Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự biến đổi vai trò của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa...

Tài liệu Sự biến đổi vai trò của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa

.PDF
162
376
83

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ HUYỀN SỰ BIẾN ĐỔI VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ HUYỀN SỰ BIẾN ĐỔI VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG PGS. TS. NGUYỄN ANH TUẤN PGS.TS. NGUYỄN VŨ HẢO Hà Nội - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết quả và nội dung của luận án là trung thực, chưa được công bố ở những công trình nghiên cứu khác. Tác giả Trần Thị Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................4 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................6 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................................6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................6 5. Cái mới của luận án .............................................................................................7 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ..............................................................7 7. Kết cấu của luận án .............................................................................................7 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .......................................................................................................................8 1.1. Toàn cầu hóa ....................................................................................................8 1.2. Vai trò của nhà nƣớc......................................................................................12 1.2.1. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế ............................................12 1.2.2. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực chính trị ........................................19 1.2.3. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa – xã hội ...........................22 1.3. Sƣ ̣ biế n đổ i vai trò của nhà nƣớc trong bố i cảnh toàn cầ u hóa ...............24 1.3.1. Sự suy giảm vai trò của nhà nước ...........................................................24 1.3.2. Sự gia tăng vai trò của nhà nước ............................................................28 1.4. Sƣ ̣ biế n đổ i vai trò của nhà nƣớc Viêṭ Nam trong bố i cảnh toàn cầ u....... hóa32 CHƢƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ........38 2.1. Vai trò của nhà nƣớc....................................................................................38 2.1.1. Quan niệm trước Mác về vai trò của nhà nước ......................................38 2.1.2. Quan niệm của Triết học Mác về vai trò của nhà nước .........................44 2.2. Toàn cầu hóa và tác động của toàn cầu hóa đến vai trò của nhà nƣớc...49 2.2.1. Toàn cầu hóa ...........................................................................................49 2.2.2. Toàn cầu hóa – những vấ n đề đặt ra với vai trò của nhà nước ..............54 2.2.3. Xu hướng biến đổi vai trò của nhà nước trong bố i cảnh toàn cầ u ho......... ́ a 66 Kết luận chƣơng 2 ...............................................................................................71 1 CHƢƠNG 3. SỰ BIẾN ĐỔI VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ..........................................................................................73 3.1. Sự biến đổi vai trò của nhà nƣớc trong lĩnh vực kinh tế ..........................73 3.1.1. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế ...........................................73 3.1.2. Sự biến đổi vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa ......................................................................................................78 3.2. Sự biến đổi vai trò của nhà nƣớc trong lĩnh chính trị ..............................87 3.2.1. Vai trò của nhà nước trong liñ h vực chính tri ̣ ........................................87 3.2.2. Tác động của toàn cầu hóa đến sự biến đổi vai trò của nhà nước trong lĩnh vực chính trị ...............................................................................................90 3.3. Sự biến đổi vai trò của nhà nƣớc trong lĩnh vực văn hóa ........................97 3.3.1. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa .........................................97 3.3.2. Tác động của toàn cầu hóa đến sự biến đổi vai trò của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa ..............................................................................................102 Kết luận chƣơng 3 .............................................................................................107 CHƢƠNG 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƢỚC VIỆT NAM........................................................................................................................108 4.1. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của nhà nƣớc trong lĩnh vực kinh tế và kiến nghị với nhà nƣớc Việt Nam ....................................................................109 4.1.1. Xây dựng thể chế phối hợp hiệu quả giữa nhà nước và thị trường...............109 4.1.2. Tăng cường tính cạnh tranh ở các khu vự công c cộng................................112 4.1.3. Một số kiến nghị với nhà nước Việt Nam về thực hiện vai trò trong lĩnh vực kinh tế .......................................................................................................114 4.2. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của nhà nƣớc trong lĩnh vực chính trị và kiến nghị với nhà nƣớc Việt Nam ...............................................................120 4.2.1. Ngăn ngừa sự độc đoán của nhà nước ......................................................121 4.2.2. Xây dựng các thể chế tăng cường tính dân chủ của nhà nước .....................123 4.2.3. Một số kiến nghị với nhà nước Việt Nam về thực hiện vai trò trong lĩnh vực chính trị ....................................................................................................126 2 4.3. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của nhà nƣớc trong lĩnh vực văn hóa và kiến nghị với nhà nƣớc Việt Nam ...............................................................130 4.3.1.Chủ động hội nhập nhằm phát huy những giá trị văn hóa truyền thống........130 4.3.2 Tăng cường đối thoại văn hóa ...................................................................132 4.3.3. Một số kiến nghị với nhà nước Việt Nam về thực hiện vai trò trong lĩnh vực văn hóa .....................................................................................................135 Kết luận chƣơng 4 .............................................................................................141 KẾT LUẬN ............................................................................................................143 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦ A TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...............................................................................................................147 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................148 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cùng với quá trình sinh thành của mình nhà nước dần xác lập vai trò của nó trên tất cả các lĩnh vực. Việc trả lời cho câu hỏi chúng ta có cần đến nhà nước hay không, cần đến nhà nước để làm gì cũng chính là quá trình luận chứng và xác lập vai trò của nhà nước. Với lịch sử lâu dài của nhà nước, vai trò của nhà nước không bất biến, mà ngược lại luôn có sự biến động và thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Vào những thập niên cuối của thế kỉ XX, các quốc gia đang phải đối diện với một hiện thực mới mẻ, chính là quá trình toàn cầu hóa đương đại. Có thể thấy, toàn cầu hóa là một quá trình mang tính khách quan của thời đại, đã, đang và sẽ có ảnh hưởng và tác động không nhỏ đến những lĩnh vực mà nó lướt qua trên thế giới này. Cùng một hiện tượng, trong một khu vực không gian, cùng một khoảng thời gian nhưng tác động của nó lên các đối tượng không đồng đều. Chính vì vậy mà cùng một hiện tượng nhưng phản ứng với nó hết sức đa dạng, bên cạnh tâm trạng tin tưởng, cổ vũ là trạng thái hoài nghi, chống đối. Tuy nhiên, nếu khẳng định toàn cầu hóa là xu thế mang tính khách quan thì bản thân mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cũng như mỗi cá nhân không thể lảng tránh được xu hướng ấy. Xu thế phát triển nói chung ấy của thế giới khiến cho mỗi quốc gia không thể tự thu mình vào trong vỏ ốc của đường biên giới và lãnh thổ mỗi nước mà nó cần phải mở cửa, hoà nhập với thế giới bên ngoài, hoà nhịp với bối cảnh chung của thời đại và hơn thế, trong giai đoạn này, mỗi quốc gia không đơn thuần chỉ là hòa nhập mà còn phải hòa nhập một cách tích cực vào quá trình ấy, chỉ có như vậy mỗi quốc gia mới có thể tồn tại và phát triển trong thời đại ngày nay. Toàn cầu hóa là quá trình hội nhập không ngừng của các quốc gia vào hệ thống toàn cầu trên tất cả các phương diện, đặc biệt là phương diện kinh tế. Trong xu thế chung ấy, Việt Nam cũng không ngừng vươn ra để hội nhập cùng thế giới, hòa nhập vào nền kinh tế chung của khu vực cũng như toàn cầu.Trong bối cảnh đó, nhà nước cần và nên phát huy vai trò của mình như thế nào để có thể tận dụng được tối đa lợi thế do toàn cầu hóa đưa lại cũng như giảm thiểu tốt nhất những nguy cơ và rủi ro mà quá trình này mang đến. 4 Hơn thế, song hành cũng như cộng hưởng cùng toàn cầu hóa là cuộc cách mạng công nghệ và thông tin, đặc biệt là sự xuất hiện của Internet. Thông tin đang trở thành một nguồn quyền lực mềm bên cạnh nguồn quyền lực chính thống của các nhà nước.Trong tình huống ấy, nhà nước đang phải xử trí thế nào cũng như phải thay đổi ra sao khi quyền lực nhà nước không phải là trung tâm và duy nhất. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa dường như đang làm xói mòn những giá trị thuộc về bản sắc, làm suy giảm và phá vỡ tính ổn định của những cộng đồng cũng như bản sắc chung của cộng đồng quốc gia trong xu thế hòa nhập các giá trị vào giá trị chung của nhân loại. Trong tình huống này, nhà nước thể hiện vai trò của mình ra sao để đảm bảo cho yếu tố bản sắc ấy được giữ vững, được phát huy, tránh rơi vào tình trạng cực đoan của chủ nghĩa dân tộc, song cũng không bị cuốn vào dòng xoáy của toàn cầu hóa, khiến cho cái hồn cốt của cộng đồng dân tộc bị tan chảy. Đứng trước những biến đổi hiện thực của nhà nước cũng như những khuynh hướng khác nhau trong nhận định về số phận cũng như vai trò của nhà nước thôi thúc chúng ta đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhà nước và vai trò của nó đang có những biến đổi ra sao, vai trò của nó trong tương lai sẽ như thế nào? Liệu rằng cùng với toàn cầu hóa, nhà nước sẽ dần mất đi địa vị và vai trò vốn có trước kia của mình, nhường chỗ cho những thiết chế mang tính siêu dân tộc, thay thế nhà nước trong quá khứ để giải quyết những vấn đề chung hay nó vẫn giữ lại vai trò lịch sử trong kỉ nguyên mới và thực hiện những chức năng mới trong việc giải quyết những vấn đề do toàn cầu hóa làm nảy sinh? Tấ t cả những v ấn đề đó khiến cho sự biến đổi của nhà nước nói chung cũng như sự biến đổi vai trò của nhà nước nói riêng trở thành mối quan tâm không nhỏ của các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có triết học.Với tính cấp thiết và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu, tác giả quyết định chọn vấn đề “Sự biến đổi vai trò của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hoá” làm đề tài nghiên cứu trong luận án của mình. 5 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận án phân tích những khuynh hướng biến đổi vai trò của nhà nước nói chung trên các phương diện trong bối cảnh toàn cầu hóa, qua đó đề xuất những giải pháp tương ứng, nhằm nâng cao tính hiệu quả của nhà nước nói chung cũng như liên hệ với nhà nước Việt Nam nói riêng trong thực hiện vai trò của mình. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Làm rõ những vấn đề lí luận chung về vai trò của nhà nước, toàn cầu hóa cũng như những vấn đề toàn cầu hóa đặt ra đối với nhà nước nói chung trên các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa. + Phân tích khuynh hướng biến đổi về vai trò của nhà nước trên các phương diện như: kinh tế, chính trị, văn hóa. + Đề xuất một số giải pháp với nhà nước nói chung và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả của nhà nước trong việc thực hiện những vai trò của mình, đáp ứng các yêu cầu của bối cảnh toàn cầu hóa xuất phát từ điều kiện đặc thù của Việt Nam. 3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận án được triển khai dựa trên quan điểm mácxít về nhà nước, về quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng như về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. - Phương pháp nghiên cứu: Luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic, hệ thống - cấu trúc… 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Sự biến đổi vai trò của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. - Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung vào nghiên cứu sự biến đổi vai trò của nhà nước trước tác động của toàn cầu hóa trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa. 6 5. Cái mới của luận án - Luận án trình bày một cách có hệ thống các xu hướng biến đổi vai trò của nhà nước trước tác động của toàn cầu hóa. - Luận án đã luận chứng, trong bố i cảnh toàn cầ u hóa , mă ̣c dù nhà nước nói chung và vai trò của nhà nước nói riêng có nhiề u biế n đổ i song không vì thế mà nhà nước mất đi vai trò của mình. Trong bố i cảnh mới , nhà nước s ẽ điều chỉnh vai trò của mình cho phù hợp để nó vẫn tiếp tục tồn tại như một thiết chế quan trọng ở tất cả các quốc gia. - Luận án bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của nhà nước nói chung cũng như đề xuất một số kiến nghị với nhà nước Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện những vai trò của mình trước các đòi hỏi và thách thức của toàn cầu hoá. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: luận án góp một góc nhìn toàn diện hơn về nhà nước và vai trò của nó, đồng thời cũng chỉ ra bức tranh chung về sự biến đổi vai trò của nhà nước trước tác động của bối cảnh toàn cầu hóa, từ đó đề xuất một số kiến nghị có tính giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện những vai trò của nhà nước trong bối cảnh hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo về vấn đề toàn cầu hóa và tác đô ̣ng của bố i cảnh toàn cầ u hóa đ ến nhà nước, vai trò của nhà nước, những biến đổi về vai trò của nhà nước. Luận án bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực của nhà nước, đáp ứng vai trò của nó trong bối cảnh toàn cầu hóa. 7. Kết cấu của luận án - Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương và 12 tiết. 7 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Nhà nước là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học cũng như được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm khảo sát ở rất nhiều góc độ khác nhau, từ lí luận chung đến các vấn đề thực tiễn. Tuy nhiên trong phạm vi của luận án, chúng tôi tiến hành khảo sát những tài liệu có liên quan trực tiếp đến những biến đổi vai trò của nhà nước trước tác động của toàn cầu hóa. 1.1. Toàn cầu hóa Toàn cầu hóa là một hiện tượng khách quan đa chiều. Do đó, khi bàn đến toàn cầu hóa cũng có rất nhều các tài liệu, dưới những góc độ khác nhau đề cập đến hiện tượng này. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án, tác giả chỉ phân tích những công trình bàn đến toàn cầu hóa như một hiện thực đang trực tiếp tác động và tạo ra sự biến đổi của các nhà nước. Công trình đầu tiên cần kể đến là hai tác phẩm nổi tiếng của T. L.Friedman: Chiếc lexus và cây Oliu do Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2000 và cuốn Thế giới phẳng do Nxb.Trẻ, TPHCM xuất bản năm 2006. Đây là hai tác phẩm của Friedman bàn trực tiếp đến toàn cầu hóa và những tác động mạnh mẽ của hiện tượng này đến các mặt của xã hội (trong đó có các nhà nước). Cuốn sách thứ nhất hướng đến trả lời câu hỏi: Toàn cầu hóa là gì? Toàn cầu hóa, theo quan điểm của Friedman, không phải là một hiện tượng mang tính khách quan bao gồm cả những mặt tốt và xấu. Theo tác giả, toàn cầu hóa là một hệ thống quan hệ quốc tế , nó bắt nguồn (khởi phát) từ sau thời kì chiến tranh lạnh và là một hệ thống quan hê ̣ quốc tế thay chỗ cho hệ thống chiến tranh lạnh. Hệ thống này có nhiều điểm khác biệt với hệ thống chiến tranh lạnh. Thông qua việc chỉ ra những khác biệt của hai hệ thống này, ông đã khắc họa những đặc trưng cốt lõi của toàn cầu hóa. Nếu như đặc trưng của hệ thống chiến tranh lạnh là sự chia cắt thì đặc trưng của hệ thống toàn cầu hóa là sự hội nhập và web (hay mạng lưới những kết nối vô hình). Động lực của toàn cầu hóa chính là chủ nghĩa tư bản dựa trên kinh tế thị trường - tức thị trường càng tự do thì nền kinh tế càng hiệu quả và tăng trưởng 8 nhanh. “Toàn cầu hóa nghĩa là chủ nghĩa tư bản kinh tế thị trường lan toả vào hầu khắp mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, toàn cầu hóa hình thành cho riêng nó một hệ thống luật lệ kinh tế”[31, tr. 46]. Đồng thời, quá trình này cũng mang một sắc thái văn hóa riêng, bao trùm và có xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân tới một mức độ nhất định. Thước đo của toàn cầu hóa chính là tốc độ kết nối. Đặc trưng quan trọng nhất của toàn cầu hóa chính là cấu trúc quyền lực đã có sự thay đổi: nền tảng trong quan hệ chính trị thời chiến tranh lạnh chính là các nhà nước - dân tộc trong tương quan đối đầu, đối trọng và liên kết, thì nay trong hệ thống toàn cầu hóa được xây dựng quanh ba cán cân: sự đối trọng giữa các nước (chủ yếu là Hoa Kỳ và các nước), thứ hai là giữa các quốc gia và thị trường toàn cầu; thứ ba là sự đối trọng giữa các cá nhân và nhà nước. Thêm một phần quan trọng nữa của toàn cầu hóa được đề cập tới trong cuốn sách này chính là 6 chiều cạnh của hệ thống toàn cầu: trao đổi thông tin, chính trị, văn hóa, môi trường, thị trường tài chính và an ninh quốc gia. Các khía cạnh này có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau. Trong cuốn sách thứ hai – “Thế giới Phẳng” tiếp nối cuốn sách Chiếc Lexus và cây oliu, tác giả đã khái lược lịch sử thế giới thế kỉ XXI, qua đó cho chúng ta thấy được quan niệm, cách nhìn của tác giả về toàn cầu hóa như thế nào. Rõ ràng, toàn cầu hóa là một quá trình liên tục không ngừng nghỉ cho dù ta có ý thức về sự tồn tại của nó hay không thì nó vẫn cứ diễn ra. Nếu như có nhiều quan niệm cho rằng, toàn cầu hóa chỉ như một trạng huống, một tiến trình thì với Friedman, toàn cầu hóa là sự vận động hay quá trình mang tính hệ thống. Sự tiến triển của toàn cầu hóa tương ứng với sự tiến triển của công nghệ: từ phần cứng đến phần mềm… Do đó, ông đã phân chia toàn cầu hóa thành ba thời kì tương ứng với những bước tiến triển này. Kỉ nguyên thứ nhất kéo dài từ 1492 khi Columbus tìm ra Châu Mĩ cho đến khoảng năm 1800. Đây là thời kì toàn cầu hóa 1.0. Toàn cầu hóa 1.0 đã làm cho thế giới co lại từ kích thước lớn thành kích thước trung bình. Toàn cầu hóa 1.0 đề cao các quốc gia và sức mạnh cơ học. Trong giai đoạn này, tác nhân then chốt thúc đẩy sự hội nhập của toàn cầu hóa là sức mạnh kĩ trị. Các quốc gia và chính phủ đã đi đầu trong việc phá bỏ các bức tường ngăn cách để liên kết với nhau, thúc đẩy sự hội nhập toàn cầu; Kỉ nguyên thứ hai là toàn cầu hóa 2.0 kéo dài từ những năm 9 1800 đến năm 2000, bị gián đoạn bởi hai cuộc đại chiến thế giới và cuộc đại khủng hoảng. Thời kì này làm thế giới co lại từ cỡ trung bình xuống còn cỡ nhỏ. Trong toàn cầu hoá 2.0 động lực của sự hội nhập là các công ty, các tập đoàn kinh tế. Các công ty đa quốc gia vươn ra toàn cầu để mở rộng thị trường, thu hút sức lao động… Hội nhập toàn cầu được thúc đẩy bởi sự tiết giảm phí giao thông do sự ra đời của động cơ hơi nước, đường sắt và sau đó là của điện tín, điện thoại, vệ tinh, cáp quang… Thời kì này chứng kiến sự trưởng thành của nền kinh tế toàn cầu về giao dịch hàng hóa và thông tin giữa các lục địa đủ lớn để hình thành thị trường toàn cầu. Đây là giai đoạn đột phá về công nghệ phần cứng; Vào khoảng năm 2000, toàn cầu hóa đã bước vào kỉ nguyên thứ ba với sự phát triển của Internet, thương mại điện tử… Thế giới chuyển từ nhỏ xuống siêu nhỏ và đồng thời san phẳng sân chơi toàn cầu. Động lực của toàn cầu hóa trong giai đoạn này chính là các cá nhân, các cá nhân được trao quyền cùng sự hỗ trợ của công nghệ đã vươn ra thế giới một cách dễ dàng trong một hệ thống thế giới phẳng. Hệ thống thế giới phẳng là sự hội tụ giữa máy tính cá nhân, cáp quang và phần mềm xử lí công việc. Tuy nhiên, điểm mấu chốt cho những phân kì nêu trên dựa trên những bước đột phá về công nghệ là chủ yếu. Do đó, về cơ bản ta nhận ra sự khác nhau trong phân định tiến trình lịch sử của toàn cầu hóa và thời điểm bắt đầu. Tuy nhiên, ở đây không có sự mâu thuẫn khi trong cuốn sách đầu tiên “chiếc Lexus và cây oliu” tác giả xác định thời kì sau chiến tranh lạnh là thời kì toàn cầu hóa đương đại, trong khi xét toàn cầu hóa như một tiến trình thì tiến trình này không phải là một quá trình gián đoạn với quá khứ mà liên tục, không ngừng nghỉ. Joseph E.Stiglitz (2008, Nguyễn Ngọc Toàn dịch), Toàn cầu hóa và những mặt trái của nó, Nxb.Trẻ, TPHCM. Cuốn sách bày tỏ sự đồng thuận của tác giả về toàn cầu hóa, ông coi toàn cầu hóa là quá trình tất yếu. Tuy nhiên, ông cũng có những chỉ trích nhất định với các thể chế đang điều hành quá trình toàn cầu: IMF, WTO, WB,… Liệu những nền quản trị toàn cầu này có thực sự đưa lại sự bình đẳng trên mọi phương diện hay không? (đặc biệt là bình đẳng trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại) khi nó chưa thực sự có những biện pháp hữu hiệu trong giải quyết các vấn đề đang làm tê liệt các quốc gia phát triển cũng như các chính sách 10 của nó làm cho tình hình của Nga và Đông Á trở nên tồi tệ hơn. Nói cách khác, việc thay thế vai trò của các chính phủ bằng các thể chế toàn cầu đang gặp phải những vấn đề nhất định. IMF với quan điểm cho rằng, dòng chảy kinh tế, tài chính của toàn cầu hóa sẽ xóa nhòa khoảng cách giàu nghèo, tạo nên sự bình đẳng giữa các nền kinh tế, song thực tế đã không cho thấy những điều nói trên là đúng… Do đó, cần xem xét lại vai trò cũng như chính sách của các tổ chức toàn cầu này. Manfred B. Steger (2011, Nguyễn Hải Bằng dịch), Toàn cầu hóa, Nxb.Tri Thức, HN. Cuốn sách này đã cung cấp cho độc giả một góc nhìn tương đ ối toàn diện về toàn cầu hóa như: toàn cầu hóa là gì, lịch sử của toàn cầu hóa và các chiều kích chính của toàn cầu hóa. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi đến một định nghĩa chung về toàn cầu hóa đó là: tính toàn cầu để chỉ một tình trạng xã hội được đặc trưng bởi những mối hỗ tương liên kết toàn cầu chặt chẽ về kinh tế, chính trị, văn hóa, môi trường và các luồng lưu chuyển đã khiến nhiều biên giới và ranh giới đang hiện hữu trở nên không còn thích hợp nữa. Do đó, “toàn cầu hóa là một tập hợp những tiến trình xã hội đang chuyển đổi tình trạng xã hội hiện tại với tính quốc gia ngày càng suy yếu thành tính toàn cầu” [101, tr.33, 34]. Đồng thời, tác giả cuốn sách cũng vạch ra bốn đặc điểm của toàn cầu hóa: thứ nhất, tạo nên và gia tăng các hoạt động và mạng lưới xã hội hiện hữu; thứ hai, là sự mở rộng các mối liên hệ phụ thuộc; thứ ba, là sự tăng cường các hoạt động trao đổi xã hội; thứ tư, các tiến trình toàn cầu hóa không chỉ diễn ra trên bình diện khách thể vật chất mà còn bao hàm bình diện chủ thể, ý thức. Cuốn sách cũng đã cung cấp cho độc giả những phân tích, mô tả về các kích thước khác nhau của toàn cầu hóa. Nó đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về toàn cầu hóa trên những tác động đa diện của toàn cầu hóa như: kinh tế, chính trị, văn hóa, môi sinh, các ý thức hệ… đồng thời, đưa ra những dự báo cho tương lai của toàn cầu hóa. Tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng, toàn cầu hóa đang đưa đến tự do và bình đẳng cho mọi người trên toàn thế giới, kết nối họ lại và phá bỏ những rào cản về chính trị, văn hóa… được dựng lên trước đây. Tác giả cũng phê phán một số quan điểm chống lại xu hướng tích cực đó. Tuy nhiên, cuốn sách mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp những kiến thức đại cương và sơ lược nhất về toàn cầu hóa mà không mang tính chuyên sâu. Các phân tích mang tính trải rộng mà 11 chưa đi vào bản chất của hiện tượng. Tuy nhiên, nó vẫn hữu ích bởi đã cho một cái nhìn toàn cảnh về toàn cầu hóa cũng như các mặt tác động của quá trình này. Sklair L (1995), Sociology of the Global system. Baltimore: Johns Hopkins UP. Nằm trong số luận thuyết coi toàn cầu hóa là trạng thái phát triển của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện lịch sử mới, ông cho rằng, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã không còn lấy nhà nước dân tộc làm đại diện cho nó nữa mà thay vào đó là các lực lượng xuyên quốc gia - một thứ thực tiễn nảy sinh từ việc trao đổi qua lại giữa các tác nhân phi nhà nước và vượt qua các đường biên giới. Các thực tiễn này được phân loại theo 3 khu vực: kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng: công ty xuyên quốc gia, giai tầng tư bản xuyên quốc gia, văn hóa - ý thức hệ của chủ nghĩa tiêu dùng. Do đó, ông đặc biệt quan tâm đến cách thức mà 3 hiện thực này dùng để chuyển hóa thế giới theo đường hướng hiện thực hóa dự án chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Dựa trên việc tổng hợp một số tài liệu điển hình của các tác giả ta thấy rằng, toàn cầu hóa trong quan niệm của các học giả đa phần được thừa nhận là hiện tượng khách quan, đa chiều. Hiện tượng này đang mang đến cả những thời cơ và thách thức cho các đối tượng chịu sự tác động. Tuy nhiên, quá trình này đang chịu sự chi phối nhất định của các chủ thể có ý thức. Do đó, tính hai mặt của toàn cầu hóa mang tính tương đối tùy vào sự nắm bắt của các chủ thể để biến những tác động khách quan của toàn cầu hóa thành thời cơ hay thách thức. Chính vì thế mà có một số học giả cho rằng, toàn cầu hóa vừa là quá trình mang tính khách quan, vừa là quá trình mang tính chủ quan. 1.2. Vai trò của nhà nƣớc Bàn đến vai trò của nhà nước, thực sự chưa có nhiều công trình. Tất cả mới chỉ dừng lại ở việc điểm qua, liệt kê các vai trò chính của nhà nước tương ứng với mỗi thời kì, mỗi giai đoạn hay mỗi liñ h vực nhấ t đinh ̣ . Ta có thể liệt kê ra đây một số công trình bàn đế n vai trò của nhà nước trong các liñ h vực khác nhau như : kinh tế , chính trị, xã hội. 1.2.1. Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế Có nhiều cách tiếp cận khác nhau của các học giả về mối quan hệ giữa toàn cầu hóa kinh tế và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, nhiều học giả cho 12 rằng, toàn cầu hóa kinh tế đang dẫn đến việc suy giảm vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, trong khi một số người khác cho rằng, nhà nước vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Hai khuynh hướng này đang tạo nên một cuộc đấu tranh trên phương diện lí luận về vai trò của nhà nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 1997, Nxb. CTQG, Hà Nội. Đây là báo cáo về tình hình phát triển thế giới được Ngân hàng thế giới xuất bản hàng năm. Tập xuất bản lần thứ 20 này tập trung về nhà nước: nhà nước nên làm gì, nên làm như thế nào và có thể làm thế nào để đạt được kết quả tốt hơn trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Cuốn sách đề cập đến những diễn biến và chuyển đổi mau chóng của thế giới đang đòi hỏi các nhà nước phải tư duy lại vai trò của mình, đưa ra các chủ trương và giải pháp đúng, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Thông qua những phân tích và đánh giá sâu sắc, các nguồn tư liệu phong phú, cuốn sách đã nêu một số đặc điểm của tình hình thế giới ngày nay, hoạt động thực tiễn của nhà nước, đặc biệt trong một vài thập kỉ gần đây. Cuốn sách đã đưa ra những ví dụ điển hình về một số nhà nước hoạt động có hiệu quả cũng như một số nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Trọng tâm của cuốn sách tập trung vào vấn đề: nhà nước cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt hiệu quả trong một thế giới đang có những chuyển đổi sâu sắc. Trong những năm gần đây, nhiều nước rút ra bài học rằng, nhà nước không thể tự thực hiện lời hứa của mình: các nền kinh tế chuyển đổi đã phải chuyển hướng theo kinh tế thị trường, tại đại bộ phận thế giới đang phát triển, các chiến lược phát triển do nhà nước đóng vai trò chủ đạo đều đã thất bại. Do sự can thiệp chính phủ đã thất bại, các nền kinh tế hỗn hợp trong thế giới công nghiệp hóa cũng đã quyết định theo cơ chế thị trường. Nhiều người cảm thấy rằng, kết quả logic cuối cùng của tất cả các cải cách đó là “nhà nước còn lại vai trò tối thiểu”, không có hại nhưng cũng không làm được nhiều điều tốt (Gắn với trường phái cho rằng nhà nước sẽ dần mất đi vai trò của mình, bởi khu vực tư nhân hoạt động tốt hơn chính phủ về mọi 13 mặt). Những người chủ trương nhà nước tối thiểu “L’etat minimal” mong muốn cái phi nhà nước cuối cùng sẽ được giải phóng khỏi nhà nước, tức sẽ tạo ra một xã hội mà ở đó quyền cưỡng chế của nhà nước không còn cần thiết nữa. Báo cáo này giải thích tại sao quan điểm cực đoan đó lại trái với những chứng cứ về thắng lợi của công cuộc phát triển trong thế kỉ XIX của các nền kinh tế công nghiệp ngày nay hoặc các câu chuyện thần kì về tăng trưởng của Đông Á trong thời kì sau chiến tranh. Những quan điểm đó không những không hỗ trợ quan điểm về nhà nước tối thiểu mà còn chứng minh rằng, sự phát triển đòi hỏi một nhà nước hiệu quả, một nhà nước đóng vai trò chất xúc tác, khuyến khích và bổ khuyết những hoạt động của các xí nghiệp tư nhân và các cá nhân. Điều chắc chắn là sự phát triển do nhà nước khống chế đã thất bại (kế hoạch hóa tập trung ), nhưng sự phát triển không có nhà nước cũng đã thất bại (thị trường tự do) thể hiện quá rõ ràng qua sự đau khổ của nhân dân các nước mà nhà nước đã sụp đổ như Xomali, Liberia. Báo cáo này không chỉ hướng sự chú ý vào việc nhấn mạnh sự trở lại vai trò của nhà nước mà còn chỉ ra cách thức nhà nước có thể bắt đầu một quá trình xây dựng lại năng lực của mình, xây dựng một nhà nước hiệu quả. Đây chính là điểm cốt lõi có ý nghĩa lớn trong tập sách này. Tuy nhiên, báo cáo tiếp cận vấn đề vai trò của nhà nước từ góc độ kinh tế học và chính trị học nên trong luận giải không tránh khỏi sa đà vào những tiểu tiết. Đồng thời luận chứng cho vai trò mới của nhà nước quá thiên về những vai trò kinh tế. Thanh Bình (1991), Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Philippin, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 4. Trong bài viết này tác giả đã tìm hiểu thực tiễn nhà nước Philippin đã điều hành kinh tế đất nước như thế nào qua các thời kì. Từ việc nhà nước đóng vai trò là người điều chỉnh vĩ mô của hoạt động kinh tế như điều chỉnh chiến lược, điều chỉnh tài chính - tiền tệ, điều chỉnh cơ cấu ngành cho tới việc nhà nước đóng vai trò là người trực tiếp làm kinh tế. Tuy nhiên, qua bài viết của mình tác giả cũng đã cho thấy, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế Philippin là cần thiết và có hiệu quả nhất định. Điều đáng lưu ý ở Philippin là nhà nước không cạnh tranh với tư nhân và luôn đóng vai trò là người trợ giúp với mức 14 độ khác nhau trong từng giai đoạn, tùy thuộc vào khả năng thực tế của nhà nước. Sự can thiệp này của nhà nước có giới hạn và trong những chừng mực nhất định. G. Bertucci và A. Alberti (2003), Economic and the role of nation – state in economy – the case of EU. Các tác giả nhấn mạnh rằng, toàn cầu hóa kinh tế là hậu quả của các quyết định chính trị được thực hiện bởi nhà nước dân tộc. Họ tuyên bố rằng, việc mở rộng của thương mại quốc tế cũng như phong trào đầu tư tài chính không ảnh hưởng đáng kể đến vai trò của nhà nước dân tộc. Thậm chí mức độ hợp tác và hoạt động tập thể còn thúc đẩy việc thực thi chủ quyền của các quốc gia. Vì vậy, họ cho rằng, hành động tập thể không làm suy yếu vai trò của các quốc gia, ngược lại nó củng cố vai trò của nhà nước thông qua việc thiết lập môi trường toàn cầu ổn định hơn và tạo các cơ hội tiềm năng lớn hơn cho trao đổi trong các khu vực. D. Goldblatt, J. Perraton, và A. McGrew (1997), trong bài viết “Economic Globalization and the Nation-State: Shifting Balances of Power”, Alternatives: global, local, political, Vol 22, No3, UK., cho rằng, các nền kinh tế của quốc gia được khai thác bởi các tác nhân kinh tế toàn cầu trong khuôn khổ các quy định của các thiết chế quản trị toàn cầu đang làm suy giảm đáng kể vai trò của nhà nước dân tộc trong nền kinh tế. Đặc biệt, sức mạnh của thị trường tài chính, vốn đã tăng lên cạnh tranh với sức mạnh của chính quyền lực nhà nước. Frederick C.Turner, Alejandro L.Corbacho, Vai trò mới của nhà nước (Tiến Đạt lược thuật), Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3/2001. Bài viết bàn về vai trò và chức năng mới của nhà nước dựa trên sự phân tích thực tiễn của các nước phát triển. Những đảng phái hữu cho rằng nhà nước sẽ ngày càng mất đi vi trò của nó bởi khu vực tư nhân hoạt động có hiệu quả hơn chính phủ về mọi mặt. Còn những người chủ trương "nhà nước tối thiểu" mong muốn cái phi nhà nước cuối cùng sẽ được giải phóng khỏi nhà nước, tức là tạo ra một xã hội mà ở đó quyền cưỡng chế của nhà nước không còn cần thiết nữa. Bác bỏ quan điểm nêu trên, tác giả cho rằng, mặc dù vào những năm 80, 90, một số chức năng của nhà nước được chuyển cho khu vực tư nhân, song thực tế lại chứng tỏ rằng vai trò của nhà nước có những biến đổi chứ không hề suy giảm. Theo tác giả, nhà nước vẫn phải thực hiện các chức năng truyền thống, song vấn đề là làm thế nào để có hiệu quả hơn. 15 Ha-Joon Chang, Robert Rowthorn (1996), The Role of the State in Economic Change, Cambridge Press. Cuốn sách này cho rằng, vai trò của nhà nước đã chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển của kinh tế học và là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất của các nhà kinh tế hiện đại và kinh tế chính trị. Những năm sau chiến tranh ngay lập tức xuất hiện các lý thuyết kinh tế theo hướng sử dụng quyền lực của nhà nước vào việc kiểm soát các hoạt động kinh tế. Xu hướng này trở nên phổ biến bởi nhu cầu cấp thiết cho tái thiết và phát triển ở các nước tư bản phát triển và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và châu Á. Trọng tâm của lí thuyết này nhằm đề cao tính hiệu quả của sự can thiệp nhà nước vào việc thúc đẩy sự thay đổi kinh tế. Các tác giả của nó giải thích sự vỡ mộng ngày càng tăng về chủ nghĩa Tự do mới. Tuy nhiên, cuối cùng họ nhận thấy rằng, không phải ở mọi nơi và mọi lúc, trên mọi lĩnh vực, sự can thiệp của nhà nước cũng mang lại hiệu quả. Tương tự thuyết thị trường tự do cũng vậy. Do đó, sự tìm kiếm giải pháp tối ưu nên tập trung vào sự kết hợp hợp lý của cả hai phương án trên tùy từng điều kiện và bối cảnh cụ thể. Cuốn sách này thiên về việc bàn đến vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế. Do đó, nó cũng sẽ không thể cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện như mong muốn. Kenichi Ohmae (1995), The End of the Nation-State: the Rise of Regional Economies. Trong cuốn sách này tác giả nhận định rằng, nhà nước quốc gia đang trở nên lỗi thời, bởi nó không còn là đơn vị tối ưu cho các hoạt động kinh tế. Nhận định này sẽ là một một “cú đánh” với hầu hết các nhà nước hiện nay. Bởi, một trong những động lực chính khi xây dựng các nhà nước quốc gia là nhằm giữ ổn định cho các hoạt động kinh tế, khai thác tài nguyên… Ohmae khẳng định rằng, một lĩnh vực như vậy hiện nay là không cần thiết, bởi vì, các quyết định kinh tế quan trọng được thực hiện ở cấp khu vực chứ không nằm ở nội bộ quốc gia (ví dụ như Hồng Kông Nam Trung Hoa hay miền Nam Ontario-Michigan) mà thường vượt qua biên giới quốc gia. Trong thực tế, các khu vực như vậy độc lập về kinh tế với các quốc gia, nơi mà họ cư trú. Hơn thế nữa, các khu vực trên toàn quốc thường phải trả tiền nhiều hơn cho đầu vào của nó hơn các nhân tố di động mang tính toàn cầu. Ohmae khẳng định rằng, nhà nước đang mất kiểm soát hoạt động kinh tế. Cuốn sách này 16 cung cấp cho chúng ta cái nhìn một chiều về vai trò của nhà nước, về sự kết thúc vai trò lịch sử của nhà nước. Tuy nhiên, sự kết thúc vai trò lịch sử của nhà nước trong bối cảnh mới cũng tập trung chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế mà chưa đề cập đến các lĩnh vực khác. N. Lakic (2011), trong bài viết “Is Globalization a Challenge or a Threat to Nation-States as a Dominant Form of Polity" Belgrade Centre for Security Policy (BCSP), Serbia. Tác giả cho rằng, toàn cầu hóa kinh tế là mối đe dọa lớn nhất cho quyền kinh tế của nhà nước - dân tộc như việc ban hành các chính sách tài khóa đang bị hạn chế trong điều kiện chịu những áp đặt nhất định. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những nguy cơ cho hệ thống tài chính của quốc gia. Do đó nó cũng làm giảm vai trò quản lí của nhà nước trong lĩnh vực này khi nhà nước không đủ sức quản lý một nền tài chính quốc tế. Nguyễn Thị Luyến (Chủ biên, 2006), Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb. Khoa ho ̣c xã hô ̣i , Hà Nội. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản về sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức; vai trò của nhà nước và sự tiến triển của nó đối với nền kinh tế trong quá trình phát triển của lịch sử, đồng thời nêu kinh nghiệm của một số nước trong việc tạo ra các nguồn lực để phát triển kinh tế tri thức và cải thiện về mặt xã hội cũng như điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Cuốn sách cũng đề cập tới một số vấn đề về hội nhập kinh tế thế giới và vai trò nhà nước, pháp luật trong tiến trình chuyển sang phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam. J. Stiglitz (2001), trong bài viết “Globalization and the Economic Role of the State in the New Millennium", Industry and corporate change, Volume 12, No 1, nhấn mạnh những thách thức về việc áp đặt mức thuế với các nhà nước – dân tộc như một kết quả của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa đang tạo ra những dòng luân chuyển tự do về vốn, song chính đặc điểm này lại hạn chế việc áp đặt mức thuế của các nhà nước lên các nhân tố này nếu không tạo ra những ưu đãi nhất định để thu hút các dòng vốn chảy vào quốc gia mình. Điều này đang thực sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách tái phân phối thu nhập, chính sách phúc lợi cũng như các chính sách đảm bảo sự bình đẳng trong nội bộ quốc gia. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan