Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số giải pháp giúp đở học sinh chưa hoàn thành học tốt môn toán lớp 2...

Tài liệu Skkn một số giải pháp giúp đở học sinh chưa hoàn thành học tốt môn toán lớp 2

.DOC
33
2241
79

Mô tả:

PHÒNG GDĐT CHÂU PHÚ TRƯỜNG TH A ĐÀO HỮU CẢNH CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Châu Phú, ngày 18 tháng 12 năm 2018 BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI :MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP ĐỞ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2 I. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH TÁC GIẢ: - Họ và tên: VÕ VĂN TỐT - Ngày, tháng, năm sinh: 20/06/1967 Nam - Nơi thường trú: Ấp Hưng Lợi, xã Đào Hữu Cảnh,huyện Châu Phú,tỉnh An Giang. - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh - Chức vụ hiện nay: Giáo Viên lớp 2 - Lĩnh vực công tác: Giáo dục Tiểu học II.SƠ LƯỢC ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐƠN VỊ: Thuận lợi, khó khăn: a) Thuận lợi: - Đội ngủ CB-GV-NV trẻ, khoẻ tay nghề vững vàng, năng động trong công tác, đáp ứng được nhu cầu giảng dạy và giáo dục toàn diện cho học sinh. - Đội ngủ CB-GV được tập huấn về chuẩn kiến thức kỹ năng, kỹ năng sống, thí nghiệm ảo… b) Khó khăn : Một bộ phận phụ huynh làm ăn xa nhà để con lại cho nội,ngoại chăm sóc nên sự quan tâm đối với những em này chưa thường xuyên nên dẫn đến khả năng tiếp thu kiến thức không bằng các bạn. -Học sinh có xu hướng theo cha mẹ đi Bình Dương,TPHCM trong các dịp lễ tết,nghỉ hè. -Trường có nhiều điểm nên cảnh quan nhà trường chưa hoàn thiện nhất là hàng rào cây xanh,sân chơi bãi tập còn hạn chế. 1 -Kinh tế một vài giáo viên chưa đảm bảo cuộc sống nên trong quá trình giảng dạy chưa thật sự hết lòng vì học sinh.Tuy nhiên đã được cải thiện qua hàng năm. Từ những điểm yếu trên dẫn đến kết quả là chất lượng giáo dục nhà trường chưa đạt được như mong muốn của ngành,trường còn nằm ở mức trung bình so với mặt bằng chung của huyện về chất lượng giáo dục -TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: PHƯƠNG PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2 - LĨNH VỰC: GIẢI PHÁP TÁC NGHIỆP (GIẢNG DẠY) III. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN: Trong những năm qua,toàn Đảng,toàn dân hay toàn xã hội đang quan tâm rất nhiều đến tình hình học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của các trường.Với nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo của ngành giáo dục làm sao nâng cao được chất lượng học tập của học sinh,phòng chống các bệnh tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Đã có nhiều văn bản hướng dẫn và chỉ đạo khắc phục tình trạng học lên lớp non hay ngồi sai lớp.Nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực, không để học sinh bên lề lớp học. Chúng ta phải nhìn nhận một quy luật tất yếu là: Học sinh có học lực chưa hoàn thành thì dẫn đến việc chán học rồi bỏ học.Nếu một lớp học có nhiều học sinh chưa hoàn thành thì ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục của một trường;một huyện có nhiều trường có học sinh chưa hoàn thành thì ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục của một huyện;…... Vậy tương lai của đất nước chúng ta sẽ ra sao? Từ đó, qua nhiều năm giảng dạy và đúc kết được một số kinh nghiệm khắc phục tình trạng chưa hoàn thành của học sinh. Đó là " Một số biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành học tốt môn toán lớp 2". 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Hiện nay, tôi đang công tác tại Đào Hữu Cảnh là một xã vùng trong,vẫn còn là một vùng đặc biệt khó khăn. Đời sống nhân dân ở đây còn quá nhiều khó khăn, do lo toan cuộc sống mà nhiều phụ huynh đã phó mặc việc học tập của con em họ cho giáo viên đứng lớp chúng tôi.Họ không cần quan tâm con em mình học tập như thế nào? Đó là vấn đề đưa đến tình trạng học chưa hoàn thành của học sinh, đặc biệt là học sinh ở lớp 2. Các em còn nhỏ, không được sự nhắc nhở của gia đình, các em ham chơi, hay nghỉ học, hay không chịu tự rèn luyện thêm ở nhà thì lẽ đương nhiên là các em sẽ trở thành học sinh chưa hoàn thành. Là một giáo viên nhiều năm dạy lớp 2, tôi thật vất vả với tình trạng học chưa hoàn thành của học sinh. Học lớp 2 rồi mà vẫn còn một số em chưa biết đọc, tính toán 2 còn phải đếm từng ngón tay, từng que tính mà vẫn tính say, bảng cộng, trừ thì không thuộc, bảng nhân, chia còn lẫn lộn,…. Những điều đó là vấn đề rất nan giải, vì với trình độ như thế làm sao các em có thể tiếp thu được những kiến thức cần thiết của lớp 3. Đó là trăn trở khiến tôi thường xuyên suy nghĩ và trong đầu luôn luôn đặt câu hỏi “ Làm như thế nào đây để lớp của mình không có học sinh chưa hoàn thành ở cuối năm ?” Học sinh lớp hai các em còn rất nhỏ, cần sự hướng dẫn,dìu dắt dạy dỗ của những người lớn.Trong đó, cha mẹ là những người gần gũi nhất. Nhưng đối với học sinh lớp tôi thì có rất nhiều cha mẹ các em thiếu quan tâm, trình độ học vấn của họ còn rất thấp hay không biết chữ; một số gia đình gửi con em của mình sống với ông bà để đi làm mướn ở xứ xa,… Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập của các em rất nhiều. 1.1/Số liệu: Để khắc phục tình trạng này, vào đầu các năm học, tôi thường xuyên khảo sát tình hình học tập của học sinh lớp 2 để xem chất lượng học tập của các em như thế nào để có kế hoạch cụ thể, thích hợp nhằm giúp đỡ các em học sinh chưa hoàn thành tiến bộ.Tôi thấy các em chưa hoàn thành thường tập trung nhiều ở môn Toán. Kết quả cụ thể như sau : Năm học 2014 - 2015 2015-2016 2016- 2017 Sỉ số SL HS CHT TL % 28 29 29 Toán 6 5 4 21, 4 % 17,24 % 13,79% Đây là những con số không hề nhỏ đối với một lớp học so với tỉ lệ học sinh lưu ban và bỏ học theo kế hoạch 54 của UBND Huyện châu phú tỉ lệ lưu ban là 3% và bỏ học 2% Đây là con số đáng báo động, tỉ lệ lưu bang rất cao.Vậy nguyên nhân của thực trạng này là gì? 1.2/ Nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành - Các em chưa có ý thức tự học, còn ham chơi mà gia đình thiếu quan tâm đến việc học của các em. - Phương pháp giảng dạy, giáo dục của giáo viên chưa phù hợp với đối tượng học chưa hoàn thành nên các em không tiếp thu bài kịp. Và cá biệt còn vài học sinh không đi học đều nên tiếp thu bài không kịp. Từ đó dẫn đến các em bị hỏng kiến thức. - Nền nếp học tập chưa tốt, các em còn lơ là trong học tập ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của các em. - Giáo viên chưa đầu tư cho việc soạn giảng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh chưa hoàn thành. - Học sinh chưa thấy hứng thú khi đến trường. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: 3 Hiện nay tình hình học tập của học sinh có dấu hiệu đi xuống, qua các lần khảo sát chất lượng đầu năm, tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành rất nhiều, đây là vấn đề bức xúc của nhiều lớp, nhiều trường kể vùng thuận lợi lẫn vùng khó khăn đều có học sinh chưa hoàn thành. Trong đó, học sinh chưa hoàn thành môn Toán chiếm tỉ lệ khá cao. Nguyên nhân của tình trạng trên thì có rất nhiều nhưng chủ yếu là do các em bị hỏng kiến thức từ lớp dưới cụ thể là Toán lớp 2. Làm thế nào để khắc phục được tình trạng học sinh chưa hoàn thành Toán nói chung và học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 2 nói riêng là vấn đề đang được rất nhiều trường quan tâm và đã đề ra rất nhiều phương pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh chưa hoàn thành, để nâng cao chất lượng giáo dục môn Toán nói chung và môn Toán lớp 2 nói riêng. Thế nhưng kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành đề ra. Do đó việc cần làm trong giai đoạn hiện nay là tìm ra một biện pháp thích hợp nhất để giúp đỡ cho các em chưa hoàn thành học tốt môn Toán lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành giáo dục cũng như nhu cầu chung của toàn xã hội. Trong đề tài này chỉ nghiên cứu về cơ sở lí luận, nhận thức, biện pháp và cách làm của bản thân tôi là giáo viên dạy lớp 2, góp phần làm phong phú thêm kinh nghiệm của người làm công tác dạy học ở Tiểu học. Địa điểm nghiên cứu trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh. Thời gian nghiên cứu trong các năm học 2014 - 2016 và nữa đầu năm học 2017-2018. Qua kinh nghiệm rút ra từ nhiều năm giảng dạy lớp 2, từ những thành công và hạn chế của những người đi trước; đồng thời nhờ vào sự tích cực tìm tòi những biện pháp sáng tạo phù hợp với lớp, với trường, mà nhiều năm trở lại đây các lớp tôi chủ nhiệm đã có nhiều thành tích cao như: Lên lớp và duy trì sĩ số 100%, cuối năm không có học sinh chưa hoàn thành; các em bước tiếp vào lớp 3 thật vững chắc và tự tin. Đó là nhờ những năm qua, tôi luôn theo dõi và tận tình hướng dẫn cho các em học theo phương pháp mới. Tôi nhận thấy chương trình Toán lớp 2 các em thường vướng mắc ở các chương: “ Phép cộng có nhớ, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, tìm một thành phần của phép cộng, trừ, nhân, chia( tìm x ), giải toán có lời văn, … ”. Tôi đã áp dụng một số biện pháp để giúp các em chưa hoàn thành học tốt hơn trong quá trình học tập. Qua thực nghiệm, các em có tiến bộ và có kết quả khả quan ở cuối năm. Từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn viết cho mình sáng kiến kinh nghiệm với đề tài : “PHƯƠNG PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2 ”. Đề tài này nhằm để góp phần nâng cao chất lượng môn Toán ở lớp tôi nói riêng và của khối 2 nói chung, đồng thời cũng là tư liệu cho tôi dạy tốt vào những năm tiếp theo. 3. NỘI DUNG SÁNG KIẾN: 3.1/ Cơ sở lí luận: Qua các kì họp của Quốc Hội đều nhắc đến tình hình chất lượng giáo dục của nước ta còn nhiều hạn chế. Tình trạng chưa hoàn thành của học sinh chưa được khắc phục triệt để. Và sắp tới đây, đất nước ta lại tiếp tục thay đổi sách giáo khoa để công tác giáo dục ngày càng hoàn thiện hơn, học sinh được giáo dục toàn diện hơn. Không còn hiện tượng học sinh chưa hoàn thành. Vậy học sinh chưa hoàn thành là gì ? 4 3.1.1/ Khái niệm : a/ Học sinh chưa hoàn thành toàn diện : Là những học sinh không hoặc chưa đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của tất cả các môn học. Thể hiện rõ qua các lần kiểm tra, nếu các môn đánh giá bằng điểm số thì chỉ đạt được từ 1 đến 4 điểm. Các môn đánh giá bằng nhận xét thì chưa hoàn thành. b/ Học sinh chưa hoàn thành từng môn : Là những học sinh không hoặc chưa đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của một hoặc hai, ba,… môn học nào đó. Thể hiện rõ qua các lần kiểm tra, nếu các môn đánh giá bằng điểm số thì chỉ đạt được từ 1 đến 4 điểm. Các môn đánh giá bằng nhận xét thì chưa hoàn thành. c/ Học sinh chưa hoàn thành bộ phận : Là những học sinh không hoặc chưa đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của một bộ phận ( hay chương, bài ),… trong một môn học nào đó. Thể hiện rõ qua các lần kiểm tra, nếu các môn đánh giá bằng điểm số thì chỉ đạt được từ 1 đến 4 điểm. Nếu GV hỏi thì các em không biết trả lời. Các môn đánh giá bằng nhận xét thì chưa hoàn thành. 3.1.2/ Nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành : - Các em chưa có ý thức tự học, còn ham chơi mà gia đình thiếu quan tâm đến việc học của các em. - Phương pháp giảng dạy, giáo dục của giáo viên chưa phù hợp với đối tượng học chưa hoàn thành nên các em không tiếp thu bài kịp. Và cá biệt còn vài học sinh không đi học đều nên tiếp thu bài không kịp. Từ đó dẫn đến các em bị hỏng kiến thức. - Nền nếp học tập chưa tốt, các em còn lơ là trong học tập ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của các em. - Giáo viên chưa đầu tư cho việc soạn giảng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh chưa hoàn thành. - Học sinh chưa thấy hứng thú khi đến trường. 3.2/ Nội dung và biện pháp giải quyết: 3.2.1/- Quá trình phát triển kinh nghiệm : Vấn đề học sinh học chưa hoàn thành là một vấn đề nan giải. Học sinh học chưa hoàn thành là những em chưa đủ khả năng hoàn thành những yêu cầu có tính mắc xích của các giai đoạn trung gian trong quá trình học tập, biểu hiện ở sức học chưa hoàn thành và kết quả học tập không đạt chuẩn tối thiểu. Học sinh học chưa hoàn thành tồn tại ở nhiều dạng khác nhau: Học chưa hoàn thành mang tính thời điểm hoặc lâu dài, học chưa hoàn thành ở nhiều môn hoặc một môn. Về bản chất học sinh học chưa hoàn thành chưa đủ khả năng hoàn thành độc lập toàn bộ các hành động học tập trong quy trình lĩnh hội kiến thức giữa các kiến thức. Sự tích luỹ liên tục tình trạng này, khiến cho năng lực học tập của các em, giảm sút, dần dần mất đi hứng thú học tập. Nhiều người cho rằng tình trạng học chưa hoàn thành ở học sinh tiểu học là do nhiều nguyên nhân: Do giáo viên không có phương pháp giảng dạy phù hợp, do ảnh hưởng của gia đình, do chủ thể các em, do tác động của xã hội... 5 Qua nghiên cứu và theo dõi tôi nhận thấy học sinh học chưa hoàn thành Toán do các nguyên nhân trên nhưng hai nguyên nhân tác động mạnh mẽ nhất dẫn đến tình trạng học sinh học chưa hoàn thành là : + Các em chưa có ý thức tự học, còn ham chơi mà gia đình thiếu quan tâm đến việc học của các em.( Trường hợp này có khoảng 6 em ) + Phương pháp giảng dạy, giáo dục của giáo viên chưa phù hợp với đối tượng học chưa hoàn thành nên các em không tiếp thu bài kịp. Và cá biệt còn vài học sinh không đi học đều nên tiếp thu bài không kịp. Từ đó dẫn đến các em bị hỏng kiến thức.. Nên các em chưa thể tiến bộ được. ( Trường hợp này có khoảng 7 em ) Để khắc phục những nguyên nhân trên nhằm giúp các em học tập tốt hơn thì cần phải có những điều kiện sau: - Cần được sự quan tâm của mọi người : Thầy cô,người thân và gần gũi nhất là bạn bè cùng học một lớp . - Dụng cụ học tập và phương tiện học tập phải đầy đủ hỗ trợ tốt cho học tập. - Môi trường sống cần trong sáng, lành mạnh nhằm đảm bảo phát triển trí tuệ và có nhiều thói quen tốt hơn. - Giáo viên chủ nhiệm phải cải tiến phương pháp giảng dạy để tạo sự hứng thú trong học tập cho các em, đồng thời thường xuyên quan tâm hướng dẫn các em biết cách học tập một cách khoa học sẽ mang lại nhiều hiệu quả hơn. 3.2.2/ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 3.2.2.1/ Kết hợp với cha mẹ, ông bà của học sinh để tìm biện pháp thích hợp nhằm giúp các em học tập tiến bộ. a. Mục tiêu: Thời gian học tập trên lớp của các em chỉ chiếm khoảng 1/3. 2/3 thời gian còn lại là các em ở nhà. Gia đình đóng vai trò rất lớn trong quá trình tự học của các em. Do đó giáo viên kết hợp với gia đình để nhằm mục tiêu cùng nhau giúp các em tiến bộ là hết sức cần thiết. b. Thực trạng: Đối với các em chưa hoàn thành, thì các em ham chơi hơn ham học. Khi đi học về các em ít chịu tự lấy bài ra để học. Cha mẹ các em thì không đôn đốc nhắc nhở các em, từ đó các em đã chưa hoàn thành lại càng thêm chưa hoàn thành. Có gia đình thì ba, mẹ đi làm ăn xa gởi con lại cho ông bà để đi học nên các em học được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu. c. cách tiến hành: - Vào đầu năm học, thực hiện sự chỉ đạo của BGH về việc họp cha mẹ HS đầu năm. Trong buổi họp này, tôi nêu lên những khó khăn mà học sinh thường gặp phải ( ham chơi hơn ham học, lơ là trong học tập, chán học, không học bài và làm bài ở nhà, …). Tôi cùng phụ huynh trao đổi cách hỗ trợ HS nhằm để các em tiến bộ hơn. Qua đó, tôi có gợi ý một số việc cần làm của phụ huynh như sau: + Đối với các em chưa có ý thức tự học thì tôi nhờ các phụ huynh thường xuyên nhắc nhỡ, động viên các em học bài, làm bài ở nhà. Khoảng 2 tuần giáo viên chủ nhiệm đến nhà các em để kiểm tra việc tự học ở nhà của các em. + Đối với các em nghèo tôi vận động Ban đại diện cha mẹ học sinh hỗ trợ một 6 số tiền để mua đầy đủ đồ dùng học tập cho các em vì có đủ dụng cụ học tập thì các em sẽ phấn khởi hơn và ham học hơn . + Đối với các em có ba, mẹ đi làm ăn xa, gởi con lại ông bà thì sau 1 tuần học tôi đến nhà của ông bà để hướng dẫn cách tự học ở nhà của các em cho ông bà nắm để đôn đốc hoặc nhờ cô, dì, chú, bác,… dạy thêm cho các em. + Gia đình cần biết đến mọi thành tích học tập của con em mình; động viên , khuyến khích con cái học tập,phải quan tâm khích lệ kịp thời , không nên trách mắng làm ảnh hưởng đến tinh thần,dẫn đến chán học . + Thường xuyên gần gũi, hỗ trợ các em thực hiện các phép tính cộng, trừ đơn giãn có trong tế. Ví dụ: 3 ngón tay cộng 4 ngón tay được mấy tay? ( 7 ngón tay ). Sau khi học sinh nêu đúng kết quả thì ta yêu câu các em viết phép tính hoặc nêu phép tính ( 3 + 4 = 7 ) d. Kết quả đạt được : + Đối với các em nghèo, cận nghèo thì ngoài việc được sự hổ trợ của Đảng và Nhà nước, các mạnh thường quân, các em còn được Ban đại diện cha mẹ học sinh giúp đỡ nên các em cũng đã có đầy đủ đồ dùng học tập. Các em có hứng thú trong học tập và ham học hơn. Đi học thường xuyên hơn. + Đối với các em ham chơi, chưa có ý thức tự học, hay các em sống với ông bà khi cha mẹ đi làm ăn xa thì nhờ có sự quan tâm của gia đình các em đã học bài và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp. Nhờ đó các em tiếp thu bài tốt hơn. 3.2.2.2/ Tìm hiểu, phân loại đối tượng học sinh chưa hoàn thành môn toán. a. Mục tiêu: - Nắm được chỗ hỏng kiến thức của từng em để có biện pháp khắc phục kịp thời. b. Thực trạng: Qua quá trình giảng dạy, tôi ghi nhận học lực môn toán của từng học sinh và tôi chia ra thành 5 nhóm HS chưa hoàn thành : - Nhóm 1: cộng,trừ,nhân,chia số tự nhiên + Khả năng cộng, trừ còn chưa hoàn thành: Khoảng 7 em + Khả năng nhân, chia ( trong bảng từ 2 đến 5 ) còn chưa hoàn thành: Khoảng 6 em - Nhóm 2: Tìm thành phần chưa biết . Tên gọi và cách tìm các thành của các phép tính cộng, trừ ,nhân, chia. Các em thường lẫn lộn các tên gọi, không thuộc quy tắc : Khoảng 10 em. - Nhóm 3 : Đại lượng và đo đại lượng. + Đổi đơn vị đo độ dài từ dm sang cm và ngược lại ; dm sang m và ngược lại ; m sang cm và ngược lại; km sang m và ngược lại. Các em chưa ước lượng được độ dài của các đơn vị đo dẫn đến đổi sai : Khoảng 5 em. 7 - Nhóm 4: Giải toán có lời văn. + Đặt lời giải sai : Khoảng 6 em + Xác định sai phép tính : Khoảng 5 em + Ghi sai tên đơn vị : Khoảng 3 em - Nhóm 5: Tìm một phần mấy của một số. + Không nhận dạng được một phần mấy ? ( 1/2; 1/3; 1/4; 1/5 ) của một hình : Khoảng 4 em. + Không tìm được một phần mấy của 1 hình cho trước ? : Khoảng 5 em. c. cách tiến hành: * Đối với học sinh chưa hoàn thành nhóm 1: + Đối với các em khả năng cộng, trừ còn chưa hoàn thành . GV cần dạy tốt và có các mẹo làm toán chỉ riêng cho từng học sinh chưa hoàn thành học tốt các bài cộng, trừ có nhớ trong phạm vi sau đây:  Bảng cộng trong phạm vi 20 : Khi dạy bài 9 cộng với một số, 8 cộng với một số, 7 cộng với một số, 6 cộng với một số giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức bằng mô hình trực quan sinh động để học sinh chưa hoàn thành hiểu rõ ràng phải tách số sau cho số trước để số trước chẳng 1 chục ( tức là 10 ) rồi cộng với số còn lại. Phương pháp này được nâng lên trên cơ sở phép cộng có tổng bằng 10 và tách các số đã học ở lớp 1. Phần bài mới giáo viên cần sử dụng mô hình trực quan cho học chưa hoàn thành dễ dàng hiểu được cách để làm bài. Phần nầy giáo viên dạy chung cho cả lớp nhưng đặc biệt chú ý đến các học sinh chưa hoàn thành. VD : Dạy bài 7 cộng với một số : 7 + 5 - GV gắn 7 hoa mai vào hàng 1 và nêu “ thầy có 7 hoa mai. ” - GV gắn thêm 5 hoa mai nữa vào hàng 2 và nêu “ thầy thêm 5 hoa mai nữa, hỏi thầy có tất cả bao nhiêu hoa mai ? ”( Lưu ý khi gắn GV nên gắn 3 mai vàng và 2 mai đỏ để HS hình dung được sẽ tách 3 mai vàng ở hàng 2 gắn vào 7 mai vàng ở hàng 1 cho đủ 10. ) 8 - GV hỏi 7 còn thiếu mấy mới được 10 ? ( thiếu 3 ) GV cho HS lên thao tác để tìm ra kết quả. - Bớt 3 hoa mai ở hàng 2 vào hàng 1 cho đủ 10, hàng 2 còn lại 2, 10 với 2 là 12. Vậy 7 + 5 = 12. - Dựa vào cách tính như trên, GV cho HS thành lập bảng cộng 7. Các bảng 6, 8, 9 thực hiện tương tự như vậy . Sau đây là một số hình ảnh minh họa về bảng cộng 9. Cách thực hiện tương tự như bảng cộng 7. ( Lưu ý GV khi gắn cần thể hiện được ( 9 + 1 = 10 ) hoa cùng 1 màu, số hoa còn lại gắn khác màu. ) GV có thể thay đổi số bông hoa bằng các vật khác như quả cam, con ong, con bướm, … cho sinh động hơn, thu hút sự chú ý của các em. Đây là cách giáo viên hướng dẫn học sinh chưa hoàn thành cách tính nhẫm khi thực hiện phép cộng. Cá biệt nếu còn học sinh nào chưa nhẫm được thì giáo viên chỉ mẹo thêm cho học sinh tính tay. Chẳng hạn : Khi yêu cầu học sinh tính 9 + 7 = ? thì 9 giáo viên chỉ cho học sinh đó thực hiện như sau : em nhớ là em đang có 9 chỉ cần đưa ra 7 ngón tay nữa và đếm thêm cho đến hết số ngón tay thì dừng lại không đếm thêm nữa. Học sinh bắt đầu đếm : 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16; vậy 9 + 7 = 16. Khi nào các em quen thì giáo viên bắt đầu hướng học sinh vào cách tính nhẩm. Giáo viên hướng dẫn học sinh đếm thêm 1 nữa là 10 còn lại 6 ngón tay; 10 cộng 6 bằng 16; vậy 9 + 7 = 16. Một ví dụ nữa : Khi yêu cầu học sinh tính 8 + 6 = ? thì giáo viên chỉ cho học sinh đó thực hiện như sau : em nhớ là em đang có 8 chỉ cần đưa ra 6 ngón tay nữa và đếm thêm cho đến hết số ngón tay thì dừng lại không đếm thêm nữa. Học sinh bắt đầu đếm : 9, 10, 11, 12, 13, 14; vậy 8 + 6 = 14. Khi nào các em quen thì giáo viên bắt đầu hướng học sinh vào cách tính nhẩm. Giáo viên hướng dẫn học sinh đếm thêm 2 nữa là 10 còn lại 4 ngón tay; 10 cộng 4 bằng 14; vậy 8 + 6 = 14. Các phép tính về 7 cộng với một số, 6 cộng với một số thì giáo viên cũng hướng dẫn tương tự như trên. Đến khi các em vận dụng các kiến thức đã học vào phần bài tập thì giáo viên theo dõi các em chưa hoàn thành xem đã làm bài được chưa. Nếu các em chưa làm được thì giáo viên tiếp tục củng cố như thế vào tiết luyện tập ở buổi chiều. Giáo viên theo dõi các em chưa hoàn thành làm bài, sau đó uốn nắn kịp thời cho các em.  Bảng trừ trong phạm vi 20 : Khi dạy bài 11, 12, 13, 14, …, 18 trừ đi một số giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức bằng mô hình trực quan sinh động để học sinh chưa hoàn thành hiểu rõ ràng phải tách số ở hàng đơn vị ra cho số ấy còn 1 chục ( tức là 10 ) rồi lấy 10 trừ đi số cần trừ được bao nhiêu cộng với số đơn vị ban đầu đã tách ra ta được kết quả số cần tìm. Các bài toán này được xây dựng từ cơ sở phép trừ trong phạm vi 10 đã học ở lớp 1. Giáo viên cần làm rõ 12 gồm 10 + 2, 13 gồm 10 + 3, 14 gồm 10 + 4, 15 gồm 10 + 5, ..., 18 gồm 10 + 8. Các em cần lấy 10 trừ đi số cần trừ của bài toán yêu cầu, đó chính là đưa các em về với phép trừ trong phạm vi 10 đã học ở lớp 1 và nâng cao hơn là cộng thêm với số vừa được tách ra. Các em được củng cố lại ở lớp 1 và nâng cao hơn 1 bước ở lớp 2. VD : Dạy bài 14 trừ đi một số : 14 – 8 - GV gắn vào hàng I 10 hoa mai, hàng II 4 hoa mai rồi nêu bài toán: “Có 14 hoa mai bớt đi 8 hoa mai còn lại bao nhiêu hoa mai? - GV HD HS cách nhẩm : Lấy 10 hoa mai ở hàng 1 bớt 8 còn 2 ,cộng với 4 ở hàng 2 được 6. Vậy 14 – 8 = 6 10 - Dựa vào cách tính như trên GV cho HS thành lập bảng trừ 14.  Các bảng 11, 12, 13, 15, 16, 17, 18 thực hiện tương tự.  Sau đây là một số hình ảnh minh họa thêm về bài 12 trừ đi một số: 12 – 5 Đây là cách giáo viên hướng dẫn học sinh cách tính nhẫm khi thực hiện phép trừ. Cá biệt nếu còn học sinh nào chưa nhẫm được thì buộc lòng giáo viên chỉ mẹo cho học sinh tính tay. Chẳng hạn : Khi dạy bài 13 – 7 = ? thì giáo viên chỉ cho học sinh đó cách thực hiện như sau : em nắm tay lại rồi đếm thêm từ 7 đến 13 thì dừng lại, được mấy ngón tay thì kết quả bằng mấy. Học sinh bắt đầu đếm : 8, 9, 10, 11, 12, 13 được 6 ngón tay; vậy 13 - 7 = 6. Một ví dụ nữa : Khi dạy bài 12 – 5 = ? thì giáo viên chỉ cho học sinh đó cách thực hiện như sau : em nắm tay lại rồi đếm thêm từ 5 đến 12 thì dừng lại, được mấy ngón tay thì kết quả bằng mấy. Học sinh bắt đầu đếm : 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 được 7 ngón tay; vậy 12 - 5 = 7. Các phép trừ 11, 14, 15, 16, 17, 18 giáo viên hướng dẫn học sinh chưa hoàn thành thực hiện tương tự như vậy.  Về phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 : +) Giai đoạn 1: Giới thiệu phép tính ( Chẳng hạn 29 + 13 = ? )và “cơ sở ”dẫn đến “ quy tắc tính ”( thuật toán ), nhằm bước đầu giúp học sinh hiểu được vì sao có “ quy tắc tính ”đó. Trong SGK “ Cơ sở thuật toán ”được thể hiện qua hình ảnh minh họa các thao tác trên que tính. +) Giai đoạn 2: Hình thành “ Quy tắc tính ”gồm hai bước : Đặt tính và tính. Yêu cầu học sinh biết cách thực hiện phép tính và thuộc quy tắc tính. Thường xuyên cho học sinh nhắc lại quy tắc tính để kịp thời uốn nắn, sửa chữa. Ví dụ thể hiện như sau : 2 9 * 9 cộng 3 bằng 12, viết 2, nhớ 1. + 1 3 * 2 cộng 1 bằng 3, thêm 1 bằng 4, viết 4. 42 Quy tắc rõ ràng như thế nhưng vẫn còn một số em làm sai, nên tôi hướng dẫn thêm : ( Trước tiên tôi thực hiện như SGV và SGK hướng dẫn, khi nào học sinh thực hiện sai nhiều thì mới hướng dẫn theo cách riêng : 11 - Hướng dẫn học sinh nhận ra hai chữ số ở hàng đơn vị cộng lại kết quả có bằng 10 hoặc lớn hơn 10 không ? - Hướng dẫn học sinh kết quả cộng lại bằng hoặc lớn hơn 10 thì chỉ viết chữ số sau cùng, viết thẳng cột với chữ số hàng đơn vị và nhớ 1 ở hàng chục Ví dụ : 2 9 * ( 9 cộng 3 bằng 12 chỉ viết chữ số 2 thẳng cột với 9 và 3 ) + 13 42 - Hướng dẫn học sinh cách nhớ 1 ở hàng chục : Giáo viên dùng dấu chấm tròn ( nói vui là nốt rùi ), chấm vào bên cạnh số hạng thứ hai ở hàng chục, khi thực hiện hàng này gặp dấu chấm ( nốt rùi ) nhớ cộng thêm 1 vào và ghi kết quả thẳng cột với hàng chục. ( 9 cộng 3 bằng 12, viết 2, nhớ 1 2 cộng 1 bằng 3, thêm 1 bằng 4, viết 4 ) +) Giai đoạn 3: Thực hành vận dụng “ Quy tắc tính ”( vận dụng quy tắc tính trực tiếp như bài 1, tính gián tiếp như bài 2, và cao hơn một chút là giải toán lời văn có vận dụng phép tính). Trong giai đoạn đầu học sinh mới tiếp cận với loại Phép tính có nhớ, nên tôi thường xuyên cho học sinh nêu “ Quy tắc tính ” để các em khắc sâu kiến thức và nắm vững cách làm. Để cho tiết học không bị nhàm chán, tôi luôn linh hoạt hướng dẫn cho các em làm bài bằng nhiều cách như : Cho các em làm bài vào bảng con, vở bài tập, bảng lớp, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm, trò chơi học tập,… Nhằm kích thích tinh thần học tập. Nếu em nào còn chưa thực hiện được tốt ở buổi sáng tôi tiếp tục gọi em đó lên vào buổi chiều để uốn nắn thêm theo các cách đã nêu trên. Tôi cho em tự tính, và khi nào thấy sai thì tôi mới nhắc nhở. Mặc dù cách này rất mất thời gian nhưng hiệu quả rất cao.  Về phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 : Chẳng hạn với phép trừ : 51 – 15, ta cũng thực hiện qua 3 giai đoạn. ( Giai đoạn 1, giai đoạn 3 thực hiện tương tự như trên ). +) Giai đoạn 2 : Tôi hướng dẫn : Ví dụ : * 1 không trừ được 5, lấy 11 trừ 5 bằng 6, viết 6, nhớ 1 - 5 1 1 5 * 1 thêm 1 bằng 2, 5 trừ 2 bằng 3, viết 3. 36 Thực tế vẫn còn một số học sinh lúng túng nên tôi hướng dẫn thêm : - Hướng dẫn học sinh nhận ra chữ số ở hàng đơn vị của Số bị trừ có nhỏ hơn chữ số ở hàng đơn vị của số trừ hay không ? - Nếu nhỏ hơn thì trừ không được, ta phải mượn 10 và cộng với chữ số đã cho ( Nói ngắn gọn theo SGK là “ Lấy ”) . Ví dụ : 51 * 1 không trừ được 5, lấy 11 trừ 5 bằng 6, viết 6, nhớ 1 15 36 12 Hay : 34 * 4 không trừ được 8, lấy 14 trừ 8 bằng 6, viết 6, nhớ 1 - 8 26 Qua hai ví dụ trên tôi khắc sâu cho học sinh nhớ : Chữ số ở hàng đơn vị của số bị trừ là số “ mấy ” ta sẽ lấy “ mười mấy ”để trừ và ghi kết quả thẳng cột ở hàng đơn vị. ( Là số 2, ta lấy 12 , là số 3 ta lấy 13, … ) Các em còn sai ở chỗ “ lấy số lớn trừ số nhỏ ” : Ví dụ : 34 - 8 Đây là trường hợp các em bị sai 24 3 4 Trong trường hợp này tôi thường khắc sâu cho các em “ Lấy số trên trừ số - 8 dưới ” và “ trừ từ phải sang trái ”. 26 Hướng dẫn học sinh cách nhớ 1 ở hàng chục : Giáo viên dùng dấu chấm tròn (.) chấm vào bên cạnh số trừ ở hàng chục, khi thực hiện ở hàng này ta nhớ thêm 1 vào chữ số vừa chấm rồi mới tiến hành trừ và ghi kết quả thẳng cột với hàng chục. Ví dụ : 52 ( 2 không trừ được 5” lấy ”12 trừ 5 bằng 7, viết 7 nhớ 1 - 35 3 cộng 1( chấm tròn nhớ )bằng 4, lấy 5 trừ 4 bằng 1, viết 1 17 Nếu học sinh thực hiện chưa được, tôi hướng dẫn thêm cách khác ( Lúc đầu tôi cho các em thực hiện vào tập nháp thêm cột nhớ kế bên phải bài tính cho quen. ) Bên cạnh đó, tôi còn giúp cho các em biết nhận xét bài làm của bạn. Mục tiêu của phần này là giúp các em làm quen với cách học mới, không rụt rè nhút nhát, dám nói, dám làm, mạnh dạn nói cho các bạn nghe và nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường giao tiếp mới. + Đối với các em khả năng nhân , chia còn chưa hoàn thành . GV cần dạy tốt và có các mẹo làm toán chỉ riêng cho từng học sinh chưa hoàn thành học tốt các bài nhân, chia trong bảng từ 2 đến 5 sau đây:  Bảng nhân từ 2 đến 5 : Khi dạy bài bảng nhân 2, 3, 4, 5 giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức bằng mô hình trực quan sinh động để học sinh chưa hoàn thành hiểu rõ ràng phép nhân chính là phép cộng các số hạng giống nhau. VD : Dạy bảng nhân 2 - GV đưa 1 tấm bìa có 2 hoa mai lên và hỏi HS: “ 2 hoa mai được lấy mấy lần ? (2 hoa mai được lấy 1 lần ). Vậy thầy có phép nhân 2 x 1 = 2 13 - GV đưa tiếp 1 tấm bìa nữa và hỏi : “ 2 hoa mai được lấy mấy lần ” (2 hoa mai được lấy 2 lần ). Vậy thầy có phép nhân 2 x 2 = 2 + 2 = 4 . - GV đưa tiếp 1 tấm bìa nữa và hỏi : “ 2 hoa mai được lấy mấy lần ” (2 hoa mai được lấy 3 lần ). Vậy thầy có phép nhân 2 x 3 = 2 + 2 + 2 = 6 . - Thực hiện tương tự để có 2 x 7 = 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 14. - Thực hiện tương tự để có 2 x 10 = 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2= 20 * Các bảng nhân 3, 4, 5 thực hiện tương tự. Sau đây là một số hình ảnh minh họa về cách dạy thành lập bảng nhân 3. 14 Khi học sinh đã thành lập được bảng nhân thì giáo viên tổ chức cho học sinh học thuộc lòng. Nếu có cá biệt học sinh chưa hoàn thành nào còn chưa thuộc thì giáo viên chỉ mẹo cho các em tính tay. Chẳng hạn : Khi yêu cầu các em nêu bảng nhân 2 thì giáo viên hướng dẫn các em như sau : em xòe 10 ngón tay ra và đếm thêm 2, cứ mỗi ngón là cộng thêm 2. Học sinh đếm : 2, 4, 6, 8, 10, 12, 14, 16, 18, 20 và ứng với ngón tay thứ mấy là phép nhân mấy. Ví dụ : Đến số 12 là ngón tay thứ sáu thì em nói là 2 x 6 = 12. Các bảng nhân 3, 4, 5 giáo viên hướng dẫn tương tự. Để các em thành thạo hơn thì giáo viên yêu cầu các em tập đếm từ 2 đến 20, từ 3 đến 30, từ 4 đến 40, từ 5 đến 50. Hoặc khi giáo viên dạy cho học thực hiện phép nhân chẳng hạn : 4 x 8 = ? Nếu các em chưa thuộc thì giáo viên hướng dẫn các em tính tay như sau : em xòe 8 ngón tay ra và cứ mỗi ngón tay là đếm thêm 4 cho đến hết ngón tay thì thôi. Học sinh đếm : 4, 8, 12, 16, 20, 24, 28, 32 ; vậy 4 x 8 = 32. Các phép nhân 2, 3, 5 giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện tương tự. Đối với phép nhân 2 thì đếm thêm 2, phép nhân 3 thì đếm thêm 3, phép nhân 5 thì đếm thêm 5.  Bảng chia từ 2 đến 5 : Khi dạy bài bảng chia 2, 3, 4, 5 giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức bằng mô hình trực quan sinh động để học sinh chưa hoàn thành hiểu rõ ràng bảng chia chính là ngược lại của bảng nhân. VD : Dạy bảng chia 3 : - GV đính lên bảng 5 tấm bìa mỗi tấm bìa có 3 bông mai, rồi hỏi HS “ 3 bông mai được lấy mấy lần ?” (3 bông mai được lấy 5 lần ). Vậy thầy có phép nhân gì ? ( 3 x 5 = 15 ) 15 - GV nêu tiếp “ có 15 bông mai chia đều cho các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 3 bông mai. Hỏi thầy chia được mấy tấm bìa ? ”( chia được 5 tấm bìa ). Từ đó ta có phép chia 15 : 3 = 5. -GV thực hiện tương tự để có 3 x 4 = 12 – 12 : 3 = 4 ; 3 x 3 = 9 – 9 : 3 = 3 - Dựa vào cách tính trên GV cho HS tự đính các tấm bìa, nhẩm lại phép nhân rồi tìm ra phép chia. - GV tổ chức cho HS học thuộc bảng chia 3. Các bảng chia 2 , 4 , 5thực hiện tương tự . Nếu có cá biệt học sinh chưa hoàn thành nào còn chưa thuộc thì giáo viên chỉ mẹo cho các em tính tay. Chẳng hạn : Khi yêu cầu các em nêu bảng chia 2 thì giáo viên hướng dẫn các em như sau : em nắm bàn tay lại và đếm thêm 2, cứ mỗi ngón tay là kết quả của phép chia 2. Học sinh đếm : 2, 4, 6, 8, 10, 12, 14, 16, 18, 20 và ứng với ngón tay thứ mấy là kết quả của phép chia đó. Ví dụ : Đếm đến số 12 là ngón tay thứ sáu thì em nói là 12 : 2 = 6. Các bảng chia 3, 4, 5 giáo viên hướng dẫn tương tự. Đối với bảng chia 3 thì giáo viên hướng dẫn các em đếm thêm 3, bảng chia 4 thì đếm thêm 4, bảng chia 5 thì đếm thêm 5. Giáo viên cũng yêu cầu các em tập đếm thêm từ 2 đến 20, từ 3 đến 30, từ 4 đến 40, từ 5 đến 50. Hoặc khi giáo viên dạy cho học thực hiện phép chia chẳng hạn : 16 : 4 = ? Nếu các em chưa thuộc thì giáo viên hướng dẫn các em tính tay như sau : em nắm bàn tay 16 lại và đếm thêm 4 đến 16 thì ngưng không đếm nữa và được mấy ngón tay chính là kết quả của phép chia 4. Học sinh đếm : 4, 8, 12, 16 được 4 ngón tay ; vậy 16 : 4 = 4. Các phép chia 2, 3, 5 giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện tương tự. Đối với phép chia 2 thì đếm thêm 2, phép chia 3 thì đếm thêm 3, phép chia 5 thì đếm thêm 5. Để các em thành thạo hơn thì giáo viên yêu cầu các em tập đếm từ 2 đến 20, từ 3 đến 30, từ 4 đến 40, từ 5 đến 50. * Đối với học sinh chưa hoàn thành nhóm 2: GV cần tập trung làm tốt vấn đề sau : Giới thiệu tên gọi thành phần và kết quả phép tính : phép cộng ( số hạng, tổng ), phép trừ ( số bị trừ, số trừ, hiệu ), phép nhân ( thừa số, tích ), phép chia ( số bị chia, số chia, thương ). Đa số các em đều không nhớ đến tên gọi của từng thành phần trong phép tính, hoặc lẫn lộn tên gọi. Trước hết giáo viên ghi tên gọi của từng thành phần trong từng phép tính, cách tìm từng thành phần trong từng phép tính phải thực hiện như thế nào vào tờ giấy cứng ( khổ giấy A0 ) treo lên lớp để các em đọc hàng ngày nhằm giúp cho các em nhớ được tên gọi và cách tìm chúng. Nếu các em không nhớ thì giáo viên gợi ý để cho các em chưa hoàn thành tìm ra được mẹo làm toán. Chẳng hạn : các em sẽ đổi dấu khi chuyển các số qua bên dấu bằng : Cộng chuyển thành trừ, trừ chuyển thành cộng, nhân chuyển thành chia, chia chuyển thành nhân. Trong đó nếu tìm số trừ, số chia ( hay x ở giữa mang dấu trừ , dấu chia ) thì giữ nguyên phép tính. VD : a) X + 9 = 19 b) 8 + X = 13 c) X - 6 = 7 d) 15 - X = 6 X = 19 - 9 X = 13 - 8 X=7+6 X = 15 - 6 X = 10 X=5 X = 13 X=9 ( Cộng chuyển thành trừ ) ( Cộng chuyển thành trừ ) ( Trừ chuyển thành cộng ) ( phép trừ ở giữa thì giữ nguyên phép trừ ) e) x x 4 = 32 x = 32 : 4 x= 8 g ) 7 x x = 28 x = 28 : 7 x=4 Nhân chuyển thành chia ) ( Nhân chuyển thành chia ) h) x : 6 = 5 x=5x6 x = 30 ( Chia chuyển thành nhân ) * Đối với học sinh chưa hoàn thành nhóm 3:  Đơn vị đo độ dài : Chương trình lớp 2 chỉ dạy các đơn vị dm, m, km, mm kết hợp với lớp 1 các em đã được học đơn vị cm thì trong phạm vi lớp 2 các em chỉ nắm được các đơn vị cm, dm, m, km, mm. Đây là các đơn vị trừu tượng các em dễ nhầm lẫn. Khi dạy các đơn vị này giáo viên dùng đồ dùng trực quan và liên hệ thực tế cho các em dễ hình dung. Chẳng hạn khi dạy bài Đề-xi-met thì giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị trước 1 đoạn thẳng có chiều dài 10 cm. Khi đến lớp giáo viên đưa ra 1 đoạn thẳng giống như đoạn thẳng các em đã chuẩn bị và giới thiệu đây là đoạn thẳng có chiều dài 1 dm. Giáo viên cho các em so sánh với đoạn thẳng của mình và ước lượng trong đầu về đơn vị dm này. Sau đó giáo viên cho các em so sánh với đơn vị cm để các em tự hiểu rằng 1 dm = 10 cm và 10 cm = 1 dm. 17 Thực hiện tương tự như vậy khi dạy bài Mét. Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị trước 1 đoạn thẳng có chiều dài 10 dm. Khi đến lớp giáo viên đưa ra 1 đoạn thẳng giống như đoạn thẳng các em đã chuẩn bị và giới thiệu đây là đoạn thẳng có chiều dài 1 m. Giáo viên cho các em so sánh với đoạn thẳng của mình và ước lượng trong đầu về đơn vị m này. Sau đó giáo viên cho các em so sánh với đơn vị dm để các em tự hiểu rằng 1 m = 10 dm và 10 dm = 1 m. Tiếp theo thì giáo viên vẽ đoạn thẳng 1 m lên bảng để các em hình dung và chia đoạn thẳng này thành 10 đoạn thẳng nhỏ bằng nhau ( mỗi đoạn là 1 dm ). Giáo viên vẽ thêm trên 1 đoạn thẳng nhỏ chia ra làm 10 phần bằng nhau ( mỗi phần là 1 cm ) cho học sinh quan sát và nhận xét về đơn vị m rồi so sánh với đơn vị cm. Giáo viên hướng dẫn các em tự nhận ra 1m = 100 cm và 100 cm = 1 m. Khi dạy bài Ki-lô-mét thì giáo viên yêu cầu các em quan sát và để ý các cột mốc 1 km được cấm theo đường để các em dễ hình dung. Giáo viên dùng tranh ảnh trực quan để giới thiệu về đơn vị này. Giáo viên lưu ý các em rằng đơn km là đơn vị lớn nhất dùng để đo độ dài các đoạn đường, khoảng cách giữa hai tỉnh. Đây là khoảng cách rất xa và 1km = 1000 m . Giáo viên chuẩn bị các que tăm có bề dày 1 mm để dạy bài mi-li-mét cho các em dễ hình dung. Cho học sinh cầm các que tăm và ước lượng 1 mm bằng bề dầy của que tăm. Sau đó giáo viên hệ thống lại các đơn vị mà các em đã được học. Lớn nhất là đơn vị km > m > dm > cm > mm. Giáo viên gợi ý cho học sinh tự liên hệ và ước lượng trong thực tế : đơn vị km là khoảng cách dài, dùng để đo quãng đường, thực tế được gọi tên là cây số; đơn vị m thì thực tế được gọi tên là thước và ước lượng khoảng bằng 1 dang tay của các em; dm thì thực tế được gọi tên là tất và ước lượng khoảng bằng 1 gang tay của các em; cm thì thực tế được gọi tên là phân và ước lượng bằng 1 ô vuông trong vở tập trắng của các em; mm thì thực tế được gọi tên là li và ước lượng bằng khoảng bề dày của que tăm xỉa răng.  Đơn vị đo thời gian : Trong chương trình lớp 2 các em được học ngày, tháng, giờ, phút. Thực hành xem đồng hồ, thực hành xem lịch. Giáo viên cần hệ thống cho học sinh nắm 60 phút thì mới được 1 giờ, 24 giờ thì gọi là 1 ngày, 30 hoặc 31 ngày thì tròn 1 tháng, 12 tháng thì giáp 1 năm. * Đối với học sinh chưa hoàn thành ở nhóm 4: Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ( trong đó có các bài toán về nhiều hơn hoặc ít hơn một số đơn vị ), về phép nhân và phép chia. Đối với loại toán này học sinh chưa hoàn thành hầu như thường sai ở lời giải, chưa xác định được phép tính và ghi đơn vị, tôi hướng dẫn học sinh như sau : + ) Về lời giải :  Cách 1 : - Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải. - Bỏ chữ “ hỏi ”và chữ “ bao nhiêu ”trở về sau. - Đặt từ sau chữ “ hỏi ”đến chữ “ bao nhiêu ”thêm chữ “ là ”vào, ta sẽ được lời giải. 18 Ví dụ : Trong sân có 19 con gà trống và 25 con gà mái.Hỏi trong sân có tất cả bao nhiêu con gà ? ( Trong sân có tất cả là : )  Cách 2 : - Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải . - Đặt chữ “ Số ”rồi ghi đơn vị của bài toán tiếp sau chữ “Số ”. - Bỏ chữ “ hỏi ”và chữ “ bao nhiêu ”trở về sau. - Đặt từ sau chữ “ hỏi ”đến chữ “ bao nhiêu ”thêm chữ “ là ”vào, ta sẽ được lời giải. ( Số con gà trong sân có tất cả là : ) con gà chính là đơn vị của bài toán. Tuy nhiên vẫn còn một số trường hợp ngoại lệ tôi hướng dẫn thêm cho học sinh, nhưng trường hợp này rất hiếm. Tôi chỉ cho học sinh nhận ra thường là những chữ cuối bài toán, sau chữ bao nhiêu hoặc chữ mấy ( Ví dụ : con gà, con thỏ, học sinh, quả cam, … ) + ) Về cách xác định phép tính : Đây là phần kinh nghiệm được rút ra trong lúc giải toán, giáo viên chỉ mẹo cho học sinh chưa hoàn thành. Thường thì nếu gặp trong đề toán sau chữ hỏi mà có chữ : - Tất cả là, cả hai là hoặc gặp chữ nhiều hơn thì ta thực hiện phép toán cộng. - Còn lại là, trong đó, hoặc gặp chữ ít hơn thì ta thực hiện phép toán trừ . - Mỗi ( nhóm, tổ, xe đạp,… ) có 2 hoặc 3, hoặc 4, hoặc 5; có 5, 6, 7, ... cái như thế. Hỏi có tất cả là bao nhiêu ? thì ta thực hiện phép toán nhân. - Có …chia đều, xếp đều, vào 2, 3, 4, 5 … thì ta thực hiện phép toán chia. Đây chỉ là cách tạm thời, khi nào các em đọc rõ ràng, lưu loát thì giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán bằng sơ đồ tóm tắt của giáo viên để các em tự tìm ra phép tính rồi tự ghi lời giải và đơn vị. * Đối với học sinh chưa hoàn thành ở nhóm 5:  Tìm một phần mấy của một số : GV cần tập trung làm tốt các vấn đề sau : VD: Dạy bài một phần tư : - GV nêu ( như SGK ) có 1 hình vuông được chia thành 4 phần bằng nhau, ta tô màu một phần, phần được tô màu chính là 1/ 4. Các phần còn lại cũng là ¼. 19 - GV nêu thêm : có 8 bông mai chia làm 4 phần bằng nhau ( GV vừa nói vừa gắn 8 bông mai vào 4 tấm bìa, mỗi tấm bìa có 2 bông mai.) - GV nêu tiếp : Khoanh vào 1 phần ( GV lấy khung đỏ khoanh lại ) phần được khoanh vào chính là 1 phần 4. Các phần còn lại cũng chính là 1/4. Các bài Một phần hai, một phần ba, một phần năm thực hiện tương tự. Nếu các em chưa hoàn thành còn chưa biết thì giáo viên hướng dẫn học sinh cụ thể như sau : Nếu đi tìm một phần hai ( 1/2 ) thì chia nhóm đồ vật, con vật, … làm hai phần bằng nhau có thể chia theo hàng dọc hoặc hàng ngang để được hai phần bằng nhau, khoanh tròn vào hoặc tô màu một phần ta được một phần hai ( 1/2 ). Nếu đi tìm một phần ba( 1/3 ) thì chia nhóm đồ vật, con vật, … làm ba phần bằng nhau có thể chia theo hàng dọc hoặc hàng ngang để được ba phần bằng nhau, khoanh tròn vào hoặc tô màu một phần ta được một phần ba ( 1/3 ). Nếu đi tìm một phần tư ( 1/4 ) thì chia nhóm đồ vật, con vật, … làm bốn phần bằng nhau có thể chia theo hàng dọc hoặc hàng ngang để được bốn phần bằng nhau, khoanh tròn vào hoặc tô màu một phần ta được một phần tư ( 1/4 ). Nếu đi tìm một phần năm ( 1/5 ) thì chia nhóm đồ vật, con vật, … làm năm phần bằng nhau có thể chia theo hàng dọc hoặc hàng ngang để được năm phần bằng nhau, khoanh tròn vào hoặc tô màu một phần ta được một phần năm ( 1/5 ). Phần này thì giáo viên hướng dẫn học sinh bằng hình ảnh trực quan trên bảng hoặc hình ảnh trong SGK để các em dễ hình dung hơn. Sau khi các em đã quen dần với hình ảnh trực quan giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra kết luận hay quy tắc tìm một phần mấy. Nếu tìm một phần hai ( 1/2 ) thì đem số đồ vật đó chia cho 2 được kết quả bao nhiêu thì kết quả đó chính là một phần hai ( 1/2 ) Ví dụ : có 14 con gà, một phần hai số con gà là mấy con ? Ta lấy 14 : 2 = 7 vậy 7 con gà chính là 1/2 số con gà cần tìm. Nếu tìm một phần ba ( 1/3 ) thì đem số đồ vật đó chia cho 3 được kết quả bao nhiêu thì kết quả đó chính là một phần ba ( 1/3 ) Ví dụ : có 21 con bướm, một phần ba ( 1/3 ) số con bướm là mấy con ? Ta lấy 21 : 3 = 7 vậy 7 con bướm chính là một phần ba ( 1/3 ). Nếu tìm một phần tư ( 1/4 ) thì đem số đồ vật đó chia cho 4 được kết quả bao nhiêu thì kết quả đó chính là một phần bốn ( 1/4 ) Ví dụ : có 24 con ong, một phần tư ( 1/4 ) số con ong là mấy con ? Ta lấy 24 : 4 = 6 vậy 6 con ong chính là một phần tư ( 1/4 ). Nếu tìm một phần năm ( 1/5) thì đem số đồ vật đó chia cho 5 được kết quả bao nhiêu thì kết quả đó chính là một phần năm ( 1/5 ) Ví dụ : có 45 con châu chấu, một phần năm ( 1/5 ) số con bướm là mấy con ? Ta lấy 45 : 5 = 9 vậy 9 con châu chấu chính là một phần năm ( 1/5 ). d. Kết quả đạt được : 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan