1/15
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Tên đề tài
“Tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng
môn Hóa học 9”
II. Lí do chọn đề tài
Hóa học là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức Hóa học được vận dụng
rất nhiều trong thực tế cuộc sống và trong cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cùng với các môn học khác trong nhà trường môn Hóa học có vai trò rất quan
trọng bởi vì Hóa học hiện diện khắp nơi trong cuộc sống. Nó có mặt xung quanh
chúng ta trong những hiện tượng thực tiễn hàng ngày. Với ngành giáo dục hiện
nay chúng ta đang dạy học theo hướng tích hợp liên môn, dạy học sinh dùng
kiến thức đã học giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Đặc biệt có Hóa học còn có khả năng phát huy sự hiểu biết của học sinh
đối với thế giới bên ngoài nếu giáo viên biết khai thác, lồng ghép, tích hợp liên
hệ các câu hỏi, bài tập thực tiễn vào trong quá trình dạy và học.Trong phương
châm giáo dục hiện nay, trước hết tạo điều kiện cho học sinh việc “Học đi đôi
với hành”, “Lý thuyết gắn liền với thực tế”; Tạo cho học sinh sự hứng thú,
hăng say trong học tập. Xây dựng cho các em có thái độ học tập đúng đắn,
phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo, lòng ham học, ham hiểu biết,
năng lực tự học và vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Với bộ môn Hóa học, định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng được
coi trọng đó là: Quan tâm và tạo mọi điều kiện để học sinh hoạt động sáng tạo
trong giờ học; để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng về hóa học bằng
nhiều biện pháp như:
+ Khai thác đặc thù bộ môn tạo ra các hình thức hoạt động đa dạng,
phong phú.
+ Đổi mới hoạt động học tập của học sinh và tăng thời gian dành cho học
sinh hoạt động trong giờ học.
+ Tăng mức độ hoạt động trí lực, chủ động, tích cực, sáng tạo của học
sinh như: Thường xuyên sử dụng tổng hợp các phương pháp dạy học.v.v…
Chính vì những lí do đó với mong muốn làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của
người giáo viên trong giai đoạn hiện nay, mong góp phần nhỏ bé của mình
vào sự nghiệp giáo dục nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói
chung và trường THCS Thái Hòa nói riêng tôi đã đi nghiên cứu tài liệu và học
hỏi các đồng nghiệp cùng với những kinh nghiệm rút ra từ những năm giảng dạy
Hoá học ở trường THCS, tôi đã lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Tích hợp các
hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa học 9” để nghiên
2/15
cứu và áp dụng cho chương trình hóa học lớp 9, Trường THCS Thái Hòa trong
năm học 2020 - 2021.
III. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp học sinh xây dựng hệ thống
một số hiện tượng Hóa học trong thực tiễn vào bài giảng trong chương trình Hóa
học 9, giúp các em giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín
dị đoan, góp phần nâng cao hứng thú và kết quả học tập môn Hóa học. Đồng
thời đề tài cũng làm rõ ý nghĩa khoa học hóa học có thể ứng dụng thực tiễn trong
đời sống hàng ngày, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng thú trong môn
học, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong tình hình đất nước
hiện nay.
IV. Đối tượng viết đề tài và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là các hiện tượng hóa học diễn ra trong thực tiễn
liên quan đến chương trình lớp 9, được kiểm chứng qua năm học: 2020- 2021 ở
trường THCS Thái Hòa với 73 học sinh lớp 9.
V. Phương pháp nghiên cứu
-Nghiên cứu trên cơ sở các tài liệu: Luật giáo dục về đổi mới chương
trình, phương pháp dạy học tích cực bộ môn hóa học THCS.
-Nghiên cứu thực trạng dạy học hóa học 9 ở trường THCS Thái Hòa
-Tổng hợp các hiện tượng hóa học thực tiễn áp dụng cho một số bài dạy
cụ thể ở chương trình hóa học 9.
-Phương pháp so sánh, đối chứng.
-Phương pháp kiểm tra đánh giá.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đối với học sinh THCS các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp
cho tương lai nên ý thức học tập của các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn
học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người giáo
viên dạy Hóa học phải biết nắm tâm lí và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, đồng
thời lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với thực tiễn đời sống hàng ngày để
thấy môn Hóa học gần gũi với các em. Giáo viên phải tổ chức các hoạt động tự
lực học tập sau:
+ Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh theo hướng tích hợp
- Cho học sinh thấy được mối quan hệ hữu cơ của các bộ môn khoa học với
nhau như: Hóa, Lý, Sinh, Địa, GDCD…. Từ đó làm tăng khả năng tiếp thu, hiểu
biết kiến thưc sâu, rộng hơn.
3/15
- Khi dạy kiến thức Hóa bất kể ở đơn vị kiến thức nào có liên quan đến môn học
khác giáo viên cần đưa ra câu hỏi dạng mở theo hướng tích hợp để học sinh chủ
động tìm hiểu, trả lời và thấy được mối quan hệ giữa các môn.
+ Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh cách thiết lập sự liên hệ các nội
dung học với thực tiễn.
- Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học,
giáo viên luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa
với thực tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ với
các hiện tượng xung quanh chúng ta.
+ Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh thông qua các tình huống bằng
các hiện tượng thực tiễn.
Trong quá trình dạy học nếu ta chỉ áp dụng một kiểu dạy thì học sinh sẽ nhàm
chán. Giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học lồng ghép vào nhau,
trong đó hình thức giảng dạy bằng cách đưa ra các tình huống giả định kèm vào
các phương pháp dạy để học sinh tranh luận vừa phát huy tính chủ động, sáng
tạo của học sinh vừa tạo môi trường thoải mái để các em trao đổi từ đó giúp các
em yêu thích môn học thêm.
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG
Trước tình hình học Hoá học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và
đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để
đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi
trường, về tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng
trên toàn thế giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật
và mới mẻ, đảm bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục
kỹ thuật tổng hợp, tính hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những
quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi
lượng kiến thức không đồng nhất .
* Thực tế giảng dạy cho thấy:
Môn Hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò, dễ
làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một
số bộ phận học sinh không muốn học Hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị
thực tiễn của Hoá học.
Trong thực tế cuộc sống hàng ngày nhiều hiện tượng tự nhiên, nhiều vấn
đề xã hội diện ra xung quanh chúng ta cần phải được học sinh vận dụng kiến
thức khoa học liên môn mới giải quyết được, nó liên quan đến hóa học, vật lý,
sinh học, địa lý…..Lâu nay việc sưu tầm các hiện tượng, vấn đề đó đang còn
4/15
xem nhẹ dẫn đến học sinh hiểu vấn đề một cách phiến diện hoặc giải quyết
không thỏa mãn triệt để.
Khi chuẩn bị thực hiện đề tài này, học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt
các kiến thức bộ môn hóa học của các em chỉ ở mức độ thấp đó là nắm các khái
niệm, định luật… Học sinh chưa biết và vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống,
chưa đi sâu vào quá trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên học sinh hay nhàm
chán. Những học sinh có khả năng tư duy không cao thì có xu hướng sợ học bộ
môn này.
Thực trạng ở trường THCS Thái Hòa số học sinh ít, số giáo viên ít nên rất
khó khăn trong việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy. Trong năm học này tôi đã
thành lập “Câu lạc bộ Hóa học ” Tuy một số em rất muốn tham gia câu lạc bộ
hóa học nhưng một phần chưa đủ tự tin vào năng lực hiểu biết môn Hóa mặt
khác vốn kiến thức về Hóa học liên hệ với thực tiễn đời sống còn hạn chế nên
các em còn e ngại tham gia và rất ít học sinh tự tin tham gia. Đặc biệt qua các kỳ
thi khảo sát chất lượng học kỳ, thi học sinh giỏi các cấp thì vấn đề liên hệ thực tế
có liên quan đến kiến thức Hóa học ít được chú ý nên chất lượng và kết quả
chưa cao.
Kết quả khảo sát chất lượng môn Hóa học của học sinh khối lớp 9 của
học kỳ I năm học 2020- 2021 trước khi thực hiện đề tài:
TS
Giỏi
73 SL
%
8
11%
Khá
SL
%
19,2
14
%
Trung bình
SL
%
53,4
39
%
Yếu
SL
%
11
15%
Kém
SL
%
01
1,4%
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
* Các giải pháp:
Để thực hiện tốt được vấn đề “Tích hợp các hiện tượng hóa học trong
thực tiễn vào bài giảng Hóa học 9 ” đòi hỏi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ
bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm; tìm hiểu, tham khảo các vấn đề
thực tế có liên quan đến bài học, hình thành bài giảng theo hướng phát huy tích
cực, chủ động của học sinh. Song phải mang tính chất hợp lý, hài hòa, đôi lúc có
khôi hài nhưng vẫn đảm bảo được mục đích, tiêu chí, nội dung của bài dạy. Tuy
nhiên, thời gian dành cho vấn đề này không nhiều (ví như thứ gia vị trong đời
sống, không thể thay thế cho thức ăn, nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn
uống). Trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã sử dụng các hiện tượng hóa học
trong thực tiễn vào bài giảng bằng cách:
5/15
1/ Đặt tình huống vào bài mới:
Tiết dạy có gây được sự chú ý của học sinh hay không phụ thuộc vào người
dạy rất nhiều. Trong đó, phần mở đầu đặc biệt quan trọng. Nếu ta biết đặt ra một
tình huống thực tiễn yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua bài học sẽ
tạo được sự chú ý, cuốn hút học sinh trong quá trình học tập.
Thí dụ 1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt,
nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho
tính mạng của người và động vật.
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:
CaO + H2O Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo
cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra
nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố
vôi để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài ở Bài 2: Một số
Oxit quan trọng
Thí dụ 2: Chảo, môi, dao đều được làm từ sắt. Vì sao chảo lại giòn? môi lại
dẻo? còn dao lại sắc?
Giải thích: Chảo, môi và dao đều làm từ các hợp kim của sắt nhưng chúng lại
không giống nhau.
Sắt dùng để làm chảo là “gang”. Gang có tính chất là rất cứng và giòn.
Trong công nghiệp, người ta nấu chảy lỏng gang để đổ vào khuôn, gọi là “đúc
gang”.
Môi múc canh được chế tạo bằng “thép non”. Thép non không giòn như
gang nó dẻo hơn. Vì vậy người ta thường dùng búa để rèn, biến thép thành các
đồ vật có hình dạng khác nhau.
Dao thái rau không chế tạo từ thép non mà bằng “thép”. Thép vừa dẻo
vừa dát mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc.
Áp dụng: Vấn đề từ sắt có thể làm được những vật dụng có chức năng khác
nhau được sử dụng rất rộng rãi trong cuộc sống. Giải thích được điều này đòi
hỏi học sinh phải biết được tính chất của sắt cũng như hợp kim của nó. Giáo
viên có thể đặt câu hỏi này vào bài bài Bài 20: Hợp kim sắt: Gang, Thép.
2/ Sử dụng trong giảng dạy bài mới:
Trong các giờ giảng bài mới, giáo viên có thể linh hoạt nhiều phương
pháp khác nhau để kết hợp các kiến thức thực tiễn vào bài giảng, thuận lợi nhất
là hai phương pháp tích hợp và lồng ghép.
6/15
a, Phương pháp tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức
Hóa học với kiến thức thực tiễn, làm cho chúng hòa quyện vào nhau thành một
thể thống nhất.
Thí dụ 1: Khi giảng bài về “Các oxit của cacbon”, bên cạnh giảng về vai trò làm
chất khử của CO trong công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp luyện kim, giáo
viên cần kết hợp với kiến thức về khả năng gây ngộ độc của CO, triệu chứng bị
ngộ độc. Như trong thực tế khi dừng xe trước đèn đỏ mà không tắt máy thì sẽ
thải ra nhiều khí CO.Từ đó ta biết được các nguồn sinh ra CO thường có trong
cuộc sống để phòng tránh. Hoặc khi giảng về khí CO 2, song song với việc giảng
về vai trò của CO2 đối với quá trình quang hợp của cây xanh, đồng thời giáo
viên phải đề cập đến vấn đề gây “hiệu ứng nhà kính” của CO2, và giáo dục học
sinh nên trồng cây xanh, bảo vệ rừng để bảo vệ môi trường và cuộc sống.
Thí dụ 2: Tại sao nước máy lại có mùi khí clo ? Vì sao không dùng nước
máy để tưới cây cảnh?
Giải thích: Trong hệ thống nước máy, người ta cho vào một lượng nhỏ
khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần
tác dụng với nước:
Cl2 + H2O HCl + HClO
Axit hipoclorơ (HClO) sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng
khử trùng, sát khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ sinh ra do đó
khi ta sử dụng nước ngửi thấy mùi clo.
Khi dùng nước máy tưới cây cảnh thì trên lá cây xuất hiện những đốm
trắng và làm rụng lá vì chất diệp lục trên lá bị oxi hóa bởi lượng HClO trong
nước máy, vì vậy không nên dùng nước máy để tưới cây.
Giải thích được hiện tượng này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứng
dụng của clo trong cuộc sống mà học sinh có thể kiểm nghiệm thật dể dàng.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứng
dụng của clo trong Bài 26: Clo
b, Phương pháp lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt
cấu trúc để có thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội
dung liên quan đến thực tiễn, hoặc những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài,
gây cười có thể đan xen vào tiết học. Cách này có thể tạo không khí học tập
thoải mái, kích thích niềm đam mê hứng thú bộ môn.
Thí dụ 1: “Ma trơi” là gì? “Ma trơi” thường gặp ở đâu?
Giải thích: “Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể
(xương động vật) có chứa một hàm lượng Phốtpho khi chết phân huỷ tạo 1
phần thành khí PH3 (Photphin) khi có lẫn một chút khí P 2H4 (Điphotphin), khí
7/15
PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong
không khí.
2PH3 + 4O2 P2H4 P2O5 + 3H2O
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là : Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa
địa càng tăng nên tính chất kịch tính.
Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về Phốtpho để giải thích hiện
tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc
sống lành mạnh. Giáo viên có thể tích hợp trong Bài 25: Tính chất của phi kim
Thí dụ 2: Hiện tượng tạo thạch nhũ trong hang động với những hình dạng
phong phú đa dạng được hình thành như thế nào?
Giải thích: Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi trời
mưa trong không khí có CO2 tạo thành môi trường axit nên làm tan được đá vôi.
Những giọt mưa rơi xuống sẽ bào mòn đá thành những hình đa dạng:
CaCO3 + CO2 + H2O Ca(HCO3)2
Theo thời gian tạo thành các hang động. Khi nước có chứa Ca(HCO 3)2 ở
đá thay đổi về nhiệt độ và áp suất nên khi giọt nước nhỏ từ từ có cân bằng:
Ca(HCO3)2 CaCO3 + CO2 + H2O
Như vậy lớp CaCO3 dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành những
hình thù đa dạng.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá, cụ thể
là Phong Nha Kẽ Bàng (Quảng Bình). Học sinh sẽ biết được quá trình hình
thành các hang động với những hình dạng phong phú là do thiên nhiên kiến tạo
dựa trên các quá trình biến đổi hóa học. Dựa vào tính chất của Canxi cacbonat
giáo viên có thể đề cập vấn đề trên ở Bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat
3/ Nêu hiện tượng thực tiễn thông qua các bài tập tính toán:
Nhằm giúp học sinh lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích, hiểu được
bài toán yêu cầu gì và giải quyết như thế nào? Từ đó hiểu được cách tiết kiệm
nguyên liệu, sử dụng nguyên liệu đúng cách…
Thí dụ: Khi dạy bài rượu etylic giáo viên có thể đưa ra bài tập tính toán sau:
Trên nhãn của các chai rượu đều ghi các số, thí dụ 450, 180, 120.[4]
a,Hãy giải thích ý nghĩa của các con số trên.
b,Tính số ml rượu etylic có trong 500ml rượu 450.
c,Có thể pha được bao nhiêu ml rượu 250 từ 500 ml rượu 450.
4/ Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thường ngày sau khi đã
kết thúc bài học:
Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào kiến thức đã học tìm
cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó. Học sinh
8/15
sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi “ vì sao lại có hiện tượng đó”? Tạo tiền đề thuận lợi
cho khi học bài mới tiếp theo.
Thí dụ 1: Ca dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu ca dao đó mang ý nghĩa Hóa học gì ?
Giải thích: Câu ca dao có nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đòng mà có
trận mưa rào kèm theo sấm chớp thì rất tốt và cho năng suất cao. Vì sao vậy ?
Do trong không khí có khoảng 80% Nitơ và 20 % oxi. Khi có sấm chớp (tia lửa
điện) thì:
o
C
N 2 O2 3000
2 NO
Sau đó:
2NO + O2 → 2NO2
Khí NO2 hòa tan trong nước: 4NO2 + O2 + H2O → 4HNO3
HNO3 hòa tan trong đất được trung hòa bởi một số muối tạo muối nitrat
cung cấp Nitơ cho cây. Nhờ có sấm chớp ở các cơn mưa giông, mỗi năm trung
bình mỗi mẫu đất được cung cấp khoảng 6-7 kg nitơ.
Đây là một câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn rất thường gặp trong đời
sống, quả là một kinh nghiệm được ông cha ta rút ra qua những tháng năm canh
tác nông nghiệp. Học sinh cũng dễ dàng quan sát để kiểm nghiệm và giải thích
được một cách khoa học về vấn đề trên. Giáo viên có thể đề cập trong Bài 11:
Phân bón hóa học
Thí dụ 2: Tại sao khi đánh phèn chua vào nước thì nước lại trở nên trong ?
Giải thích: Công thức hóa học của phèn chua là muối sunfat kép của
nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm 24 phân tử nước: K 2SO4.Al2(SO4)3.24H2O.
Do khi đánh phèn trong nước phèn tan ra tạo kết tủa Al(OH) 3, chính kết tủa keo
này đã dính kết các hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành các hạt đất to hơn,
nặng và chìm xuống làm nước trong. Nên trong dân gian có câu:
“ Anh đừng bắc bậc làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong”
Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước
trong dùng cho tắm, giặc. Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn
gọi là minh phàn ( minh là trong trắng, phàn là phèn).
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên tích hợp cho phần liên hệ thực tế trong Bài
18: Nhôm.
Thí dụ 3: Làm cách nào để quả mau chín ?
Giải thích: Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quả
xanh thì toàn bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Tại sao vậy ?
9/15
Bí mật của hiện tượng này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiên
cứu quá trình chín của trái cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra một
lượng nhỏ khí etilen. Khí này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tế
bào trái cây và làm cho quả mau chín. Nắm được bí quyết đó người ta có thể làm
chậm quá trình chín của trái cây bằng cách làm giảm nồng độ etilen do trái cây
sinh ra. Điều này đã được sử dụng để bảo quản trái cây không bị chín nẫu khi
vận chuyển xa. Ngược lại khi cần cho quả mau chín, người ta thêm etilen vào
kích thích quá trình hô hấp của tế bào trái cây.
Ngày nay người ta dùng khí đó cho vào thùng trái cây để làm trái cây mau
chín vì khi có hơi nước khí đó tác dụng trong môi trường ẩm sinh ra etilen làm
trái cây mau chín.
Đây là hiện tượng đã được sử dụng rất lâu nhưng không phải ai cũng biết
giải thích được. Giáo viên có thể sử dụng hiện tượng trên liên hệ thực tế trong
phần ứng dụng của etilen ở Bài 37: Etylen
Thí dụ 4: Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao (hồ)?
Giải thích: Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các
vật thể này thối rữa (hay quá trình phân hủy các vật thể hữu cơ) sinh ra khí
metan. Người ta ước chừng 1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng năm
là từ các hoạt động cày cấy.
Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm bioga trong chăn nuôi heo
tạo khí metan để sử dụng đun nấu hay chạy máy …
Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề về
môi trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẻ. Giáo viên đưa vấn đề này vào
trong phần liên hệ thực tế bài 36: Metan
5/ Hướng dẫn tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn ở gia đình,
địa phương.
Sau khi đã học, tìm hiểu, nghiên cứu qua một nội dung, một vấn đề Hóa học
trong bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thề làm cho học sinh căn cứ vào những
kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí
nghiệm trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng Hóa học
vào đời sống thực tiễn.
Thí dụ 1: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng, lâu ngày thấy xuất
hiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào ?
Giải thích: Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là
nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá
học:
Ca(HCO3)2 → CaCO3↓ + CO2↑ + H2O
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2↑ + H2O
Do CaCO3 và MgCO3 sinh ra đóng cặn.
10/15
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH 3COOH 5%) và rượu,
đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau
mạnh là sạch.
Giáo viên có thể tích hợp vào trong Bài 9:Tính chất hóa học của muối
( hay Bài 29: Muối các bonat). Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống
cũng góp phần cho học sinh hiểu bản chất của vấn đề có trong đời sống hàng
ngày, học sinh có thể ứng dụng trong gia đình mình, tạo sự hưng phấn trong học
tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được.
Thí dụ 2: Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị bệnh cảm ?
Giải thích: Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng
khí H2S tương đối cao. Chính lượng H 2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng
Ag để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H 2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thể
giảm và dần đỡ bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám:
4Ag + 2H2S + O2 → 2Ag2S↓ + 2H2O
(đen)
Hiện tượng “đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến
tận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa học mà mọi
người cần phải biết. Giáo viên có thể tích hợp hiện tượng trên khi dạy bài 16:
Tính chất hóa học của kim loại.
Thí dụ 3: Để làm sạch nhựa quả dính vào dao khi cắt (ví dụ nhựa mít) người ta
thường
A. nhúng dao vào xăng hoặc dầu hoả.
B. nhúng dao vào nước xà phòng.
C. ngâm dao vào nước nóng.
D. ngâm dao vào nước muối.
*Đáp án : A
6/ Lồng ghép, tích hợp vấn đề môi trường trong bài dạy:
Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất,…đang được con người nhắc đến
rất nhiều. Trong cuộc sống hàng ngày các hiện tượng thường xuyên bắt gặp như:
nước thải của một ao cá, chuồng heo, chuồng gà,…; khói bụi của các lò gạch,
nhà máy xay lúa, các cánh đồng sau thu hoạch,…có liên quan gì đến những diễn
biến bất thường của thời tiết hiện nay không? Giáo viên dạy học bộ môn Hóa có
thể lồng ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng của
một số chất,… Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn phải giáo
dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực
trạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gũi với
học sinh.
Thí dụ 1: “Mưa axit” là gì ? Tác hại của nó như thế nào ?
11/15
Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong
(ôtô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2
và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà
máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2 O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit
làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm
từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Ngày nay, hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên những
hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề
ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất
chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao
ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên liên hệ tích
hợp môi trường trong Bài 2: Một số Oxit quan trọng, ý thứ 2 có thể liên hệ khi
học Bài 29: Axit Cacbonic và muối Cacbonat.
Thí dụ 2: Xung quanh các nhà máy sản xuất gang, thép, phân lân, gạch
ngói,…cây cối thường ít xanh tươi, nguồn nước bị ô nhiễm. Điều đó giải
thích như thế nào ?
Giải thích: Việc gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí là do
nguồn chất thải dưới dạng khí thải, nước thải, chất rắn thải…
- Những chất thải này có thể dưới dạng khí độc như: SO 2, H2S, CO2, CO,
HCl, Cl2…có thể tác dụng trực tiếp hoặc là nguyên nhân gây mưa axit làm hại
cho cây.
- Nguồn nước thải có chứa kim loại nặng, các gốc nitrat, clorua, sunfat…
sẽ có hại đối với sinh vật sống trong nước và thực vật.
- Những chất thải rắn như xỉ than và một số chất hóa học sẽ làm cho đất bị
ô nhiễm, không thuận lợi cho sự phát triển của cây.
Do đó để bảo vệ môi trường các nhà máy cần được xậy dựng theo chu trình
khép kín, đảm bảo khử được phần lớn chất độc hại trước khi thải ra môi trường.
12/15
Giáo viên có thể đặt câu hỏi này khi dạy xong phần sản xuất gang, thép để
tích hợp vấn đề bảo vệ môi trường, giúp học sinh ý thức được việc bảo vệ môi
trường ở Bài 20: Hợp kim Sắt, Gang, Thép.
7/ Tích hợp trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:
Trong giờ bài tập, giáo viên có thể đưa vào các bài tập có nội dung thực tiễn
mà học sinh có thể vận dụng được những kiến thức trong nội dung luyện tập để
giải quyết những kiến thức thực tiễn có liên quan.
Thí dụ: Khi dạy phần luyện tập về Clo, có thể đưa ra bài tập sau: Trong
phòng thí nghiệm (hoặc nhà máy sản xuất giấy) khi bị ngộ độc Clo người ta sơ
cứu bằng cách cho nạn nhân ngửi khí nào?
A. H2
B. NH3
C. O2
D. N2
8/ Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
Giáo viên hóa học nên tổ chức cho học sinh các câu lạc bộ Hóa học, các
buổi ngoại khóa về Hóa học, các cuộc thi Hóa học vui,…. nhằm tạo điều kiện
cho học sinh vận dụng những kiến thức hóa học vào cuộc sống, tạo niềm hứng
thú và say mê hóa học, đồng thời kích thích học sinh lòng ham hiểu biết, hình
thành cho học sinh thói quen luôn thắc mắc, đặt vấn đề đối với những hiện
tượng trong cuộc sống và phải tìm cách giả quyết cho được các vấn đề đó.
Thí dụ 1: Làm thế nào có thể khắc được thủy tinh ?
Giải thích: Muốn khắc thuỷ tinh, người ta nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng
chảy, lấy ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ…cần khắc nhờ lớp sáp (nến)
mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thuỷ tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo
đi lớp sáp do có phản ứng:
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Nếu không có dung dịch HF, ta có thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc và bột
CaF2 (màu trắng). Nhúng thuỷ tinh vào sáp nóng chảy, lấy ra cho nguội, dùng
vật nhọn tạo hình, chữ … cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF 2
vào chổ cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng
đặt lên trên khu vực khắc, sau 1 thời gian thuỷ tinh cũng sẽ bị ăn mòn những nơi
cạo lớp sáp.
Do:
CaF2 + 2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh và sản
xuất thuỷ tinh. Nó không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc thủy
tinh mà còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học khi gặp
vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mê
học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáo
13/15
viên có thể cho nhóm “ Câu lạc bộ Hóa học” tìm hiểu và thực hành sau khi
học xong Bài 30: Silic – Công nghiệp Siliccat
Thí dụ 2: Cách làm xà phòng bánh ra sao?
Thông thường thí nghiệm xà phòng hóa ít thành công (chỉ thu được váng xà
phòng). Sau đây là cách làm để thu được bánh xà phòng:
Cho dầu ăn và mỡ bò vào chén sứ, đun trên ngọn lửa đèn cồn.
Từ từ cho dung dịch NaOH đã pha sẵn vào dầu ăn, khuấy đều đến khi hỗn hợp
này hòa đều với nhau (như hồ tinh bột).
Đổ hỗn hợp ra khuôn ta sẽ thu được xà phòng bánh.
Với vấn đề trên, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của hóa học trong đời sống, tạo
sự hưng phấn trong học tập, giao viên có thể tích hợp qua Bài 47: Chất béo
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình dạy học bộ môn Hóa học tại trường THCS Thái Hòa, tôi đã
và đang tiến hành các biện pháp trên để rèn luyện và phát triển kỹ năng vận
dụng kiến thức Hóa học vào thực tiễn cho học sinh. Bản thân tôi nhờ vận dụng
dạy “tích hợp các hiện tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng Hóa học
9” kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quả nhất
định, đó là:
Tôi thấy học sinh tích cực hơn trong việc học tập. Số học sinh yếu lúc đầu lơ
là, thụ động trong việc tìm kiếm kiến thức, nhưng bây giờ đã có thể góp sức
mình vào hoạt động tìm ra kết quả. Từ đó, các em thấy tự tin hơn, mạnh dạn
phát biểu xây dựng bài. Vì vậy, không khí lớp học sôi nổi hơn, học sinh hứng
thú học tập bộ môn hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn, thậm chí có cả
những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện tượng thực tế, rồi lại đến
hỏi tôi.
Có thể nói, kiến thức Hóa học đã giúp các em giải thích được các hiện
tượng trong tự nhiên, tránh mê tín dị đoan. Thậm chí hiểu được những dụng ý
của khoa học trong những câu ca dao, tục ngữ mà thế hệ trước đã để lại. Và có
thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống chỉ bằng những kiến thức được học,
không gây nhàm chán, xa lạ lại trái lại có tác dụng kích thích học sinh chủ động
sáng tạo, hứng thú trong môn học, làm cho bộ môn Hóa học không khô khan,
bớt đi tính đặc thù và phức tạp.
Khi tôi chưa áp dụng đề tài này thì tỉ lệ học sinh yêu thích bộ môn hóa học
ít. học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt các kiến thức bộ môn hóa học của các
em chỉ ở mức độ thấp đó là nắm các khái niệm, định luật… Học sinh chưa biết và
vận dụng… chưa đi sâu vào quá trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên học sinh
hay nhàm chán. Những học sinh có khả năng tư duy không cao thì có xu hướng sợ
học bộ môn này.Từ đó dẫn đến kết quả học tập của học sinh cũng rất thấp.
14/15
BẢNG SỐ LIỆU KHẢO SÁT HỌC KÌ I - NĂM HỌC 2020 – 2021
Số
HS
73
Loại giỏi
SL
%
8
11%
Loại khá
SL
%
Loại TB
SL
%
Loại yếu
SL
%
Loại kém
SL
%
14
39
11
01
19,2%
53,4%
15%
1,4%
Sau khi tôi áp dụng phương pháp dạy học tích cực “Tích hợp các hiện
tượng hóa học trong thực tiễn vào bài giảng môn Hóa học 9” thì tỉ lệ học
sinh thích học bộ môn tăng lên rõ rệt, qua đó chất lượng học tập bộ môn này
được nâng cao.
BẢNG SỐ LIỆU KHẢO SÁT HỌC KÌ II - NĂM HỌC 2020 – 2021
Số
HS
73
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
Loại kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
18
24,7%
27
37%
28
38,3%
0
0%
0
0%
Với cố gắng của bản thân, tôi tin rằng tỉ lệ học sinh yếu sẽ không còn, đó
cũng là để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho nhà trường .
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ
là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm
nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên
phải nhận thức rõ vai trò là người “Thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri
thức trong từng học sinh.
Đến thời điểm giữa học kì II- năm học 2020 -2021, sau khi tôi áp dụng
phương pháp dạy học tích cực lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào bài giảng
môn Hóa học 9 cùng với việc khai thác các kiến thức về hóa học trong đời sống
của học sinh thì tỉ lệ học sinh thích học bộ môn tăng lên rõ rệt, qua đó chất
lượng học tập bộ môn này được nâng cao.
Đã hình thành được cho học sinh các kĩ năng liên hệ, phân tích, so sánh
trong việc tìm hiểu các hiện tượng thực tế liên quan đến kiến thức hóa học.
Học sinh khá – giỏi đã phát huy được khả năng của mình, giải quyết được
các tình huống, hiện tượng hóa học giáo viên đưa ra, thưởng cho các em bằng
con điểm, từ đó làm cho các em có hứng thú hơn trong học tập.
Những học sinh có lực học yếu cũng đã tích cực trong việc làm bài tập,
giáo viên khuyến khích các em bằng những con điểm cụ thể.
Đặc biệt sau khi thực hiện đề tài thì “Câu lạc bộ Hóa học” của tôi với số
lượng học sinh tham gia ngày càng nhiều hơn và yêu thích môn học hơn, các em
15/15
mạnh dạn hơn và tạo cho các em hứng thú trong việc học và nâng cao được chất
lượng học tập của các em.
II. Khuyến nghị:
Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học ở trường phổ thông đang là
vấn đề cần thiết. Để dạy hoá học trong nhà trường phổ thông có hiệu quả tôi đề
nghị một số vấn đề sau:
*Đối với giáo viên: Phải kiên trì, đầu tư nhiều công sức để tìm hiểu các
vấn đề hoá học, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy Hóa học, để có bài giảng
thu hút được học sinh.
*Đối với nhà trường: Nên tổ chức cho học sinh các tiết học hoạt động ngoài giờ
lên lớp, sinh hoạt tập thể nói về Hoá học với hiện tượng thực tế. Từ đó khuyến
khích học sinh tham gia vào nghiên cứu khoa học, áp dụng những điều đã học
vào thực tiễn.
*Đối với Phòng GD&ĐT: Thường xuyên tổ chức các lớp chuyên đề đổi
mới phương pháp dạy học với bộ môn Hóa học. Nhất là trong năm nay về vấn
đề thay đổi sách giáo khoa lớp 6.
Bằng những kinh nghiệm ít ỏi của mình trong công tác giảng dạy bộ môn
Hóa học 9, tôi đã tự đúc rút được một số phương pháp giảng dạy cho bản thân,
dù sao, đó cũng là những ý kiến mang tính cá nhân, tôi rất mong nhận được sự
góp ý của hội đồng khoa học nhà trường, các quý thầy cô, đặc biệt những thầy
cô đã có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn Hóa học để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Hòa, ngày 15 tháng 05 năm2021
Người viết SKKN
Chu Thị Yên
16/15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* SÁCH GIÁO KHOA HÓA HỌC 9 (Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2015
Tác giả: Lê Xuân Trọng- Cao Thị Thặng - Ngô Văn Vụ)
* SÁCH GIÁO VIÊN HÓA HỌC 9 (Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2015
Tác giả: Lê Xuân Trọng, Cao Thị Thặng- Nguyễn Phú Tuấn - Ngô Văn Vụ )
* 385 CÂU HỎI VÀ ĐÁP VỀ HÓA HỌC VỚI ĐỜI SỐNG (Nhà xuất bản
giáo dục. Năm 2014- Tác giả: Nguyễn Xuân Trường)
* PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HÓA HỌC (Nhà xuất bản ĐHSP. Năm 2006 Tác giả: GS.TSKH Nguyễn Cương- TS. Nguyễn Mạnh Dung)
* Tài liệu tham khảo trên Internet:
- http://hoahocngaynay.com
- http://google.com.vn
MỤC LỤC
Trang
17/15
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................1
I. Tên đề tài........................................................................................................1
II. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
III. Mục đích nghiên cứu....................................................................................2
IV. Đối tượng viết đề tài và phạm vi nghiên cứu...............................................2
V. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................2
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................................2
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN..........................................................................................2
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG..........................3
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.................4
1/ Đặt tình huống vào bài mới:.......................................................................4
2/ Sử dụng trong giảng dạy bài mới:..............................................................5
3/ Nêu hiện tượng thực tiễn thông qua các bài tập tính toán:.........................7
4/ Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống thường ngày sau khi đã
kết thúc bài học:..............................................................................................7
5/ Hướng dẫn tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn ở gia đình, địa
phương............................................................................................................9
6/ Lồng ghép, tích hợp vấn đề môi trường trong bài dạy:............................10
7/ Tích hợp trong giờ bài tập và kiểm tra đánh giá:.....................................12
8/ Sử dụng thông qua tổ chức các hoạt động ngoại khóa:............................12
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.........................................................................13
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ....................................................14
I. Kết luận:.......................................................................................................14
II. Khuyến nghị:...............................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................17
18/15
UBND HUYỆN BA VÌ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
---------- ----------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“TÍCH HỢP CÁC HIỆN TƯỢNG HÓA HỌC TRONG
THỰC TIỄN VÀO BÀI GIẢNG MÔN HÓA HỌC 9”
19/15
Môn:
HÓA HỌC
Cấp học: THCS
Giáo viên: CHU THỊ YÊN
Đơn vị công tác: Trường THCS Thái Hòa
Chức vụ: Giáo viên
NĂM HỌC: 2020- 2021
- Xem thêm -