ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
SROYSUDA SUWANNA
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TIẾNG VIỆT
TRONG TỈNH UBONRATCHATHANEE, THÁI LAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
SROYSUDA SUWANNA
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TIẾNG VIỆT
TRONG TỈNH UBONRATCHATHANEE, THÁI LAN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 02 40
Người hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Ngọc Bình
HÀ NỘI – 2015
Lời cảm ơn
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đại học Quốc Gia Hà Nội, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Phòng Đào tạo Sau đại học của Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Ban Chủ nhiệm Khoa Ngôn Ngữ học đã
tiếp nhận tôi làm học viên cao học, như là một biểu tượng của tình hữu nghị
hai nước Việt Nam và Thái Lan. Tôi chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn
Văn Chính, Chủ nhiệm khoa Ngôn Ngữ học đã động viên, giúp đỡ tôi rất
nhiều trong quá trình làm luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới TS. Nguyễn Ngọc Bình, người thầy mẫu mực và tận tụy trong việc
hướng dẫn luận văn. Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến vợ chồng bác
Liễu, những người đã coi tôi như con đẻ của mình, đã động viên, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2015
Tác giả
Sroysuda Suwann
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh
8
2. Mục tiêu
14
3. Kết quả nghiên cứu dự kiến
14
4. Phương pháp
14
5. Phạm vi nghiên cứu
15
6. Giả thuyết nghiên cứu
15
7. Các cách tiếp cận mà luận văn chấp nhận
15
8. Khu vực nghiên cứu thực địa
17
9. Nguồn dữ liệu
17
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Thổ ngữ hoặc phương ngữ địa lý
18
1.2 Biến đổi ngôn ngữ
20
1.3 Các nghiên cứu về sự biến đổi ngôn ngữ
22
1.4 Những công trình về biến đổi ngôn ngữ trong họ ngôn ngữ
Mon-Khmer
1.5 Phương pháp thu thập số liệu
25
28
1.5.1 Khảo sát cộng đồng người gốc Việt
28
1.5.2 Danh sách từ của ngôn ngữ Việt – Mường
29
1.5.3 Cộng tác viên
30
1.6 Công cụ nghiên cứu
32
1.6.1 Bảng từv ựng ngôn ngữ nhóm Việt – Mường
31
1.6.2 Máy tính xách tay
31
1.6.3 Microphone
31
1.6.4 Chương trình WINCECIL
32
1.6.5 Chương trình Microsoft Excel
32
1.7 Phân tích dữ liệu
32
1.7.1 Phân tích thính giác
32
1.7.2 Phân tích máy tính
32
1.8 Tiểu kết
33
CHƯƠNG 2: BIẾN THỂ CỦA PHỤ ÂM VÀ NGUYÊN ÂM
2.1 Hệ thống âm vị học của tiếng Việt chuẩn
35
2.1.1 Phụ âm
35
2.1.2 Nguyên âm
36
2.1.3 Thanh điệu tiếng Việt
37
2.2 Hệ thống chữ viết của tiếng Việt
38
2.3 Biến thể phụ âm đầu trong tiếng Việt Thái (TV)
39
2.4 Biến thể phụ âm cuối
45
2.5 Sự biến đổi của nguyên âm
49
2.6 Đặc điểm đặc biệt
54
2.7 So sánh một vài từ vựng của miền Bắc Trung Bộ
Việt Nam (NCV) với tiếng Việt Thái (TV)
55
2.8 Tiểu kết
55
KẾT LUẬN
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
61
PHỤ LỤC
66
Danh mục từ viết tắt
CV
Central Vietnamese
NCV
North- Central Vietnamese
NV
Northern Vietnamese
QN
Chữ Quốc Ngữ
SIL
Summer Institute of Linguistics
SV
Southern Vietnamese
TCV
Thanh-Chuong Vietnamese
TV
Thai Vietnamese
6
Danh mục bảng biểu
Bảng 1.1 Chữ Quốc Ngữ trong các biến thể địa phương (Alves, 2002) 26
Bảng 2.1 Các âm vị phụ âm của tiếng Việt chuẩn (như mô hình
tiếng nói của Hà Nội)
36
Bảng 2.2 Hệ thống nguyên âm của tiếng Việt chuẩn
37
Bảng 2.3 Hệ thống phụ âm của tiếng Việt
38
Bảng 2.4 Hệ thống nguyên âm của tiếng Việt viết
39
Bảng 2.5 Các âm vị phân biệt tiếng Việt Bắc bộ và Trung bộ
được phát hiện ở tỉnh Ubonratchathanee, Thái Lan
39
Bảng 2.6 Biến thể các phụ âm đầu
44
Bảng 2.7 Một vài từ trong Chuẩn và TCV
47
Bảng 2.8 Sự biến đổi của phụ âm cuối
49
Bảng 2.9 Sự biến thể của nguyên âm
54
Bảng 2.10 Một số từ trong NCV
55
7
MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh
Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam và theo cách phân loại
được thừa nhận rộng rãi nhất, nó thuộc nhóm Việt-Mường, nhánh Môn –
Khmer, ngữ hệ Nam Á. Ban đầu tiếng Việt là ngôn ngữ không có thanh
điệunhư các ngôn ngữ Môn-Khmer khác. Tuy nhiên, hiện tại Tiếng Việt cóhệ
thống sáu thanh điệu được phát triển đầy đủ. Khía cạnh này đã được H.
Maspéro vàA.Haudricourt đề cập một cách rất cụ thể trong các nghiên cứu
của mình. Người ta ước tính rằng cho đến thế kỷ thứ VI,tiếng Việt có ba
thanh điệuvà đến thế kỷ thứ XXII, tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu
(Haudricourt, 1954).
Người Việt Nam định cư ở nhiều khu vực tại Thái Lan nhưng chủ yếu
tập trung ở vùng phía đông và đông bắc Thái Lan. Pussadee Chandavimol
(1998) đề cập rằng người Việt Nam bước vào vương quốc Thái Lan bắt đầu từ
thời kỳ Ayuthaya dưới thời trị vì của vua Narai (1656-1688) đến thời kỳ đầu
Rattanakosin dưới thời trị vì của vua Rama IV (1851-1868). Tuy nhiên, có rất
ít chi tiết đề cập đến việc họ đến Thái Lan. Có hai lý do chính khiến họ rời
khỏi quê hương đến tái định cư tại Thái Lan: (l) để thoát khỏi sự ngược đãi về
chính trị và tôn giáo và (2) họ là những tù nhân chiến tranh. Những người tị
nạn chính trị và tôn giáo rời khỏi đất nước của họ bằng thuyền và định cư ở
các tỉnh Ayuthaya và Chanthaburi. Họ hầu hết là những người theo đạo Thiên
chúa và tại thời điểm đó, họ bị đàn áp và ngược đãitại quê nhà. Trong thời kỳ
trị vì của vua Rama I đến vua Rama V (1786-1910), một số nhóm đến Thái
Lan với số lượng lớn và định cư ở Bangkok, Chanthaburi và vùng Đông Bắc.
Nhiều người trong số họ đến từ Huế và Hà Tĩnh, miền Trung Việt Nam. Dưới
thời trị vì của vua Rama IV (1851-1868), phần lớn những người này –những
8
người đang tìm cách thoát khỏi sự đàn áp tôn giáo và nạn đói-đến từ miền
Nam và nhiều người đến từ các tỉnh miền Trung và Bắc Trung Bộ. Nhóm
người đến từ miền Trung và Bắc Trung Bộ thường đi qua Lào và định cư tại
các tỉnh Nakhorn Phanom, Nongkhai và Sakon Nakhorn.
Khajaiphai Burusphat (1978: 9-12) cho rằng Người Việt Nam cư trú tại
Đông Bắc Thái Lan vào Thái Lan qua Lào từ năm 1945-1946 sau Chiến tranh
Thế giới thứ II. Con số xấp xỉ khoảng 51.700 người. Những người đến Thái
Lan qua Viêng Chăn là người miền Bắc Việt Nam và định cư tại tỉnh Nong
Khaicòn những người đến Thái Lan qua huyện Thakhaek của Lào là người
miền Trung Việt Nam và định cư tại trung tâm thành phố Nakhon Phanom,
huyện That Phanom và tỉnh Mukdahan.
Người Việt Nam ở khu vực này tham gia vào tất cả các loại hình kinh
doanh, nghề thủ công và nông nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết họ đều tham gia vào
các doanh nghiệp và họ rất chăm chỉ,khoan dung. Không lâu sau khi tái định
cư, họ đã thành công và kiểm soát các hoạt động kinh tế ở các tỉnh mà họ cư
trú. Thậm chí họ còn coi thường nhữngcư dân bản địa vùng đông bắc và gắn
cho họ thương hiệulười biếng và nghèo đói. Họ thích sử dụng tiếng Thái
chuẩn hơn là tiếng địa phương, ngoại trừ vớinhững khách hàng mà họ có thể
tận dụng lợi thế kinh doanh. Ngược lại, người dân địa phương cũng gắn cho
người Việt cái mác đầy mỉa mai “Thai Mai” hay Người Thái mới.
Bùi Quang Tùng (1958), được trích dẫn trong Pussadee Chandavimol
(1998: 123-125) đã nghiên cứu việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong các
cộng đồng người Việt ở Bangkok và tỉnh Chanthaburi. Người ta thấy rằng
tiếng Việt trong những khu vực này là hình thức ngôn ngữ cổ xưa hiếm khi
người Việt có thể hiểu được. Nhiều từ ngữ và thành ngữ được vay mượn từ
tiếng Thái. Hơn nữa, các ngữ điệu cũng giống tiếng Thái.Kết quả là các cuộc
trò chuyện giữa Người Việt ở Việt Nam và Người Việt ở Thái Lan đều cần có
9
phiên dịch viên. Tác giả tiếp tục dự đoán rằng, trong vòng một hoặc hai thế hệ
hay khoảng 50 năm, tiếng Việt sẽ hoàn toàn bị đồng hóa với tiếng Thái chính
thống.
Giống như tất cả các ngôn ngữ, tiếng Việt có nhiều biến thể theo khu
vực và ngôn ngữ xã hội với những đặc điểm độc đáo riêng từ Bắc đến Nam.
Nguyễn (1990: 49-68) đã điều chỉnh một chút quan điểm truyền thống làtiếng
Việtcó ba loại hình theo khu vực – miền Bắc, miền Trung và miền Namkhi
cho rằng hiệnnay còn có loại hình Bắc-Trung mới. Lối nói của người dân Hà
Nội ở miền Bắc được coi ngôn ngữ chuẩn, được sử dụng như một phương tiện
trong giảng dạy, diễn đàn công cộng và là ngôn ngữ chính thức.
Thompson (1987) phân loại Tiếng Việt thành bảy loại hình địa phương
ngoài phương ngữ chuẩn làtiếng Hà Nội. Thompson cũng khẳng định rằng ở
Huế, thanh hỏi và ngã gần giống nhau,có âm tắc ở thanh hầu và nguyên âm
ba trở thành nguyên âm đôi trong tất cả mọi trường hợp.
Biến thể hoặc biến thể ngôn ngữ là sự khác biệt trong âm vị học, ngữ
pháp hay lựa chọn từ ngữ trong mối tương liên khu vực, địa vị xã hội và/hoặc
trình độ học vấn, hoặc mức độ tuân thủ một tình huống trong đó ngôn ngữ
được sử dụng. Biến thể ngôn ngữ theo khu vực hoặc ngôn ngữ địa phương là
một biến thể ngôn ngữ, được nói ở một khu vực tại một quốc gia, biến thể
ngôn ngữ khác một chút về từ vựng, ngữ pháp, vàcách phát âm so với từ
vựng, ngữ pháp và cách phát âm của cùng một ngôn ngữ (Richards, Platt,
Weber, 1985: 305).
Trọng tâm của nghiên cứu này là hệ thống âm vị học của Tiếng Việt
được sử dụng bởi người Thái gốc Việt định cư tại tỉnh Ubonratchathanee,Thái
Lan. Trong nghiên cứu này, người Thái gốc Việt được chia thành ba nhóm
tuổi khác nhau: ≥ 60 tuổi, 41-59 tuổi, và≤ 40 tuổi. Nhóm đầu tiên đại diện cho
thế hệ cũ- nhiều người trong nhóm này được cho là đã di cư từ Việt Nam
10
sang. Nhóm thứ hai đại diện cho thế hệ những người sinh ra trên lãnh thổ
Thái Lan. Họ có thể hoặc không được giáo dục trong hệ thống giáo dục chính
thức trong khi nhóm cuối cùng đại diện cho thế hệ hiện tại được sinh ra ở
Thái Lan và đã được tiếp xúc với hệ thống giáo dục chính thức và các phương
tiện truyền thông của Thái Lan. Mục đích của việc phân loại độ tuổi là tìm
hiểu sự dị biệtgiữa ba thế hệ và xu hướng thay đổi trong tương lai.
Tiếng Việt ở Thái Lan được phân thành ba loại chính. Tiếng địa
phương phía Nam được nói ở miền đông Thái Lan, cụ thể là ở các tỉnh Trat,
Rayong, Chanthaburi và Arunyaprathet. Các đặc tính của biến thể ngôn ngữ
này tương tự như biến thể ngôn ngữ Thành phố Hồ Chí Minh (Sujika Phuget,
1996). Các biến thể của Tiếng Việt ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam
được sử dụng tại khu vực đông bắc Thái Lan. Phương ngữ miền Trung, một
phương ngữ chiếm ưu thế, được nói trong toàn khu vực trừ tỉnh Udon Thani,
Nong Khai, Khon Kaen và Loei, nơi chủ yếu sử dụng hình thức ngôn ngữ của
miền Bắc. Ngoài ra, hình thức ngôn ngữ của miền Bắc cũng được sử dụng
rộng rãi ở Bangkok, nơi cư trú chính của cộng đồng người Việt.
Về mặt sử dụng và bảo tồn ngôn ngữ, việc thực thisẽ là khác nhau ở các
nơi khác nhau. Nếu cộng đồng người Việt sống cùng nhau hoặc tập trung
đông đúc như ở Nakhon Phanom, Mukdahan và Sakon Nakhon, thì việc sử
dụng ngôn ngữ bản địa mang tính chủ động đa thế hệ và được sử dụng trong
giao tiếp hàng ngày ở tất cả các nhóm xã hội. Trẻ em sử dụng song ngữ, cả
Tiếng Việt và tiếng Thái. Tuy nhiên, trong các cộng đồng mà người Việt Nam
chiếm thiểu số thì ngôn ngữ bản địa chỉ được sử dụng bởi đa số thế hệ già và
trẻ em trở thành đơn ngữ trong tiếng Thái. Chính trị là một yếu tố quan trọng
trong trường hợp biến đổi ngôn ngữ này. Trước đây, dạy Tiếng Việt cho trẻ
em đã cấm và những người dạy Tiếng Việt cho trẻ em bị bắt và bị buộc tội là
cộng sản hay có liên kết với chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Nhiều ngôi nhà
11
bị lục soát để tìm kiếm các tài liệu liên quan đến tiếng Việt. Để tránh bị truy
tố và các vấn đề phát sinh, nhiều giáo viên Việt đã bỏ dạy hoàn toàn. Hơn
nữa, nhiều phụ huynh chấp nhận giao thoa văn hóa bằng cách khuyến khích
con cái của họ học tiếng Thái với hi vọng rằng con cái của họ có thể trở thành
một phần của văn hóa chính thống. Việc thực hành tiếng Thái đã tước quyền
học ngôn ngữ tổ tiên của thế hệ trẻ. Nếu tiếng Việt không được sử dụng tích
cực ở nhà thì những thế hệ trẻ này không thể hoặc hầu như không thể hiểu và
sử dụng nó.
Sự đa dạng ngôn ngữ trong khu vực hiện nay đang được thúc đẩy mạnh
mẽ, đặc biệt là đối với tiếng Việt, kể từ khi Thái Lan và Việt Nam mở cửa
biên giới và thiết lập mối quan hệ kinh tế song phương. Giáo dục Việt Nam
đã được tái sinh với nỗ lực bảo tồn ngôn ngữ ở Nakhon Phanom và Sakon
Nakhon, nơi cư trú của phần lớn người Việt. Nhiều trường tư đã được thành
lập và tiếng Việt được giảng dạy trong các tổ chức giáo dục đại học. Tuy
nhiên, ngôn ngữ vẫn chưa được đưa vào chương trình giảng dạy bậc tiểu học
và trung học. Nghiên cứu tiếng Việt hoàn toàn thường dựa trên lợi ích cá
nhân. Các thế hệ lớn tuổi thường phàn nàn về việc thiếu quan tâm đến ngôn
ngữ của giới trẻ Thái -Việt, trong khi thế hệ trẻ lại cho rằng họ đã có quá đủ
bài tập phải làm ở trường và thêm vào đó, ngôn ngữ không mang lại lợi ích
kinh tế cho tương lai của họ. Hơn nữa, nhiều người trong số họ không muốn
bị xem là có quan hệ với Việt Nam vì họ không muốn bị nhạo báng giữa các
đồng nghiệp của họ. Mặc dù kinh tế sung túc không kém gì người Thái Trung
nhưng họ không được tôn trọng như người Thái Trung và có thể bị làm mất
danh dự và lạm dụng về mặt ngôn ngữ. Hiện tượng xã hội này có thể là do họ
mặc cảm là liên quan với chủ nghĩa cộng sản và về tình trạng kinh tế nghèo
nàn của quê hương mình trong quá khứ.
12
Cho đến nay, đã có một số nghiên cứu về âm vị học của tiếng Việt
được sử dụng ở Thái Lan tại Thái Lan. Sujika Phuget (1996) thực hiện nghiên
cứu của mình trong một cộng đồng người Việt tại huyện Arunyaprathet, tỉnh
Sakaew. Những kết quả nghiên cứu của bà cho thấy sự hiện diện của 20 phụ
âm, 14 nguyên âm và 5 thanh điệu. Các đặc điểm ngôn ngữ học được phát
hiện tương tự như các đặc tính ngôn ngữ học của khu vực miền Nam Việt
Nam. Kaewta Saliphot (1998) đã nghiên cứutiếng Việt trong cộng đồng người
Việt ở quận Muang, tỉnh Nakhon Phanom. Những kết quả nghiên cứu của bà
cho thấy sự hiện diện của 23 phụ âm, 14 nguyên âm và 6 thanh điệu, với các
đặc trưng của giọng Hà Nội. Bà cũng lưu ý rằng các hệ thống âm vị học trong
cộng đồng này là sự kết hợp của cả hai hình thức ngôn ngữ của miền Bắc và
miền Nam, đặc biệt đối với các phụ âm và thanh điệu. Đây có lẽ là vì các
cộng đồng dân cư có nguồn gốc từ các vùng miền khác nhau của Việt Nam.
Jinda Ubolchote (1998) đã nghiên cứu các đặc điểm âm vị của tiếng Việt
trong ba nhóm tuổi đang sinh sống tại cộng đồng xã Khlung, tỉnh
Chanthaburi. Kết quả nghiên cứu của bà cho thấy sự hiện diện của 21 phụ âm,
14 nguyên âm và 4 thanh điệu, với các đặc điểm gần với các đặc điểm của
giọng Sài Gòn. Wasinee Meekrua-Iam (2002) đã thực hiện nghiên cứu âm vị
học và từ vựng Tiếng Việt về thực phẩm và tiêu dùng ở huyện Thabo, tỉnh
Nongkhai. Kết quả nghiên cứu của bà cũng tương tự như kết quả nghiên cứu
của Kaewta Saliphot. Trong năm 2003, Woraya Som-Indra đã phát động một
cuộc khảo sát ngữ âm tiếng Việt tại làng Najok, tỉnh Nakhon Phanom. Kết
quả nghiên cứu của bà cho thấy sự kết hợp các đặc điểm NV và CV như một
phát minh mới. Theo đó, bà ghi nhận các âm quặt lưỡi, một đặc điểm của CV
và phụ âm xát vòm miệng hữu thanh [z], một đặc trưng NV, âm tắc môi vô
thanh [ph], và năm thanh điệu đặc trưng của CV, trong đó thanh hỏi và ngã đã
bị sáp nhập.
13
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại chưa có một nghiên cứu nào về
thổ ngữ tiếng Việt ở tất cả các vùng miền của Thái Lan. Như vậy, nghiên cứu
này có thể được coi là rất ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục tiêu
2.1 Nghiên cứu về sự biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt ở tỉnh
Ubonratchathanee, Thái Lan.
2.2 Tìm ra các biến thể của tiếng Việt trong khu vực này qua khảo sát
ba thế hệ người Thái gốc Việt.
3. Kết quả nghiên cứu dự kiến
3.1 Định hình và mô tả sự biến đổi của phương ngữ tiếng Việt.
3.2 So sánh sự biến đổi ngôn ngữ trong khu vực ở ba thế hệ người Thái
gốc Việt.
3.3 Các kết quả nghiên cứu này sẽ là dữ liệu nền tảng cho các nghiên
cứu tương tự ở các vùng khác của Thái Lan.
3.4 Nghiên cứu này cũng như các nghiên cứu về tiếng Việt sẽ có lợi
cho thúc đẩy quan hệ kinh tế và văn hóa song phương giữa hai dân tộc.
4. Phương pháp
Nghiên cứu này là một nghiên cứu định tính, sử dụng các phương pháp
sau đây:
4.1 Một tập hợp các từ, trong đó bao gồm cả sáu thanh điệu trong tiếng
Việt: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã và nặng, được lựa chọn nhằm mục đích
phân tích sự biến đổi âm điệu. Bảng từ này được xây dựng bởi Viện Ngôn
ngữ học mùa hè (SIL, www.sii.org) nhằm phân tích sự biến đổi của phụ âm và
14
nguyên âm, bao gồm 281 đơn vị từ vựng và có liên quan đến các ngôn ngữ
trong nhóm Việt-Mường.
4.2 Các thông tin chính được lựa chọn dựa trên đại diện của mỗi thế hệ
trong một cộng đồng ngôn ngữ. Nếu có nhiều hơn một biến thể phương ngữ
trong một cộng đồng ngôn ngữ duy nhất thì số lượng đại diện sẽ được lựa
chọn theo số lượng các biến thể phương ngữ với sự chấp nhận rằng có 4 cộng
đồng ngôn ngữ trong tỉnh Ubonratchathanee hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu này tập trung vào phương ngữ tiếng Việt của ba thế hệ
sinh sống ở tỉnh Ubonratchathanee, Thái Lan: ≤ 40 tuổi, 41-59 tuổi và ≥ 60
tuổi. Tổng số công tác viên là 36, đại diện cho 4 cộng đồng.
5.2 Khu vực nghiên cứu là 4 cộng đồng ngôn ngữ trong tỉnh
Ubonratchathanee, Thái Lan.
5.3. Thực ra sự biến đổi của tiếng Việt sẽ xảy ra trên rất nhiều bình diện
như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp…Tuy nhiên, luận văn này chỉ bàn đến sự biến
đổi về mặt ngữ âm của tiếng Việt trong tỉnh Ubonratchathanee, Thái Lan.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Theo lý thuyết sóng, sự thay đổi tại tiêu điểm sẽ lớn hơn vùng ngoại vi.
Như vậy, chúng ta giả định rằng những biến thể của tiếng Việt của thế hệ đầu
tiên sẽ duy trì các hình thức ngôn ngữ bảo thủ hơn so với thế hệ thứ hai và thứ
ba.
7. Các cách tiếp cận mà luận văn chấp nhận
Biến thể hoặc biến thể ngôn ngữ là sự khác biệt trong cách phát âm,
ngữ pháp hay lựa chọn từ ngữ trong mối tương liên khu vực, tầng lớp xã hội,
15
trình độ học vấn, hoặc mức độ tuân thủ một tình huống. Trong nghiên cứu
này, sự khác biệt của tiếng Việt trong địa bàn nghiên cứu là sự khác biệt về
phụ âm và nguyên âm.
Địa lý phương ngữ là nghiên cứu mẫu khu vực của biến thể hình thức
ngôn ngữ của cùng một ngôn ngữ. Sự biến đổi của nghiên cứu này là ở ba
thếhệ người Việt Nam sinh sống ở tỉnh Ubonratchathanee, Thái Lan.
Cộng đồng xã hội là một nhóm người được xác định về mặt xã hội
hoặc theo khu vực địa lý, được xác định bằng cách sử dụng cùng một ngôn
ngữ hoặc biến thể ngôn ngữ. Trong trường hợp này, các cộng đồng ngôn luận
được hiểu là các cộng đồng người Việt ở tỉnh Ubonratchathanee, Thái Lan.
Bản đồ ngôn ngữ học là một bản đồ thể hiện sự phân phối các đặc
điểm ngôn ngữ trong một khu vực được lựa chọn như là một sự hỗ trợ để hình
dung các khu vực của vùng đó; trong đó các hình thức thay thế hoặc các hình
thức đối lập nhau được sử dụng. Các đặc điểm phân đoạn và siêu phân đoạn
của tiếng Việt được vẽ trên một bản đồ của tỉnh Ubonratchathanee.
Lý thuyết sóng là một mô hình lý thuyết đòi hỏi phải phổ biến các đổi
mới về mặt ngôn ngữ học từ một trung tâm đến các vùng lãnh thổ xung
quanh, giống như một viên đá được ném vào nước tạo ta các gợn sóng lăn tăn
rộng dần và mờ dần xung quanh điểm tác động. Lý thuyết này lần đầu tiên
được đề xuất bởi Johannes Schmidt vào năm 1872. Lý thuyết được thiết kế để
xem xét thực tế có mối quan hệ tương quan nhất định giữa khoảng cách địa lý
và khoảng cách ngôn ngữ, ít nhất là khi có các đặc điểm cụ thể được thể hiện
(Bynon, 1977: 192-195). Trask (1977:236-237) định nghĩa lý thuyết sóng như
là cách thức xem xét sự thay đổi về mặt ngôn ngữ và sự khác nhau về khu vực
trong một ngôn ngữ hoặc một hệ ngôn ngữ. Lý thuyết sóng xem một ngôn
ngữ như một trường liên tục tại một khu vực. Mỗi lần có một thay đổi xẩy ra
16
tại một vị trí thì thay đổi đó sẽ lan rộng một cách liên tục sang khu vực khác
của vị trí sử dụng ngôn ngữ đó.
Trong trường hợp của tiếng Việt tại tỉnh Ubonratchathanee, thế hệ già
chắc chẵn sẽ giữ lại những hình thức bảo thủ của ngôn ngữ trong khi thế hệ
trẻ lại thể hiện nhiều biến đổi ngôn ngữ hơn do các nhân tố bên trong như dễ
phát âm, và/hoặc mối liên hệ giữa ngôn ngữ với môi trường xung quanh.
8. Khu vực nghiên cứu thực địa
Khu vực thu thập dữ liệu bao gồm 4 cộng đồng người Việt tại tỉnh
Ubonratchathanee thượng nguồn sông Mê Kông. Các cộng đồng là đối tượng
điều tra để tìm hiểu những thay đổi về mặt phụ âm, nguyên âm hoặc thanh
điệu trong phương ngữ ở vùng này so với vùng khác.
9. Nguồn dữ liệu
Nguồn ngữ liệu được xây dựng từ một bảng từ. Bảng từ này được xây
dựng bởi Viện Ngôn ngữ học mùa hè (SIL, www.sii.org) nhằm phân tích sự
biến đổi của phụ âm và nguyên âm, bao gồm 281 đơn vị từ vựng và có liên
quan đến các ngôn ngữ trong nhóm Việt-Mường.
17
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương này xem xét các nghiên cứu liên quan đến biến đổi ngôn ngữ và
thổ ngữ trong các ngôn ngữ khác nhau và các ngôn ngữ trong nhóm MonKhmer. Chương này cũng mô tả chi tiết các phương pháp thu thập dữ liệu
trước và trong quá trình khảo sát thực địa, tất cả các công cụ nghiên cứu sử
dụng để thu thập và phân tích dữ liệu cùng các phương pháp phân tích dữ
liệu.
1.1 Thổ ngữ hoặc phương ngữ địa lý
Chambers và Trudgill (1998:3-5) định nghĩa thổ ngữ như là nghiên cứu
về hình thái các phương ngữ và những biến thể. Một phương ngữ chỉ một biến
đổi ngôn ngữ khác biệt ít nhất so với các biến thể khác về mặt ngữ pháp, âm
vị học, hoặc từ vựng. Một tiêu chí để phân biệt được hai hay nhiều biến thể là
phương ngữ hoặc ngôn ngữ khác nhau là tính dễ hiểu lẫn nhau. Nếu người nói
của hai biến thể này, không được học trước hoặc tiếp xúc với người nói của
phương ngữ kia vẫn có thể hiểu người nói của phương ngữ kia ở một mức độ
nào đó, nó được coi là họ nói những phương ngữ khác nhau của cùng một
ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu người nói của hai biến thể hoàn toàn không thể hiểu
được người kia nói gì, thì được coi làhọ nói hai ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ,
một người Thái sẽ không có khả năng hiểu tiếng Việt nếu anh không học
ngôn ngữ này trước đó, nhưng anh ta vẫn có thể hiểu tiếng Lào ngay cả khi
không được học trước hoặc tiếp xúc với ngôn ngữ này vì tiếng Lào đại diện
cho một phương ngữ khác trên tính liên tục của phương ngữ gắn với tiếng
Thái, mặc dù chúng có thể trùng nhau phần nào đó. Theo Chambers và
18
Trudgill, tính dễ hiểu lẫn nhau phụ thuộc vào ba yếu tố sau đây, cụ thể là,
mức độ tiếp xúc với ngôn ngữ khác của người nghe, trình độ giáo dục và sự
sẵn sàng để hiểu được ngôn ngữ đó.
Hơn nữa, các tác giả cũng xác định phương ngữ địa lý là một phương
pháp để thu thập bằng chứng về sự khác biệt của phương ngữ một cách có hệ
thống. Trong việc thu thập dữ liệu về những khác biệt của phương ngữ, một
bảng câu hỏi điều tra với cùng một hướng dẫn hoặc một tập hợp các từ vựng
cơ bản thường được sử dụng như một công cụ nghiên cứu để người thu thập
dữ liệu thuộc lĩnh vực khác nhau trong các tình huống khác nhau và có thể gợi
ra bản chất chung của dữ liệu ngôn ngữ. Điều này nhằm đảm bảo rằng các kết
quả về ngôn ngữ có thể được thực hiện tương tự.
Về lịch sử của phương ngữ địa lý, Chambers và Trudgill (1998: 15-16),
tuyên bố rằng cuộc khảo sát phương ngữ địa lý đầu tiên được tiến hành ở Đức
bởi George Wenker vào năm 1876. Wenker đã gửi một danh sách các câu viết
theo tiêu chuẩn của Đức cho các giáo viên ở miền bắc nước Đức và yêu cầu
họ gửi lại danh sách phiên âm ra ngôn ngữ địa phương. Từ năm 1877 đến năm
1887, gần 50.000 danh sách đã được gửi đi trên toàn quốc, và khoảng 45.000
trong số đó đã được gửi trả lại như là danh sách được phiên âm ra ngôn ngữ
địa phương. Tuy nhiên, đa số dữ liệu lại chỉ ra vấn đề hơn là thuận lợi. Tác
giả buộc phải phân tích các biến thể của một số từ nhất định trong một khu
vực lân cận của miền Bắc và miền Trung nước Đức. Cuối cùng, ông đã tạo ra
hai bộ bản đồ ngôn ngữ bằng tay, với mỗi bản đồ chỉ ra một tính năng riêng
biệt. Chúng là át-lát ngôn ngữ đầu tiên được xuất bản (1998: 15-16).
Năm 1896, Jules Gillieron bắt đầu làm cuộc khảo sát ngôn ngữ của nước
Pháp bằng cách sử dụng một bảng câu hỏi với khoảng 1.500 câu hỏi. Kết quả
là hơn 700 cuộc phỏng vấn được tiến hành tại 639 địa điểm ở các vùng nông
thôn Pháp. Các dữ liệu được gửi đến Gillieron và nhóm của ông gặp mặt định
19
kỳ để phân tích và hợp nhất. Với một dòng dữ liệu ngôn ngữ ổn định, chúng
có thể đưa ra những kết quả ngay lập tức, bắt đầu từ năm 1902 và tập thứ
mười ba (tập cuối cùng) đã được xuất bản vào năm 1910. Công trình của ông
có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các công trình sau này về phương ngữ địa lý
nhờ tính hiệu quả và chất lượng của dự án từ khi khởi đầu đến lúc xuất bản
(1998: 17).
1.2 Biến đổi ngôn ngữ
Chomsky (1965: 3) cho rằng sự thay đổi là bản chất bên trong ngôn ngữ
và không có sự bất biến lý tưởng nào giữa người nói – người nghe trong một
cộng đồng ngôn luận hoàn toàn đồng nhất. Thực tế là ngôn ngữ thay đổi từ
người nói này đến người nói khác và từ vùng này sang vùng khác; ngay cả với
cùng một người, lời nói cũng thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào tâm trạng
người đó: hạnh phúc, buồn, mệt mỏi hay phấn khích. Hockett (1965: 192-193)
trích đoạn của Jespersen xuất bản năm 1922 về thay đổi âm thanh như sau:
“Có nhiều nét giống nhau trong thông tin của âm thanh lời nói: tại một
thời điểm, chúng ta có thể hạ hàm thấp một chút, hoặc đẩy lưỡi ra phía
trước một chút so với bình thường, hoặc ngược lại, do ảnh hưởng của sự
mệt mỏi hay lười biếng, hoặc để nhạo báng ai đó, hoặc bởi vì chúng ta
ngậm một điếu xì gà hay khoai tây trong miệng, sự chuyển động của hàm
hay của lưỡi có thể ngắn hơn bình thường.”
Như một hệ quả, trong một cộng đồng lời nói được tạo thành từ nhiều
người nói, khi đó tính đa dạng của ngôn ngữ là sự ràng buộc để xảy ra sự biến
đổi khi các thành viên của cộng đồng thuộc độ tuổi, giới tính, trình độ học
vấn, nghề nghiệp và địa vị xã hội hoặc thậm chí dân tộc khác nhau. Jespersen
nói thêm rằng quá trình thay đổi âm thanh bản chất là từ từ và nó liên quan
đến các biến thể xã hội khác nhau để các thay đổi xảy ra.
20
- Xem thêm -