cùng nhau về đồ 9 dùng dạy học, tư liệu cho từng bài học. Qua nghiên cứu bài dạy, chúng tôi đã thống nhất phương án chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm cho các bài cụ thể sau đây: TT Tiết (theo PPCT) Tên bài Dụng cụ TN cần chuẩn bị 1 Đá vôi, xi măng Tiết 26, 27 Đá vôi, đá cuội, a xít, dấm, xi măng, nước. 2 Gạch, ngói Tiết 28 Gạch, ngói, chậu nước. 3 Thủy tinh Tiết 29 Cốc, chén, lọ thủy tinh 4 Cao su, chất dẻo Tiết 30, 31 Bóng cao su, sợi dây bằng cao su; nước sôi, nước lạnh, xăng, nến, bật lửa. 5 Chất dẻo Tiết 31 Các đồ dùng bằng nhựa 6 Sự chuyển thể của Tiết 35 chất 7 Hỗn hợp và dung Tiết 36, 37, Muối, mì chính, hạt tiêu, xi măng, dịch 38 cát, thìa, cốc, bếp, nồi, dầu ăn, nến 8 Sự biến đổi hóa Tiết 39, 40 học Nến (hoặc đèn cồn), giấy, dấm, chanh 9 Năng lượng Tiết 41 Nến, pin, ô tô đồ chơi 10 Sử dụng lượng điện Tiết 45 Pin, bóng đèn, dây điện. năng Nến, nước đá 3. Xây dựng góc học tập môn Khoa học. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học: 3.1. Xây dựng góc học tập môn Khoa học: Trong lớp học, góc học tập chính là nơi để các đồ dùng học tập, đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học của học sinh như sách vở, tranh ảnh, đồ dùng thí nghiệm, … do giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh cùng sưu tầm chuẩn bị. Ngoài ra đây cũng là nơi trưng bày sản phẩm học tập của học sinh theo từng tuần, từng tháng hoặc cả năm học. Góc học tập chính là nơi thu hút, lôi cuốn học sinh, giúp các em ghi nhớ, khắc sâu kiến thức sau mỗi giờ học, tạo cho các em niềm say mê cũng như hứng thú khi tham gia các hoạt động học tập. 10 Khi dạy các bài dạy khoa học có thí nghiệm, cuối mỗi giờ học tôi sẽ tổ chức từng nhóm thảo luận, thống nhất lại nội dung kiến thức đã học được trong bài học, chia sẻ trước lớp kết quả mình thu được cũng như cách vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó các em cùng thảo luận, bàn bạc, phân công các đồ dùng cần chuẩn bị cho tiết học sau (nếu có) phù hợp với khả năng của từng em. 3. 2. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học: Học sinh chủ động chuẩn bị từ ở nhà các loại đồ dùng phục vụ cho các hoạt động dạy và học trên lớp là nhân tố rất quan trọng quyết định đến sự thành bại của từng bài dạy cụ thể. Do đó để mỗi giờ học Khoa học thực sự hiệu quả và lôi cuốn học sinh thì ngoài bản thân mỗi giáo viên phải tự thân vận động và luôn luôn có ý chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ thí nghiệm để phục vụ bài giảng của mình. Bên cạnh đó, giáo viên nên khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh cùng tham chuẩn bị phục vụ cho việc học tập môn Khoa học. Đây là việc làm rất cần thiết vì qua tìm hiểu, chuẩn bị học sinh đã phần nào đó nắm được một số kiến thức liên quan đến nội dung bài học từ đó giúp các em nhớ lâu kiến thức hơn vì kiến thức tự học sinh tìm tòi khám phá bao giờ cũng ấn tựơng sâu sắc trong tâm trí các em. Để vận động phụ huynh cùng tham gia chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm với học sinh ngay từ đầu năm học tôi đã nghiên cứu chương trình, triển khai các nội dung cần chuẩn bị đến phụ huynh, kêu gọi phụ huynh cùng tham gia vào quá trình chuẩn bị đồ dùng học tập của học sinh trong đó có các đồ dùng phục vụ cho thí nghiệm khoa học. Sau khi được sự thống nhất đồng ý của phụ huynh, với các tiết học có sử dụng đồ dùng thí nghiệm tôi sẽ lên kế hoạch, gửi phiếu đề nghị các dụng cụ thí nghiệm cần sự hỗ trợ của phụ huynh trước một tuần và có ghi rõ những dụng cụ cần phụ huynh hỗ trợ cũng như thời gian học sinh mang đến lớp phục vụ cho các hoạt động học tập. Ví dụ: Phiếu đề nghị phụ huynh hỗ trợ đồ dùng thí nghiệm: STT 1 Tên bài Hỗn hợp và dung dịch Hoạt động DH HĐ 2 Đồ dùng cần chuẩn bị Ngày dạy Thời gian mang đến lớp Muối, nước, dầu ăn, 5.2.2018 2.2.2018 cốc, thìa. HĐ 5 và Bếp ga mi ni, muối, HĐ2 cốc, thìa, nồi, đĩa (HĐTH) nhỏ, nến. Việc vận động phụ huynh cùng tham gia vào việc chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm giúp phụ huynh hiểu được một phần quá trình học tập của các em. Học sinh có thể nhờ cha mẹ giúp hoặc cùng các em, hỗ trợ các em chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm. Qua đó giúp giáo viên hoàn thành tốt mục tiêu bài học. 11 HS chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm Trưng bày đồ dùng góc Khoa học 4. Vận dụng các kỹ thuật dạy học tích cực: Kỹ thuật “Trình bày một phút”; Kĩ thuật “Viết tích cực” trong việc hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm: Trong dạy học nói chung và dạy học khoa học nói riêng việc vận dụng các kỹ thuật dạy học tích cực là vô cùng quan trọng. Do đó tùy thuộc vào nội dung từng bài học mà giáo viên lựa chọn các kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong thực hành thí nghiệm tôi thường sử dụng kỹ thuật “Trình bày một phút”. Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng nhóm, cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào. Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau: - Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học hoặc sau một hoạt động thí nghiệm nào đó), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc sau khi làm thí nghiệm là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp sau khi làm thí nghiệm?... - HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. - Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm sau khi làm thí nghiệm. Bên cạnh đó nhằm giúp học sinh tóm tắt nội dung đã học, phản hồi cho giáo viên về việc nắm kiến thức của các em và những chỗ các em còn băn khoăn thắc mắc hoặc hiểu sai sau khi thực hành thí nghiệm, giáo viên nên sử dụng kĩ thuật viết tích cực trong tiết học. Giáo viên có thể tiến hành như sau: 12 - Giáo viên đặt câu hỏi: Các em đã nắm được gì sau khi thực hành thí nghiệm? Các em còn băn khoăn gì sau khi làm thí nghiệm? các em hãy suy nghĩ viết ra giấy trong thời gian 2, 3 phút. - Học sinh chia sẻ. Giáo viên cùng học sinh giải đáp (nếu có) và chốt lại. Học sinh hào hứng tham gia phát biểu ý kiến:Trình bày một phút * Một số lưu ý khi sử dụng các kỹ thuật dạy học 1 phút: - Câu hỏi của GV không nên đề cập đến nhiều vấn đề, tránh việc trình bày của HS bị phân tán, dài dòng, thiếu tập trung. - Bên cạnh đó, cần khích lệ HS khi trình bày để HS tự tin, hứng thú. Chỉ đạo HS lắng nghe và chia sẻ sản phẩm của bạn về cả nội dung và cách thức trình bày. - Mỗi HS chỉ trình bày trong thời gian một phút, không nên cho nhiều HS trình bày cùng một nội dung để tránh mất thời gian cho những hoạt động khác. 5. Sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh: Để sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tích cực học tập của HS, có thể tiến hành thí nghiệm theo cách sau: - GV nêu vấn đề (kiến thức khoa học được nêu ra dưới dạng câu hỏi mở). - HS đưa ra cách tiến hành, dự kiến kết quả. - HS làm thí nghiệm, giải thích hiện tượng và rút ra kiến thức khoa học. [6] Đây là cách làm có thể đòi hỏi những điều kiện nhất định (HS có khả năng tiếp thu nhanh, GV có trình độ vững vàng về Khoa học tự nhiên, có khả năng xử lí tốt các tình huống về chuyên môn và sư phạm…) Song, nếu GV mạnh dạn tìm tòi suy nghĩ và vận dụng cách hướng dẫn nói trên, hiệu quả dạy học nhất định sẽ từng bước được nâng cao. Có thể cụ thể hóa trình tự tiến hành thí nghiệm theo cách trên như sau: Bước 1. Nêu vấn đề: GV nêu vấn đề (kiến thức khoa học) dưới dạng câu hỏi. 13 Bước 2. HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm. Bước 3. Tiến hành thí nghiệm: - HS đưa ra cách tiến hành thí nghiệm của mình. HS có cùng cách làm thì tập hợp thành một nhóm, như vậy trong lớp sẽ tạo được nhiều nhóm, mỗi nhóm có cách tiến hành khác nhau. Các HS cùng nhóm cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết. - Các nhóm lấy những dụng cụ cần thiết, tiến hành thí nghiệm. Bước 4. Thu thập kết quả: Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi các kết quả thu được. Bước 5. Giải thích kết quả: HS đối chiếu kết quả thu được với các giả thuyết ban đầu theo phiếu học tập sau: Phiếu học tập: Thí nghiệm tiến hành Dự đoán kết quả Kết quả thu được …………………………. …………………………. …………………………. - Giải thích một số hiện tượng. - HS tự rút ra kết luận tạm thời, phù hợp với sự vận dụng kiến thức của các em. - Bước 6. Kết luận: HS đối chiếu kết quả tìm được với kiến thức trong SGK. 6. Một số hoạt động minh họa cho bài dạy cụ thể: 6.1. Ví dụ 1: Bài 14: Đá vôi, xi măng – HDH Khoa học 5 (Tập 1) Hoạt động 2: Tính chất của đá vôi, xi măng: Bước 1: Nêu vấn đề: GV nêu: Qua hoạt động 1, các em đã biết nước ta có nhiều vùng núi đá vôi với những hang động nổi tiếng như: Hương Tích (Hà Tây), Bích Động (Ninh Bình), Phong Nha (Quảng Bình) và các hang động khác. Ngoài ra chúng ta còn biết được lợi ích của đá vôi đối với đời sống con người. Vậy đá vôi có những tính chất gì? - GV yêu cầu HS mô tả bằng lời những hiểu biết của mình về tính chất của đá vôi : + Tất cả những thắc mắc của các em là đều muốn biết: một số tính chất của đá vôi. + Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này, theo em chúng ta tiến hành cách thí nghiệm - nghiên cứu nào? Bước 2: HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm - Lấy đá vôi cọ sát lên hòn đá cuội rồi lấy đá cuội cọ sát đá vôi - Nhỏ một vài giọt axit loãng hoặc dấm lên một hòn đá cuội và một hòn đá vôi Bước 3: Tiến hành thí nghiệm 14 - Những HS có chung cách tiến hành thí nghiệm sẽ tập hợp lại thành nhóm, cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của nhóm mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết. HS ghi (hoặc vẽ) những gì định làm vào vở. - Các nhóm lấy dụng cụ thí nghiệm cần thiết và tiến hành thí nghiệm. GV đến từng nhóm quan sát, giúp đỡ HS nếu cần thiết. - Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình làm thực hành. (Hình ảnh học sinh đang thực hành làm thí nghiệm trên đá vôi) Bước 4: Thu nhập kết quả Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi về các kết quả đạt được. So sánh kết luận với ý kiến ban đầu để khắc sâu kiến thức: VD: Nhóm 1: Cọ sát một hòn đá vôi vào một hòn đá cuội: Trên mặt đá vôi chỗ cọ sát với đá cuội bị mòn. Trên mặt đá cuội chỗ cọ sát có màu trắng đó đá vôi vụn ra dính vào.Vì vậy đá vôi mềm hơn đá cuội (đá cuội cứng hơn đá vôi). Nhóm 2. Nhỏ a xít, dấm lên đá vôi, đá cuội. - Đá vôi sủi bọt, có khí bay lên: Đá vôi tác dụng với dấm (a xít) tạo thành một chất khác và có khí các bô- ních sủi lên. - Đá cuội không sủi bọt, không có khí bay lên, a xít và dấm chảy đi: Đá cuội không phản ứng với a xít. Bước 5 : Kết luận : Đá vôi không cứng lắm, dưới tác dụng của a xít đá vôi bị sủi bọt. 6.2. Ví dụ 2: Bài 17: Cao su, chất dẻo – HDH Khoa học 5 (Tập 1) Hoạt động 2: Tính chất của cao su: Bước 1: Nêu vấn đề GV nêu: Qua hoạt động 1, các em đã biết một số dụng cụ được làm bằng cao su. Bây giờ muốn biết được tính chất của cao su chúng ta phải làm như thế nào? - Em có băn khoăn, thắc mắc hãy đưa ra những câu hỏi. 15 + GV ghi bảng: VD: Cao su có bị biến đổi khi gặp nóng không? + Khi lạnh cao su có bị biến đổi không? + Cao su có tan trong nước không? + Cao su có tính đàn hồi không? + Cao su có cách nhiệt, cách điện không? - Chúng ta cần làm gì giải quyết thắc mắc trên? Vậy phương án tối ưu nhất bây giờ là làm thí nghiệm. Bước 2: HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm - Ném quả bóng cao su xuống sàn nhà hoặc vào tường. - Kéo căng một sợi dây cao su rồi buông tay ra. - Thả một miếng cao su vào trong nước lạnh, sau đó lấy ra và thả vào cốc nước nóng. - Cho một chiếc thìa nhôm và một đầu dây cao su vào cốc nước nóng. Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: Những HS có chung cách tiến hành thí nghiệm sẽ tập hợp lại thành nhóm, cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của nhóm mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết. HS ghi (hoặc vẽ) những gì định làm vào vở. - Các nhóm lấy dụng cụ thí nghiệm cần thiết và tiến hành thí nghiệm. GV đến từng nhóm quan sát, giúp đỡ HS nếu cần thiết. Bước 4: Thu nhập kết quả Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi về các kết quả đạt được. VD: Hình ảnh HS làm thí nghiệm để tìm ra tính chất của cao su - Nhóm 1,2: Cao su có tính đàn hồi tốt. - Nhóm 3: Cao su ít bị biến đổi khi gặp nóng lạnh. Không tan trong nước mà tan trong một số chất lỏng khác. 16 - Nhóm 4: Cao su có tính cách điện, cách nhiệt. Bước 5 : Kết luận: Cao su có tính đàn hồi, ít bị biến đổi khi gặp nóng lạnh, cách điện cách nhiệt, không tan trong nước, tan trong một số chất lỏng khác. 6.3. Ví dụ 3: Bài 20: Hỗn hợp và dung dịch – HDH Khoa học 5 (Tập 2) Hoạt động 2: Cách tách các chất trong dung dịch Bước 1: Nêu vấn đề: GV nêu: Qua hoạt động 1, các em đã biết cách tạo ra một dung dịch. Bây giờ muốn tách các chất ra khỏi dung dịch, chúng ta phải làm như thế nào? Hãy đưa ra phương án tách muối ra khỏi nước để có nước tinh khiết và muối. Bước 2: HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm Dự kiến các phương án HS có thể đưa ra: - Úp đĩa lên một cốc nước muối nóng; - Đổ dung dịch vào một đĩa nóng rồi phơi nắng; - Cho dung dịch vào chảo rồi đun cho nước bốc hơi. Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: Những HS có chung cách tiến hành thí nghiệm sẽ tập hợp lại thành nhóm, cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của nhóm mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết. HS ghi (hoặc vẽ) những gì định làm vào vở. - Các nhóm lấy dụng cụ thí nghiệm cần thiết và tiến hành thí nghiệm. GV đến từng nhóm quan sát, giúp đỡ HS nếu cần thiết. HS làm thí nghiệm tách các chất ra khỏi dung dịch Bước 4: Thu nhập kết quả Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi về các kết quả đạt được. Sau đó so sánh các chất mà từng nhóm tách được sau quá trình thí nghiệm, VD: - Nhóm 1: Thu được nước tinh khiết và muối. - Nhóm 2: Thấy nước muối còn lại ít hơn và mặn hơn dung dịch ban đầu. 17 - Nhóm 3: Thu được muối. Bước 5: Giải thích kết quả: - Nhóm 1: Úp đĩa lên cốc nước muối nóng, những giọt nước đọng lại trên đĩa không có vị mặn như nước muối trong cốc. Vì chỉ có hơi nước bốc lên, khi gặp lạnh sẽ ngưng tụ lại thành nước, muối vẫn còn ở dung dịch trong cốc. - Nhóm 2: Khi phơi nắng dung dịch, nước bốc hơi và bay vào không khí. Vì nhiệt độ và thời gian chưa đủ để nước bốc hơi hoàn toàn nên nước muối còn lại trong cốc sẽ mặn hơn. - Nhóm 3: Khi dung dịch được đun lên, ở nhiệt độ cao, nước bốc hơi nhanh và nhiều. Vì vậy, ta thu được muối kết tinh ở đáy chảo. Bước 6: Kết luận Bằng cách chưng cất nước muối, ta thu được muối và nước tinh khiết. Tương tự như vậy, ta có thể tách được đường và nước ra khỏi nước đường. Vậy, chưng cất là một cách dùng để tách các chất ra khỏi dung dịch. Liên hệ thực tế: Để sản xuất muối từ nước biển, người ta dẫn nước biển vào các ruộng làm muối, dưới ánh nắng mặt trời, nước sẽ bốc hơi và còn lại muối. Người ta cũng chưng cất nước ép từ cây mía để sản xuất ra đường… Có thể nói, qua cách sử dụng phương pháp thí nghiệm của 3 bài học minh họa nêu trên, HS không những được trực tiếp làm thí nghiệm mà còn được đưa ra những phương án tiến hành riêng của mình, được dự kiến các kết quả đạt được. Cách tiến hành như vậy sẽ kích thích trí tò mò và phát huy được tính tích cực nhận thức của HS. Bên cạnh đó, HS cũng sẽ có cơ hội đặt ra nhiều câu hỏi và thấy có nhiều điều lí thú để tìm tòi. Từ người quan sát thụ động như ở cách các thí nghiệm khác, các em sẽ trở nên chủ động hơn. GV không định hướng các giả thiết mà để HS tự nghĩ ra chúng, tự phát biểu các bước tiến hành thí nghiệm cụ thể để thực hiện được điều các em muốn tìm ra. Trong một số trường hợp, GV chỉ yêu cầu các em tự phác họa hay vẽ sơ đồ thiết bị thí nghiệm, tìm ra vật liệu và đối chiếu kết quả thí nghiệm. Sau đó, qua thảo luận, bàn bạc trước lớp, HS sẽ có một kết quả toàn diện, chính xác hơn và các giả định còn lại sẽ bị bác bỏ. HS luôn tin vào GV, song những khẳng định của GV cũng khó xóa nhòa được những gì các em cho là đúng. Chỉ có đối chiếu với thực tế thì mới thay đổi được một cách sâu sắc nhận thức của các em. VD: Với người lớn thì hiện tượng nước sôi ở 100 0C được coi như một điều hiển nhiên, song với HS lại là một điều mới lạ. Có thể nhiều em chỉ nghĩ đơn giản là càng đun sôi lâu thì nhiệt độ của nước càng tăng lên. Vì vậy, nếu HS được trực tiếp đo nhiệt độ của nước đang sôi thì các em sẽ dễ dàng chấp nhận kiến thức: nước chỉ sôi ở 1000C. Với cách tiến hành thí nghiệm nêu trên, có thể SGK không còn đóng vai trò chỉ dẫn thao tác thí nghiệm mà trở thành nơi để các em đối chiếu kết quả nhằm chính xác hóa kiến thức do bản thân tự rút ra. Việc cho HS tham gia đề 18 xuất cách tiến hành thí nghiệm và tự làm thí nghiệm chính là tạo cho các em cơ hội nhớ lại và suy nghĩ về những hiện tượng tự nhiên, tìm cách giải thích chúng để khám phá nhiều điều kì thú của khoa học. Tuy nhiên khi học sinh thực hành làm thí nghiệm giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đến độ an toàn. Giáo viên luôn luôn nhắc nhở các em đọc kỹ hướng dẫn và suy nghĩ trước khi làm thí nghiệm. Luôn luôn nhận biết nơi để các trang thiết bị an toàn, không để những điều xấu xảy ra trong khi làm thí nghiệm. IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: 1. Đối với giáo viên: Trước đây khi chưa tìm hiểu sâu về tác dụng, vai trò của phương pháp thí nghiệm, bản thân cũng như những giáo viên trong tổ chuyên môn chỉ tổ chức dạy học dựa trên định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên. Hiện nay, không chỉ bản thân tôi mà mỗi giáo viên ở Trường Tiểu học Cẩm Châu đã quan tâm thường xuyên đến việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học. 2. Đối với học sinh: Các tiết học môn Khoa học có các hoạt động thí nghiệm đã trở nên hấp dẫn hơn, thu hút học sinh, giúp các em tiếp thu bài một cách dễ dàng. Học sinh được tri giác trực tiếp đối tượng cần nghiên cứu trong quá trình thí nghiệm qua đó phát triển năng lực nhận thức của học sinh. Đặc biệt là khả năng quan sát tư duy giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của thông tin thu được từ thí nghiệm ... Phương pháp thí nghiệm không những làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học tập bộ môn, nâng cao niềm tin của học sinh vào khoa học mà còn là động lực thúc đẩy học sinh yêu thích môn khoa học. Trong giờ học các em đã có hứng thú và làm việc tích cực. Các em biết tư duy, vận dụng lí thuyết vào thực hành thí nghiệm một cách thành thạo, biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Tiết học khoa học không còn là tiết học khô cứng mà trở nên hấp dẫn và thu hút học sinh. Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh và nhận được kết quả như sau: Lớp 5A TS HS 33 Số HS nắm chắc lí thuyết và thực hành tốt thí nghiệm Số HS nắm chắc lí thuyết nhưng chưa thực hành tốt thí nghiệm Số HS chưa nắm chắc lí thuyết, chưa thực hành tốt thí nghiệm SL TL SL TL SL TL 23 70% 7 21% 3 9% 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan