Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số giải pháp nâng cao hoạt động thư viện và phát triển văn hóa đọc tại ...

Tài liệu Skkn một số giải pháp nâng cao hoạt động thư viện và phát triển văn hóa đọc tại trường thpt đô lương 3, nghệ an

.PDF
63
1
118

Mô tả:

SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3 --- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LĨNH VỰC : QUẢN LÝ Tên đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hoạt động thư viện và phát triển văn hóa đọc tại trường THPT Đô lương 3, Nghệ an” 0 MỤC LỤC A. PHẦN MỜ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục đích nghiên cứu 4 3. Lịch sử nghiên cứu 4 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5 6. Đối tượng khách thể nghiên cứu 5 7. Tính mới của đề tài 5 8. Giả thiết khoa học 6 9. Phương pháp nghiên cứu 6 B . NỘI DUNG 8 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 8 1. Cơ sở lý luận 8 1.1 Các khái niệm cơ bản của đề tài 8 1.2. Đặc điểm về hoạt động học tập, giao tiếp đọc sách của học sinh THPT 11 1.3. Vai trò của BGH trong quản lí, khai thác thư viện nhà trường 13 2. Cơ sở thực tiễn 15 2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 15 2.2. Thực trạng quản lý và phát triển thư viện trường ở THPT Đô Lương 3 15 3. Nguyên nhân của tồn tại trên 21 3.1. Nguyên nhân khách quan 21 3.2. Nguyên nhân chủ quan 21 Chương 2. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN NHẰM PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 3, NGHỆ AN 23 2.1. Đầu tư chuẩn hóa thư viện và công tác đổi mới của thủ thư 24 2.2. Phối hợp đoàn trường tổ chức hoạt động NGLL – Giới thiệu sách hay 27 1 2.3.Đầu tư phát triển mô hình “Thư viện xanh” 28 2.4. Kết nối với phụ huynh học sinh, cựu học sinh và các tổ chức giáo dục để duy trì và khai thác mô hình “ Thư viện xanh” 30 2.5. Kết nối thư viện Tỉnh xin dự án bổ sung sách cho thư viện trường 33 2.6. Triển khai các sân chơi về sách để thi đua giữa các lớp thông qua mô hình “ Thư viện xanh” 34 2.7. Khích lệ học sinh thành lập các câu lạc bộ về sách để lan tỏa việc đọc sách theo cách truyền thống, tham gia các cuộc thi văn hóa đọc 35 Chương 3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 36 3.1. Thử nghiệm các biện pháp tác động 36 3.1.1. Kết quả thử nghiệm 36 3.1.2. Đánh giá những kết quả đạt được 37 3.2. Kết luận thử nghiệm và dự thảo nhân rộng mô hình 38 C . MỘT SỐ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 39 1. Kết luận 39 2. Khuyến nghị 39 PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN Nội dung Viết tắt Trung Học Phổ Thông THPT Học Sinh HS Giáo viên GV Đại sứ văn hóa đọc ĐSVHĐ Ban giám hiệu; Giáo dục phổ thông BGH; GDPT An toàn giao thông; Cơ sở dữ liệu ATGT; CSDL 2 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Năm học 2021-2022, ngành Giáo dục và Đào tạo nói chung, các trường học trên khắp cả nước nói riêng tiếp tục gặp muôn vàn khó khăn do đại dịch Covid-19 diễn biết phức tạp. Cũng trong thời gian này trên các kênh truyền thông đại chúng đã nói nhiều về những sáng kiến, giải pháp nhằm giúp đỡ học sinh sinh viên chinh phục tri thức trong mùa đại dịch, trong đó có đề cập đến việc phát triển mô hình thư viện tiên tiến, thư viên điện tử. Tuy nhiên mô hình này bước đầu mới chỉ được khảo cứu và thực hiện thí điểm ở một số trường đại học nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác thông tin cho sinh viên và nghiên cứu sinh, còn ở bậc THPT thì cơ bản vẫn gắn bó với mô hình thư viện truyền thống . Và từ xa xưa, hình ảnh thư viện với những cuốn sách được sắp xếp ngay ngắn trên kệ đã trở nên quen thuộc với thầy cô và học sinh trong các môi trường giáo dục học đường. Thực tế đã có nhiều học sinh thành tài nhờ những cuốn sách từ thư viện trường, nhiều thế hệ giáo viên nhờ thư viện mà có lượng tri thức được bổ trợ thường xuyên. Nếu trường học thiếu thư viện thì chưa thể là trường học đạt chuẩn, chưa thể là trường học đúng nghĩa “ coi trọng con chữ” và hướng tới phát triển toàn diện cho học sinh. Vậy nhưng ở một số thư viện trường học nhiều năm nay không có mấy học sinh đến đọc sách, thư viện không còn là điểm đến mà các bạn học sinh lựa chọn. Phải chăng những cuốn sách trong thư viện và các dãy bàn ghế ở đây chưa thực sự hấp dẫn, lôi cuốn các em học sinh đến với việc đọc sách. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào để văn hóa đọc không bị mai một khi đối diện với thời đại công nghệ số? Làm thế nào để hấp dẫn và lôi cuốn được các em đến với sách, đến với thư viện? Làm thế nào để học sinh thấy được giá trị của việc đọc sách? Rõ ràng trách nhiệm này thuộc về những người làm công tác giáo dục và đặc biệt là người quản lý giáo dục trường học. Xuất phát từ việc nhận thức về trách nhiệm trên đây cũng như thực trạng đọc sách hiện nay của giới trẻ, đặc biệt là thực trạng công tác thư viện tại các trường THPT hiện nay, với mong muốn đánh thức tiềm năng đọc sách trong học sinh chúng tôi chọn chia sẻ đề tài "Một số giải pháp nâng cao hoạt động thư viện và phát triển văn hóa đọc tại trường THPT Đô Lương 3, Nghệ An”. Có thể nói, thư viện trường học thật sự là điểm khởi đầu lí tưởng trong hành trình rèn luyện bản thân để trở thành những cá nhân học tập suốt đời! Vì vậy, đề xuất giải pháp thiết lập, khai thác thư viện theo mô hình “Thư viện xanh” để phát triển văn hóa đọc cho học sinh THPT là vấn đề hết sức thiết thực, hơn nữa đây cũng là một trong những chiến lược của “Trường học hạnh phúc”, “Thư viện thân thiện” mà nhiều nhà giáo tâm huyết đang mong muốn nhân rộng trên toàn quốc. Hi vọng một ngày không xa, học sinh đến trường trong niềm hân hoan hạnh phúc và sách, thư viện luôn là người bạn đồng hành làm nên thành công của tuổi trẻ. 3 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm chia sẻ những giải pháp khai thác và quản lí thư viện trường theo cách thức mới đó là tạo không gian đọc sách thân thiện với môi trường để học sinh có tâm thế và hứng thú đọc sách tốt nhất từ đó nâng cao hiệu quả của văn hóa đọc tại trường THPT. Đề tài cũng nhằm mục đích giúp mọi người chú ý nhiều hơn đến chức năng thư viện trường học bởi đây là kho tri thức khổng lồ, là cơ sở vững chắc cho văn hóa đọc phát triển. Cụ thể đề tài nghiên cứu có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra là: - Thay đổi cách điều hành, quản lí và khai thác thư viện trường học một cách khoa học, hiệu quả. - Triển khai đề án “Thư viện xanh” để thu hút, khích lệ việc đọc sách đối với học sinh. - Giúp học sinh thay đổi tư duy đọc sách, có một cách nhìn và đánh giá tốt hơn về giá trị của sách. - Trang bị cho học sinh những kĩ năng đọc sách giúp học sinh cảm thấy tự tin hơn về chính mình, mạnh dạn bày tỏ ý kiến, tranh luận về những cuốn sách đã đọc. - Tạo một môi trường đọc sách thân thiện, cởi mở, năng động, nâng cao đời sống tinh thần, rèn luyện kỹ năng sống, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ngôn ngữ, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự học, … cho học sinh. - Nâng cao hoạt động thư viện, đa dạng hóa các hoạt động giáo dục bằng các hoạt động trải nghiệm, sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. 3. Lịch sử nghiên cứu: Những năm gần đây đã có một số đề tài hướng đến việc phát triển văn hóa đọc trong học sinh như : “Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa đọc cho học sinh trường Nghi Lộc 2”; “Giải pháp nâng cao văn hóa đọc cho học sinh qua mô hình “tủ sách thanh niên” ở trường Đặng Thai Mai”; “Đề xuất một số giải pháp phát triển văn hóa đọc nhằm nâng cao quản lý thư viện trường” của trường Diễn Châu 2 v.v… Trong thực tế đã có các mô hình, dự án xây dựng và phát triển “Thư viện xanh” ở một số trường trong và ngoài tỉnh nhưng về cơ bản là các trường mầm non, tiểu học hoặc THCS, theo đó cũng đã có những đề tài SKKN tổng kết các hoạt động này. Tiêu biểu như SKKN của cô giáo trường tiểu học Nho Quan- Ninh Bình, trường tiểu học Minh Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa…Tuy nhiên, ở bậc học 4 THPT hiện nay, việc đầu tư xây dựng thư viện đạt chuẩn, thư viện xanh hay việc quan tâm xây dựng phát triển văn hóa đọc thực sự còn khá khiêm tốn. 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu. - Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác giáo dục học sinh bậc THPT, đặc biệt là công tác quản lí và khai thác thư viện nhà trường hướng tới phát triển văn hóa đọc cho học sinh THPT. - Đề tài được triển khai nghiên cứu (NC) tại trường THPT Đô Lương 3 và một số trường THPT trên địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An – nơi chúng tôi đang làm việc, công tác. - Thời gian nghiên cứu: Từ năm học 2019-2020 đến năm học 2021-2022. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau đây: - Nghiên cứu cơ sở lí luận, kiến thức lí luận về tâm lý, sở thích đọc sách của học sinh và phương pháp khích lệ việc đọc sách đối với học sinh THPT. - Thực trạng việc đọc sách trong học sinh ở cơ sở nghiên cứu. - Phân tích nguyên nhân thực trạng, nhất là đặc điểm tâm lý, thực trạng đọc sách trong học sinh. - Nghiên cứu các giải pháp khả thi về quản lý và khai thác sử dụng thư viện nhà trường nhằm phát triển văn hóa đọc. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đọc sách và lan tỏa việc đọc sách ở trường học, trong cộng đồng. - Báo cáo kết quả ứng dụng các hoạt động giáo dục và đề xuất giải pháp nhân rộng mô hình. 6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 6.1. Đối tượng nghiên cứu Một số giải pháp trong quản lý nhằm nâng cao hoạt động thư viện, đặc biệt là xây dựng và khai thác mô hình “Thư viện xanh” để phát triển văn hóa đọc cho học sinh bậc THPT. 6.2. Khách thể nghiên cứu + Mô hình hoạt động thư viện tại trường THPT Đô Lương 3 và một số trường trên địa bàn nơi chúng tôi công tác. 5 + Việc đọc sách của học sinh tại trường THPT Đô Lương 3 và một số trường trên địa bàn nơi chúng tôi công tác. + Cán bộ quản lý, cán bộ thủ thư, giáo viên giảng dạy và chủ nhiệm tại trường THPT Đô Lương 3 và một số trường trên địa bàn nơi chúng tôi công tác. 7. Tính mới của đề tài 7.1. Về lý luận. Đề tài phân tích làm sáng tỏ tâm lý, sở thích, năng lực đọc sách ở học sinh THPT, qua đó đề xuất giải pháp giúp học sinh hiểu về giá trị của sách, giúp các bạn chủ động đến với sách, yêu sách để từ đó tạo được mối quan hệ và tương tác lẫn nhau cùng phát triển văn hóa đọc. 7.2. Về thực tiễn: + Đối tượng nghiên cứu: - Thư viện và văn hóa đọc của học sinh THPT Đô Lương 3. - Có một số phương pháp mới mẻ và sáng tạo. - Tính thực tế cao, dễ áp dụng. Như vậy đề tài góp phần làm rõ thực trạng và ý nghĩa của các hoạt động đọc sách, khai thác và quản lý sách ở thư viện trường THPT Đô Lương 3 và một số trường THPT trên địa bàn nghiên cứu, đặc biệt giải pháp xây dựng, phát triển thư viện trường theo mô hình “Thư viện xanh” đã góp phần nâng cao hiệu quả tìm kiếm, tôn vinh những đại sứ văn hóa đọc trong học sinh hướng tới phát triển văn hóa đọc cộng đồng, bồi dưỡng và khích lệ kĩ năng sáng tác, viết bài, viết báo cho học sinh. Đề xuất những giải pháp tích cực nhằm phát triển văn hóa đọc cho học sinh trường THPT Đô Lương 3. 8. Giả thuyết khoa học Đề tài sẽ là những gợi ý về cách thức khai thác và quản lý thư viện để các nhà trường có thể áp dụng cho học sinh trải nghiệm văn hóa đọc nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong hành trình chinh phục tri thức, góp phần tích cực trong công cuộc đổi mới căn bản Giáo dục và Đào tạo. Đề tài cũng sẽ giúp ích cho các nhà trường, thầy cô, các bậc phụ huynh, các bạn học sinh hiểu rõ giá trị của sách trong cuộc sống, trong học tập, giúp mọi người hiểu được tầm quan trọng của việc đọc sách, nhất là đọc sách theo cách truyền thống để khai thác tốt hơn thư viện trường hay tủ sách gia đình, tủ sách dòng họ… 9. Phương pháp nghiên cứu 6 9.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Thực hiện nghiên cứu theo phương pháp tư duy quy nạp: từ việc nghiên cứu các biểu hiện tâm lý cũng như sở thích, thói quen đọc sách trong cuộc sống hằng ngày của học sinh để từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp. Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về ý thức, thói quen đọc sách của học sinh bậc THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 9.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn Chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát về vấn đề quản lí và khai thác thư viện của các trường; nghiệp vụ của cán bộ thủ thư; quan điểm, cách làm của giáo viên, phụ huynh đối với việc đọc sách của các em tại trường THPT Đô lương 3 và một số trường trên địa bàn chúng tôi đang công tác. Sử dụng phương pháp thu thập thông tin qua việc tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, đời sống, sở thích đọc sách của học sinh; Bên cạnh đó chúng tôi còn trưng cầu ý kiến những giáo viên có lòng đam mê với sách nhờ hỗ trợ, tư vấn để có được những kết luận, giải thích và trình bày vấn đề một cách chính xác và sâu sắc nhất. - Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Ankét) và trắc nghiệm tâm lý (trắc nghiệm khả năng giao tiếp của V.P Dakharốp) để khảo sát thu thập thông tin và đánh giá các biểu hiện thích đọc sách hoặc lười đọc sách của học sinh THPT. - Phương pháp quan sát: Quan sát HS đến thư viện mượn và đọc sách mỗi ngày, mỗi tuần, thái độ của các em trong các giờ sinh hoạt theo chủ đề về sách trên lớp, các giờ ra chơi, sinh hoạt 15 phút, trong các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động trải nghiệm về sách để nắm bắt các biểu hiện cụ thể về lĩnh vực nghiên cứu. 9.3. Các phương pháp thống kê toán học Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để thu thập số liệu, xử lý số liệu định lượng kết quả nghiên cứu xây dựng cơ sở thực tiễn, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý và khai thác thư viện nhằm phát triển văn hóa đọc cho học sinh bậc THPT. 7 B. NỘI DUNG Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN. 1.1.Các khái niệm cơ bản đề tài 1.1.1.Khái niệm thư viện: Theo Luật Thư viện số 46/2019/QH14 do Quốc hội ban hành ngày 21/11/2019 giải thích : Thư viện là thiết chế văn hóa, thông tin, giáo dục, khoa học thực hiện việc xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, cung cấp tài nguyên thông tin phục vụ nhu cầu của người sử dụng. Trong thực tế thư viện là một kho sưu tập các nguồn thông tin, được chọn lựa bởi các chuyên gia và có thể được tiếp cận để tham khảo hay mượn, thường là trong một môi trường yên tĩnh phù hợp cho học tập. Kho tàng của một thư viện có thể chứa đến hàng triệu đầu mục, bao gồm nhiều định dạng sách, các ấn phẩm báo chí và các thể loại khác. Một thư viện được xây dựng và bảo quản bởi một cơ quan nhà nước, một tổ chức, một công ty, hoặc một cá nhân. Ngoài việc cung cấp tài liệu, thư viện còn được phục vụ bởi các thủ thư, những chuyên gia trong việc tìm kiếm và sắp xếp thông tin và đáp ứng nhu cầu của người dùng. Thư viện cũng thường có khu vực yên tĩnh để học tập, và những khu vực hỗ trợ học và làm việc nhóm. Lịch sử thư viện bắt đầu với những nỗ lực đầu tiên nhằm sắp xếp bộ sưu tập văn bản. Những vấn đề đặc biệt thiết yếu bao gồm tính tiếp cận của kho sưu tập, việc thu thập tài liệu, công cụ sắp xếp và tìm kiếm, trao đổi sách, tính chất vật lý của các vật liệu viết khác nhau, phân bố ngôn ngữ, vai trò giáo dục. Từ những năm 1960, vấn đề số hóa và kỹ thuật số kho tàng lưu trữ đã bắt đầu xuất hiện. Những thư viện đầu tiên lưu trữ văn bản đầu tiên các phiến đất sét viết bằng chữ hình nêm được phát hiện tại Sumer, có tuổi đời lên đến 2600 TCN. Thư viện công và tư chứa sách viết xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Vào thế kỷ thứ 6, gần thời Cổ đại Hy-La, những thư viện lớn ở Constantinople và Alexandria, cùng với thư viện của Timbuktu thu hút nhiều học giả trên khắp thế giới. Thư viện hiện đại đang ngày càng được hướng đến trở thành nơi tiếp cận thông tin và kiến thức không giới hạn qua nhiều hình thức và nguồn khác nhau. Thư viện ngày càng trở thành những trung tâm cộng đồng nơi thực hiện các chương trình công cộng và hỗ trợ mọi người có thể học tập suốt đời. Điều 4 Luật Thư viện số 46/2019/QH14 quy định thư viện cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản: Phát triển tài nguyên thông 8 tin phù hợp với nhu cầu học tập, nghiên cứu của người học, người dạy, cán bộ quản lý và mục tiêu, nội dung, chương trình học tập, giảng dạy của từng cấp học, chương trình học; Tổ chức hoạt động khuyến đọc, hình thành thói quen, kỹ năng đọc của người học; Hướng dẫn sử dụng thư viện, trang bị kỹ năng tìm kiếm, khai thác, sử dụng thông tin cho người học, người dạy và cán bộ quản lý; Hỗ trợ việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu và tổ chức các hoạt động giáo dục khác; Thực hiện nhiệm vụ khác do cơ sở giáo dục giao. 1.1.2.Khái niệm thủ thư: Thủ thư hay cán bộ thư viện hoặc hiểu nghĩa đơn giản là người trông coi sách thư viên là một nghề nghiệp làm việc liên quan đến thư viện, coi giữ sách trong thư viện, đó là một chuyên gia về thông tin, lưu trữ, sắp xếp hồ sơ, phân loại, sắp xếp sách vở, đánh bút lục, lau, quét sách ở các kệ sách, hướng dẫn tra cứu thông tin ... được đào tạo về khoa học thư viện, là người thông thạo việc tổ chức và quản lý dịch vụ thông tin hoặc các tài liệu cho những người có nhu cầu thông tin. Thông thường, thủ thư làm việc trong một thư viện công cộng hoặc một thư viện trong các trường đại học, trường tiểu học hoặc trường trung học, các thư viện trong doanh nghiệp hoặc công ty, hoặc cơ quan khác như một bệnh viện, công ty luật.... Công việc này có điểm tương đồng với những người làm nghề nhân viên lưu trữ. Thủ thư là một nhân viên quan trọng và cần thiết trong bất kỳ tổ chức giáo dục nào (trường học, nhà trẻ, trung tâm giáo dục nâng cao). Cùng với các giáo viên (giáo viên, nhà giáo dục, một nhà tâm lý học), phụ huynh… phát huy tầm quan trọng của sách trong học sinh. 1.1.3.Khái niệm văn hóa đọc: Thuật ngữ “Văn hóa đọc” phiên bản từ tiếng Anh là "reading culture" hoặc "culture of reading". Cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm hoàn chỉnh và thống nhất được đưa vào trong các bộ từ điển. Hiện nay, vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm, đã có nhiều học giả, nhà khoa học nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các khái niệm về thuật ngữ văn hóa đọc. Theo đó“Văn hoá đọc" gần đây đã được nhiều người hiểu với ý nghĩa là một hoạt động văn hoá của con người thông qua việc đọc sách báo, tài liệu để tiếp nhận và xử lý thông tin, tri thức một cách khoa học và bổ ích. Như vậy chúng ta có thể hiểuvăn hóa đọc sách là đọc sách một cách có văn hóa. Nói cách khác là ý thức đọc sách đúng đắn của con người. Ở mức độ lí tưởng, văn hóa đọc đề cao tính nghệ thuật, nhu cầu thưởng thức văn hóa đích thực trong việc đọc sách. Bởi thế, nó vượt lên trên khái niệm đọc đơn thuần.Dù hiểu theo cách nào thì văn hoá đọc luôn góp phần to lớn vào việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách con người. 9 Tại Hội thảo “Văn hóa đọc, thực trạng và giải pháp” tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh (2010), khái niệm “văn hóa đọc” được lý giải theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, văn hoá đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác hơn là ba lớp như ba vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau. Ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Theo ThS. Chu Vân Khánh, văn hóa đọc là một loại hình hoạt động văn hóa, bởi lẽ: Đọc sách là tiêu thụ, quảng bá những giá trị văn hóa và các giá trị từ sách báo mà người đọc tiếp nhận và làm nền tảng để tiếp tục sáng tạo nên những giá trị mới. Vì vậy, có thể xem văn hóa đọc là một chỉ số văn hóa của một cộng đồng, một xãhội. ThS. Bùi Văn Vượng lại coi thuật ngữ văn hóa đọc là đọc sách có văn hóa, hay xây dựng một xã hội đọc sách. Theo TS. Lê Văn Viết, quan niệm đọc đến một mức độ, trình độ nhất định nào đó thì mới được coi là văn hóa đọc. Dưới một góc nhìn khác về văn hóa đọc, tác giả Vũ Dương Thúy Ngà(Vụ trưởng Vụ Thư viện, Bộ VHTTDL) cho rằng: "Văn hóa đọc là một hoạt động văn hóa của con người, thông qua việc đọc để tiếp nhận thông tin và tri thức. Đó là sự tích hợp của các yếu tố như nhu cầu đọc, thói quen đọc và được biểu hiện qua hành vi, tập quán đọc của cá nhân và cộng đồng". Qua đó có thể thấy, văn hóa đọc không phải là một khái niệm mới nhưng nội hàm của nó rất rộng, các quan niệm khác nhau về văn hóa đọc đã góp phần trong việc nhận dạng đầy đủ hơn bản chất của văn hóa đọc. Khi đề cập đến nó mỗi tác giả có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Trong đề tài nghiên cứu này, các tác giả tiếp cận văn hóa đọc dưới góc độ cá nhân là tổng thể các năng lực của chủ thể hướng tới việc tiếp nhận và sử dụng thông tin trong tài liệu bao gồm các năng lực định hướng người đọc (nhu cầu đọc, hứng thú đọc), năng lực lĩnh hội tài liệu (kỹ năng đọc) và thái độ ứng xử văn hóa với tài liệu. 1.1.4. Khái niệm học sinh phổ thông: Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về học sinh phổ thông: 10 Theo từ điển tiếng Việt: “học sinh phổ thông là người học ở bậc phổ thông”, tức là giới hạn đối tượng là những người đang học ở bậc phổ thông (tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông). Theo từ điển Giáo dục học: Học sinh bậc trung học phổ thông thuộc lứa tuổi đầu thanh niên từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi. Như vậy học sinh Trung học phổ thông nằm trong độ tuổi từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi, là những người đang theo học các trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân. Theo điều lệ trường Trung học được ban hành kèm theo Thông tư 32/TTBGD&ĐT, quy định học sinh trung học phổ thông có nhiệm vụ: - Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường. - Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân. Tham gia các hoạt động tập thể của trường, lớp, của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; giúp đỡ gia đình và tham gia các công tác xã hội như hoạt động bảo vệ môi trường, thực hiện trật tự an toàn giao thông; Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, tài sản công cộng; góp phần xây dựng, bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống nhà trường. - Kính trọng cha mẹ, thầy giáo, cô giáo, cán bộ, nhân viên của nhà trường và những người lớn tuổi; đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện; thực hiện điều lệ, nội quy nhà trường; chấp hành pháp luật của Nhà nước. Học sinh THPT có quyền: - Được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục toàn diện, được bảo đảm những điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, vệ sinh, an toàn để học tập ở lớp và tự học ở nhà, được cung cấp thông tin về việc học tập của mình, được sử dụng trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hoá, thể thao của nhà trường theo quy định. - Được tôn trọng và bảo vệ, được đối xử bình đẳng, dân chủ, được giáo dục kỹ năng sống. Được quyền khiếu nại với nhà trường và các cấp quản lý giáo dục về những quyết định đối với bản thân mình. - Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. 1.2. Đặc điểm về hoạt động học tập, giao tiếp và đọc sách của học sinh THPT: 1.2.1 Hoạt động học tập: Có thể nói học tập là một hoạt động đặc trưng và hết sức quen thuộc đối với học sinh. Hoạt động ấy vừa đem đến cho các em niềm yêu thích, sự hứng thú, những thăng hoa,… nhưng có khi hoạt động học tập cũng là một áp lực gây nên 11 tâm lý mệt mỏi, chán chường... Hoạt động học tập ở mỗi cấp học, mỗi giai đoạn, thời điểm lại có những biểu hiện khác nhau, những cảm xúc, thái độ khác nhau. Ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông (THPT), hoạt động học tập có những điểm khác biệt cơ bản, học sinh cũng ý thức rõ hơn về động cơ học tập của bản thân. Học sinh THPT thường xác định khá rõ mục tiêu học tập của mình. Học sinh thường sẽ tự trả lời câu hỏi của chính mình là học để làm gì trong tương lai? Học như thế nào? Vì vậy, về cơ bản việc học của hầu hết các em học sinh bậc THPT là sự tự giác. Có những học sinh ưu tú luôn chủ động lên kế hoạch học tập, chủ động tìm thầy, tìm bạn, tiếp cận tri thức và làm đầy tri thức mỗi ngày.Tuy nhiên, vì các em cũng ở trong độ tuổi đang lớn, lập trường chưa vững nên việc học tập của học sinh có thể bị ảnh hưởng khá lớn từ môi trường xung quanh. Những cám dỗ có thể khiến cho một số học sinh trốn học, bỏ học và sa vào các tệ nạn xã hội. Đặc điểm này có thể coi là đặc điểm mang “tính lịch sử” trong toàn bộ lịch sử đường đời của mỗi cá nhân. Hoặc có một số học sinh bậc THPT còn mơ hồ về đích đến nên thường lúng túng, còn thụ động trong việc học tập, học còn mang tính đối phó.... 1.2.2. Hoạt động giao tiếp: So với học sinh ở cấp Tiểu học và THCS thì học sinh bậc THPT có quan hệ giao tiếp rộng hơn nhiều do phạm vi tiếp xúc và môi trường giáo dục không đóng khung ở làng, xã, phường mà là liên xã, liên phường, quận, thị...Hơn nữa, xét ở tâm lý lứa tuổi thì học sinh THPT đã lớn hơn, trưởng thành hơn nên cách thức giao tiếp, ngôn ngữ và thái độ giao tiếp cũng khác với học sinh trung học cơ sở. Học sinh THPT muốn khẳng định theo hướng tự quyết, tự chịu trách nhiệm, ở một mức độ nhất định nào đó thì họ không muốn phụ thuộc mà muốn tự lập nhiều hơn. Tính tự lập của học sinh thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức giá trị. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Chính điều đó làm cho học sinh phải biết tự suy nghĩ và điều chỉnh nhân cách và kĩ năng giao tiếp của mình. Ở học sinh THPT cũng bắt đầu xuất hiện tình yêu nam nữ, nhưng đa số các em thường che giấu tình cảm của mình, cũng có học sinh phân tán tư tưởng trong tình cảm này mà ảnh hưởng tới việc học tập. Tình yêu tuổi học đường đôi lúc cũng tạo ra những cảm xúc căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối hoặc quá vui vẻ khi nhận được quan tâm chăm sóc. Tình yêu tuổi học đường lành mạnh trong sáng nhưng cũng là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có kĩ năng điều khiển cảm xúc hành vi cho phù hợp. 1.2.3.Hoạt động đọc sách của học sinh THPT: 12 Có thể nói đọc sách là hoạt động thường xuyên, tất yếu, bắt buộc của lứa tuổi học sinh. Bởi vì sách giáo khoa và tài liệu tham khảo là dụng cụ, tư liệu học tập quen thuộc của các em. Đọc sách vì thế là kĩ năng trước tiên mà bất kì nhà trường nào cũng trang bị cho học sinh qua các hoạt động dạy học ở trường đặc biệt là qua môn “Tập đọc”. Như vậy, ngay từ khi cắp sách đến trường tất cả các em đã được làm quen với sách, được rèn kĩ năng đọc sách, biết đọc sách, nhiều em sau đó đã chủ động trong việc tìm sách để đọc, nhất là những trang cổ tích, truyện tranh trong hành trình tuổi nhỏ. Tuy nhiên, theo thời gian và sự tác động của mạng xã hội các em dần lãng quên kĩ năng đó, ngoài những cuốn sách giáo khoa phải đọc dường như học sinh bây giờ không có thói quen đọc thêm sách. Nhiều bạn trẻ hôm nay đặc biệt là học sinh bậc THPT không có thói quen đọc sách, họ cho rằng việc đọc sách ấy cho những người trí thức, các nhà văn, nhà khoa học. Một số khác đọc một cách qua loa, những trang sách cứ thế lật đi mà đầu vẫn trống rỗng. Sách có rất nhiều mà không ít người không biết chọn đúng sách để đọc và tìm hiểu. Một số lại chọn đọc sách theo phong trào, không phải do đam mê, không có một chút hiểu biết gì về nội dung cuốn sách mình đang chuẩn bị đọc, cho nên dễ chọn nhầm sách vô thưởng vô phạt, sách có nội dung thiếu văn hoá, không lành mạnh. Vậy nên mới có một nghịch lí trong giới trẻ Việt Nam hiện nay là truyện ngôn tình bán chạy hơn, phổ biến hơn cả những cuốn sách được trao giải Nobel. Thực tế lứa tuổi học sinh nói chung và học sinh bậc THPT nói riêng đều tiềm tàng ý thức về giá trị của sách và kĩ năng đọc sách, có một số bạn vẫn chăm chỉ và đam mê đến với sách mỗi ngày. Vấn đề là cần sự quan tâm và định hướng của người lớn, của giáo viên, của nhà trường để khích lệ và phát huy nhiều hơn nữa những kĩ năng đọc sách chủ động đã bị “đóng băng” ở phần lớn học sinh. 1.3.Vai trò của BGH trong quản lý, khai thác thư viện nhà trường: Như chúng ta đã biết, vai trò lãnh đạo quản lý nhà trường, của ban giám hiệu (BGH) đặc biệt là người đứng đầu đối với sự phát triển hết sức quan trọng. Qua những khóa bồi dưỡng lí luận chính trị, các đồng chí cán bộ lãnh đạo quản lí của nhà trường đã được trang bị kiến thức phương pháp luận và phương pháp công tác về điều hành, quản lý các lĩnh vực hoạt động chủ yếu, mang tính then chốt của nhà trường trong một môi trường có nhiều thay đổi. Đổi mới tư duy cách nghĩ, cách làm để trở thành những người lãnh đạo biết vận dụng sáng tạo và phát huy hết khả năng, năng lực sử dụng kinh nghiệm, những giá trị của mình và của mỗi cá nhân trong nhà trường cho sự phát triển, với mục tiêu “Đào tạo học sinh trở thành chủ nhân mới của đất nước, biết khát vọng đổi mới để vươn lên”. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường đóng vai trò định hướng, là một trong những yếu tố mang tính đột phá và quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Nghị quyết 29-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa 13 XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng đã nêu “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả… ”. Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, .. (mục tiêu của Nghị quyết 29 Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI). Theo tinh thần của Nghị quyết 29, phương pháp giáo dục hiện nay đang trên bước đường đổi mới. Từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang sang tiếp cận năng lực của học sinh, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học trên cơ sở trau dồi các phẩm chất linh hoạt, sáng tạo, độc lập. Tăng cường tổ chức học nhóm, học trong lớp, học ngoài lớp...và thư viện nhà trường sẽ là môi trường trải nghiệm học tập mới rất tốt cho học sinh. Đến với thư viện trường học, các em được tiếp xúc và đọc rất nhiều sách: từ sách giáo khoa, sách bổ trợ, sách nâng cao… đến các loại sách mang tính giải trí như sách truyện, thơ… Đây được xem là kênh thông tin hữu dụng và mang tính giáo dục cao cho các em khi mà văn hóa đọc đang dần mất ưu thế trước văn hóa nghe nhìn. Việc tiếp cận kiến thức, thông tin qua kênh thư viện trường học có nét “mở” hơn so với hoạt động giảng dạy – học tập ở trên lớp. Nếu việc học trên lớp chủ yếu tập trung vào hoạt động thu nhận, sao chép và ghi nhớ các thông tin thì việc “đọc và học” ở thư viện thực sự là một quá trình tìm tòi, khám phá, trải nghiệm và đánh giá. Các em được lựa chọn những cuốn sách mình thích, đọc và cảm thụ theo cách cá nhân, không bị chi phối và ràng buộc bởi bất kỳ khuôn mẫu nào. Cán bộ thư viện có thể giúp các em tìm hiểu, nắm bắt được nội dung kho sách và định hướng đọc sách nhưng quyền lựa chọn cuối cùng là dành cho các em. Hiểu rõ được hiệu quả giáo dục từ mô hình học tập này, ở một số nhà trường các nhà quản lý đã chú ý đến công tác thư viện, bởi họ nhận ra những lợi ích thiết thực và tích cực từ mô hình giáo dục này, họ xem thư viện “là trái tim của trường học”. Thư viện được xem là địa chỉ cung cấp thông tin – kiến thức quen thuộc và hữu ích nhất cho các em học sinh ngoài lớp học. Đây là nơi mà các em học sinh luôn được chào đón, nơi mà mọi mơ ước và sở thích cá nhân của các em đều được trân trọng. Thư viện là nơi mà các em được thỏa sức tư duy, sáng tạo và chia sẻ. Các em học sinh lên thư viện vào các buổi chiều hoặc trong giờ giải lao, giờ trống để được đọc sách, được tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh qua những thông tin mà các em có được từ kho tài liệu của thư viện. Tuy nhiên ở một số 14 trường học, vì các lí do khác nhau BGH chưa thực sự quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mực đến công tác thư viện. Vì vậy, trong hoàn cảnh đó, thư viện mới chỉ là “cái kho” để chứa sách, là nơi cho học sinh và giáo viên mượn sách. Nhiều trường còn xem nhiệm vụ chính của thư viện hiện nay là bán sách giáo khoa, bán dụng cụ học tập cho học sinh; Hoạt động thư viện chưa phát huy được hiệu quả, chưa thu hút được nhiều học sinh đến học tập và trải nghiệm ở không gian này. Mỗi thời kì, giai đoạn lịch sử đều có những yêu cầu nhất định đối với con người với tư cách là thành viên trong xã hội. Theo đó, học sinh không những cần trau dồi về mặt tri thức mà còn phải rèn luyện, phát triển hệ thống kĩ năng để trở thành thế hệ công dân tích cực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng nhanh chóng và kịp thời với bước đi của thời đại, phù hợp với bối cảnh xã hội rộng lớn và phức tạp. Giáo dục, do đó cũng cần phải chuyển trọng tâm sang chú trọng bồi dưỡng các phẩm chất năng lực đó cho mỗi người học sinh. BGH nhà trường hơn ai hết phải là người luôn cập nhật và tiên phong trong công tác giáo dục, đặc biệt là thay đổi công tác quản lý, điều hành, khai thác thư viện trường học - xem đây là một trong những mắt xích quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Ngày 21/11/2019 Luật Thư viện đã được Quốc hội thông qua và Việt Nam đang thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo yêu cầu của Nghị quyết 88/2014/QH13. “Chúng ta phải đổi mới từng yếu tố để tạo ra chất lượng giáo dục phổ thông đáp ứng yêu cầu mới của thực tế cuộc sống và hội nhập thế giới”. Trong đó một phần rất quan trọng để tạo nên mô hình trường học chất lượng, góp phần hình thành thói quen đọc sách, năng lực tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo cho học sinh chính là phát triển và nâng cao hiệu quả thư viện trường học. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 15 2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu Địa bàn nơi chúng tôi công tác thuộc huyện miền Tây-Nam Nghệ An, nơi đây hiện có 6 trường dành cho đối tượng học sinh THPT, trong đó gồm 4 trường hệ công lập, một trường ngoài công lập và một trung tâm GDTX. Trường THPT chúng tôi công tác và nghiên cứu thuộc vùng hạ huyện, nơi điều kiện kinh tế xã hội còn rất nhiều khó khăn. Khả năng, nhận thức của người dân trong việc đầu tư cho con cái học tập còn hạn chế. Trường được thành lập năm 1978; từ chỗ chỉ có 3 lớp với 10 giáo viên ở năm học đầu tiên, trải qua gần 45 năm tồn tại và phát triển, đến nay trường có 38 lớp(quy mô 39 lớp) với hơn 1.600 học sinh, trong đó số học sinh nữ là 1032 học sinh (chiếm 64,6%), số học sinh nam là 558 học sinh (35,4%). Hội đồng sư phạm trường hiện có gần 100 cán bộ giáo viên, nhân viên. Học sinh theo học tại trường đa số thuộc gia đình nông thôn, nhiều học sinh là con em hộ nghèo, cận nghèo hoặc gia khó khăn; trình độ dân trí của phụ huynh trong vùng còn khá thấp; Nhiều bậc phụ huynh chưa quan tâm nhiều đến việc học của con em, một số còn có tư tưởng ỉ lại, phó thác hoàn toàn việc học của con cái cho nhà trường. 2.2. Thực trạng quản lý và phát triển thư viện trường ở THPT Đô Lương 3 2.2.1. Khảo sát thực trạng: - Về chất lượng quản lý: Công tác thư viện nói chung, công tác thư viên tại trường THPT Đô Lương 3 nói riêng được thực hiện theo Quyết định số: 01/2003/QĐBGDĐT ngày 2/01/2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy định về tiêu chuẩn thư viện trường phổ thông. - Về quy mô: Hiện trường có 01 thư viện với diện tích sử dụng gần 90m2. Có phòng đọc dành riêng cho học sinh và giáo viên và một phòng kho để lưu trữ các hồ sơ, học liệu liên quan đến hoạt động của thư viện. (Phụ lục 1) Thư viện có hệ thống tủ sách với 1.578 đầu sách và 5.576 bản sách các loại được mô tả , phân loại đúng theo nghiệp vụ chuyên môn của công tác thư viện. Việc phân loại, quản lí đầu sách cụ thể lượng sách có trong thư viện như sau: Tổng đầu sách có trong thư viện là: 1578 đầu sách . (Phụ lục 2) Trong đó : STK: 1079 đầu sách SGV :125 đầu sách SGK :148 đầu sách SĐĐ : 99 đầu sách SPL : 127 đầu sách 16 - Tổng số bản sách có trong thư viện : 5.576 cuốn Trong đó : STK: 3219 cuốn sách SGV :743 cuốn sách SGK :1223cuốn sách SĐĐ : 118 cuốn sách SPL : 273 cuốn sách - Về chất lượng phục vụ bạn đọc: Để phát huy vai trò của thư viện người làm công tác thư viện luôn có tư tưởng đổi mới, cầu tiến; luôn suy nghĩ và hành động với tư tưởng phục vụ tận tình giáo viên và học sinh. Nhà trường thực hiện tốt khâu tổ chức xử lý kỹ thuật, đầu tư xây dựng thư viện đạt chuẩn của trường chuẩn Quốc gia mức độ 1(năm 2020). Về nghiệp vụ thư viện, cán bộ thư viện có sổ sách quản lý và nhà trường có đầu tư trang bị phần mềm quản lý thư viên để nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng phục vụ bạn đọc. Việc bổ sung sách báo, tài liệu được thực hiện thường xuyên. Tổ quản lí thư viên có sự phối hợp thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm rà soát đảm bảo 100% học sinh có sách giáo khoa và hướng dẫn học sinh sử dụng sách ôn thi tốt nghiệp. Thường xuyên sắp xếp ngăn nắp, đảm bảo cho cán bộ giáo viên mượn và sử dụng sách, tài liệu một cách tốt nhất, khoa học nhất. - Công tác quản lí việc mượn, trả sách của giáo viên và học sinh: Thư viện trường THPT đô lương 3 đã triển khai và thực hiện một cách nghiêm túc đầy đủ các nội dung, các quy định và hướng dẫn của Bộ, ngành Giáo dục về công tác thư viện. Hàng năm cán bộ thư viện lập kế hoạch hoạt động vào đầu năm học và báo cáo tổng kết công tác thư viện vào cuối năm để báo cáo cho hiệu trưởng. Đầu năm học cán bộ thư viện có kế hoạch kiểm kê rà soát lại các danh mục sách thư viện, duy trì tủ sách giáo khoa dùng chung. Tổ chức cho học sinh mượn sách giáo khoa, sách tham khảo nhất là học sinh thuộc diện gia đình chính sách, học sinh hộ nghèo, gia đình khó khăn không có khả năng tự mua. 17 Hàng năm thực hiện rà soát và có cơ chế tặng SGK và thẻ thư viện cho những em là học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn vươn lên đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện. - Nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc và công tác bảo quản tài liệu: Nhà trường tổ chức thường xuyên hoạt động giới thiệu sách đến bạn đọc và biên soạn các thư mục giới thiệu sách để nâng cao hiệu quả hoạt động giới thiệu sách. Kiểm tra sách của học sinh đầu năm học. Đảm bảo 100% học sinh có sách giáo khoa. Thực hiện hồ sơ sổ sách đầy đủ, tổ chức kiểm kê thư viện, thanh lý sách, báo cũ, lạc hậu. Mọi cán bộ, giáo viên trong trường đều được mượn sách, báo và tài liệu để đọc tại chỗ hoặc đưa về nhà để nghiên cứu và học tập; Nhà trường có quy định cho cán bộ, giáo viên mượn và trả sách theo đúng quy định (Đối với sách giáo khoa phải mượn đầu kì, đầu năm học và trả khi kết thúc học kì, trước khi về nghỉ hè). Khi mượn sách phải bảo quản, giữ gìn sách cẩn thận. Nếu làm hư hỏng thất lạc phải bồi thường theo giá bìa. Học sinh được mượn sách tham khảo, SGK đọc tại chỗ hoặc mượn về nhà theo nhu cầu nhưng phải trả sách lại cho Thư viện sau một khoảng thời gian nhất định. Phát động phong trào mượn đọc sách tham khảo, thường xuyên giới thiệu sách mới đến bạn đọc. - Làm sổ cho bạn đọc, cho học sinh: Thư viện mở cửa 5 ngày trong tuần, 10 buổi phục vụ bạn đọc và làm nghiệp vụ. Số lượng giáo viên đọc và mượn sách tại Thư viện đạt tỉ lệ 100% Số lượng học sinh đọc và mượn sách tại Thư viện đạt tỉ lệ trên 80% - Việc đầu tư mua sắm, bổ sung các loại sách: Nhà trường phối hợp với các tổ chức giáo dục khác để thường xuyên bổ sung sách nghiệp vụ, sách tham khảo mới cho thư viện, chỉ tiêu sách giáo viên đạt 100%, sách tham khảo đạt bình quân 3-4 quyển/ học sinh. Ban giám hiệu (BGH ) cũng chỉ thị cho cán bộ thư viện tiếp tục trang bị và bổ sung sách cho tủ sách pháp luật, tủ sách Đạo đức trong nhà trường. Cán bộ thư viện cũng trưng cầu ý kiến từ phía giáo viên đăng kí các hạng mục sách cần mua để bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, vì những khó khăn về 18 tài chính trong điều kiện dịch bệnh nên trong vài năm qua việc đầu tư mua sắm bổ sung tài liệu, học liệu cho thư viện chưa đạt kết như mong muốn, các hạng mục sách chưa thật phong phú, chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu bạn đọc trong tình hình mới. ( Phụ lục 3) - Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động thư viện: Thư viện trường THPT đô lương 3 đã triển khai và thực hiện một cách nghiêm túc đầy đủ các nội dung ,các quyết định và hướng dẫn về công tác thư viện. Hàng năm cán bộ thư viện phải lập kế hoạch hoạt động vào đầu năm học và báo cáo tổng kết công tác thư viện vào cuối năm để báo cáo cho hiệu trưởng . Đầu năm học cán bộ thư viện có kế hoạch kiểm kê rà soát lại danh mục sách thư viện, duy trì tủ sách giáo khoa dùng chung. Kiểm tra sách của học sinh đầu năm học, đảm bảo 100% học sinh có sách giáo khoa.Thực hiện hồ sơ sổ sách đầy đủ, tổ chức kiểm kê thư viện, thanh lý sách, báo cũ lạc hậu. Về phía BGH nhà trường, sẽ có kế hoạch từ đầu năm học và thông báo lộ trình kiểm tra công tác của hoạt động thư viện bất đầu từ khâu kiểm tra kế hoạch của thủ thư; việc thực thi kế hoạch; kết quả cụ thể qua từng hạng mục…Tuy nhiên công tác kiểm tra hoạt động thư viện không phải lúc nào cũng được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, nhất là những năm học trước. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động thư viện thực sự được chú trọng nhiều hơn từ năm học 2019-2020 trở lại đây. (Phụ lục 4) Rõ ràng, hoạt động thư viện từ trước đến nay vẫn được duy trì, tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác thư viện vẫn tồn tại một số hạn chế và phát triển chưa đồng bộ. Trang thiết bị cơ sở vật chất và nguồn học liệu của thư viện chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Công tác bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ thư viện chưa được chú trọng nhiều vì thế hoạt động vận hành thư viện chưa phát huy hết hiệu quả. Hoạt động thư viện chưa thu hút được nhiều học sinh đến học tập và trải nghiệm ở không gian này. Theo số liệu thống kê từ thủ thư của thư viện trường THPT Đô Lương 3 qua những năm học gần đây, nhất là những năm học 2016-2017; 2017-2018; 2018 -2019 lượng sách thư viện nhà trường được học sinh mượn đọc hết sức khiêm tốn, thậm chí có những học sinh chưa bao giờ đến thư viện trong suốt ba năm học cấp 3. Lượng sách trong thư viện nhà trường có trên 5000 bản sách, chưa kể các tạp chí theo định kì nhưng thư viện chưa thực sự thu hút được học sinh đến đọc sách, nguồn sách chủ yếu vẫn đang phục vụ theo nhu cầu của giáo viên. Mặc dù hàng năm nhà trường vẫn bổ sung tài liệu cho thư viện ,nhưng kể cả số lượng cũng như chất lượng còn quá ít. Nguồn tài liệu bổ sung chủ yếu chỉ phục vụ cho việc ôn thi hàng năm,chưa chú tâm vào việc bổ sung nguồn tài liệu tham khảo nhiều lĩnh vực khác. Đây cũng là một trong những hạn chế trong việc thu hút bạn đọc. Biểu đồ 1.3 : Thống kê số đầu sách học sinh mượn từ thư viện qua các năm học. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan