SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH VÀ GIÁO
DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ 3 – 4 TUỒI
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
và chịu trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ từ 0 – 6 tuổi. Đây cũng là
giai đoạn đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển toàn
diện về mọi mặt cả thể chất lẫn tinh thần và là yếu tố đầu tiên hình
thành nhân cách của một đứa trẻ. Nếu không làm tốt việc chăm sóc giáo dục trẻ trong những năm đầu đời này, sẽ trở nên hết sức khó khăn,
phức tạp.
Chăm sóc giáo dục trẻ để trẻ phát triển một cách toàn diện về mọi
mặt không có nghĩa là người lớn làm hết tất cả mọi việc cho trẻ từ việc
nhỏ nhất như bố mẹ chăm bẵm con từng ly, từng tý từ vệ sinh cá nhân,
mặc quần áo, thậm chí là bón cho con từng miếng một. Mà tất cả Giáo
viên và trước hết là các bậc phụ huynh nên hưỡng dẫn và cho trẻ làm
những việc đơn giản nhất.
Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí
có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân
cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành
tính tự lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự
làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự lập
cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập
trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan
trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình
thành các kĩ năng sống sau này cho trẻ.
Kỹ năng tự phục vụ ở trẻ trong độ tuổi mẫu giáo nói chung và
mẫu giáo bé nói riêng đều rất hạn chế, vì mỗi ngày trẻ đều được ba mẹ
chăm sóc từng chút một từ vệ sinh cá nhân đến việc ăn uống . Vì các
bậc phụ huynh thường có suy nghĩ trẻ còn nhỏ và không cần trẻ phải
làm bất cứ việc gì ngoài việc học và chơi. Nhưng Bác Hồ chúng ta đã
nói “ tuổi nhỏ thì làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình mà làm ”
Nhưng trên Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu
là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính
tự lập, tự phục vụ cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá
mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về,
thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ,
trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì lại tỏ ra
khó chịu, nên người lớn thường “Sốt ruột” và làm thay trẻ cho nhanh
để không mất thời gian, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo
ra sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ. Chính những việc làm đó của
người lớn đã vô tình làm mất dần đi những kỹ năng sống cơ bản của
một đứa trẻ.
Xuất phát từ những vấn đề đó, tôi luôn học hỏi và tìm hiểu về các
biện pháp làm sao để trẻ có thói quen tự lập, tự phục vụ. Đặc biệt ở lứa
tuổi mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi mà tôi đang trực tiếp giảng dạy, nhằm giúp
trẻ có kỹ năng tự lập, tự phục vụ trong mọi công việc hàng ngày, phù
hợp với lứa tuổi và sự phát triển của trẻ. Để trẻ bước đầu có được kỹ
năng tự lập, tự phục vụ không chỉ ở trường mà còn cả ở gia đình và
ngoài xã hội, vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục
tính tự lập, kỹ năng phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường
Mầm non”.
II. Mục đích nghiên cứu đề tài:
2
Tìm ra những biện pháp giáo dục tính tự lập và kỹ năng tự phục vụ
cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi trong trường mầm non để phù hợp với sự
phát triển toàn diện của trẻ và đáp ứng nhu cầu hiện nay.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: Các cháu lớp 3 - 4 tuổi Trường Mầm
Non Ngô Thời Nhiệm
2. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
Địa điểm: Lớp mầm 3 : số lượng : 25 trẻ.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện nay đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Việc
tổ chức các hoạt động giáo dục với quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm”
nhằm phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, khả năng, năng lực vốn có
của trẻ về mặt tinh thần, nhờ khả năng đó trẻ có thể tự mình làm một
số công việc mà không phải dựa dẫm, nhờ vả vào người khác.
Tính tự lập, tự phục vụ là yếu tố để tạo nên điều đó ở mỗi cá
nhân, là khả năng tin tưởng vào những đánh giá của bản thân, cũng
như là tìm ra con đường đi cho mình mà không cần lúc nào cũng nhờ
đến sự chỉ bảo hay tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Có được khả
năng này là một điều tuyệt vời, bởi nó sẽ giúp cho mỗi người tự tin
hơn, thu hút được sự chú ý của mọi người xung quanh, từ đó tạo tiền
đề, để có cơ hội phát triển toàn diện.
Tính tự lập là gì? Là một đức tính rất cần thiết cho trẻ, vì nhờ có
tính tự lập mà trẻ có thể phát huy được những tiềm năng ẩn dấu, trẻ sẽ
trưởng thành hơn và đặc biệt bố mẹ sẽ giảm bớt lo lắng hơn. Tuy nhiên
3
tính tự lập không phải tự nhiên mà có được. Mà nó còn phụ thuộc vào
cả quá trình rèn luyện trong một thời gian nhất định.
Tự phục vụ là gì? Là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ
tăng năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng
trước mọi khó khăn thử thách. Tự phục vụ chính là chiếc chìa khóa của
sự sống còn, sự phát triển và sự thành công của mỗi con người.
Khi nhắc đến giáo dục tính tự lập và kỹ năng tự phục vụ đối với
trẻ mầm non nhiều người cho rằng đó là một cái gì đó rất cao siêu,
nhưng thực tế dạy trẻ biết tự lập, tự phục vụ là dạy những thói quen
sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản
thân và những người xung quanh.
Chính vì vậy đối với bậc học mầm non, việc giáo dục tính tự lập
và kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt, là
phương pháp rất quan trọng và cần thiết. Tạo tính tự lập cho trẻ không
phải chỉ có hướng dẫn cho trẻ tự lo cho bản thân mà còn giúp trẻ tự
quyết định một số vấn đề của chính bản thân trẻ. Đó cũng là cách giúp
trẻ vận động suy nghĩ, sáng tạo và tự tin thực hiện một số các kỹ năng
tự lập.
I.
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI
THỰC HIỆN:
Thông qua đề tài tôi đã tiến hành khảo sát tình hình của trẻ ở lớp
đầu năm học và tôi thấy đa số các bé đều chưa có kỹ năng tự lập và tự
phục vụ cho bản than trẻ. Vì mỗi ngày đến trường các bé đều được ba
mẹ ẵm vào lớp và tự cất đồ dung cá nhân của trẻ mà không để trẻ làm.
Kết quả mà tôi khảo sát đầu năm như sau :
1. Khảo sát thực tế:
NỘI DUNG KHẢO SÁT
ĐẠT
4
CHƯA
ĐẠT
Biết tự lấy đồ dùng cá nhân khi đến lớp và ra về
8
32 % 17
Biết tự đi giày, dép
5
20% 20
Biết tự đi vệ sinh khi có nhu cầu
9
36% 16
Biết bỏ rác đúng nơi quy định
13 52% 12
Biết tự cầm thìa xúc ăn
7
28% 18
Biết tự đi lấy ca uống nước và cất ca đúng nơi 10 40% 15
quy định
Biết tự lau mặt khi bẩn
3 12% 22
Biết tự lấy, cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy 6
định
Biết tự rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh 6
và khi tay bẩn bằng xà phòng
Biết tự đánh răng sau khi ăn
3
24% 19
Biết cởi, mặc quần áo
7
28% 18
Biết tự gấp – xếp quần áo
8
32% 17
Biết phụ giúp cô những công việc đơn giản
6
24% 19
Trẻ tự tin làm một số công việc
3
12% 22
5
24% 19
12% 22
68
%
80
%
64
%
48
%
72
%
60
%
88
%
76
%
76
%
88
%
72
%
68
%
76
%
88
%
2 . Những biện pháp
Nhằm đạt được những hiệu quả như mong muốn trong việc thực
hiện đề tài của mình tôi đã đưa ra một số nội dung cần giải biện pháp
như sau:
- Đặt mục tiêu rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
- . Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng tự lập, tự phục vụ cho
trẻ.
- Giáo dục trẻ có tính tự lập ngay từ những ngày đầu đến lớp.
- Rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông qua một số hoạt động trong
ngày ở lớp.
- Công tác phối hợp với phụ huynh.
3. Giải quyết các biện pháp
a. Đặt mục tiêu rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết. Việc hình
thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết
định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ.
Khi xảy ra vấn đề nào đó, nếu không được trang bị những kỹ năng cần
thiết, trẻ sẽ không đủ kiến thức để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế,
rèn luyện những kỹ năng cần thiết, đặc biệt là kỹ năng tự lập, tự phục
vụ sẽ giúp trẻ sớm có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng
đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội.
Người lớn thường không muốn trẻ phải làm những công việc mà
vừa sức với trẻ khi mà trẻ chưa thực sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm
mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít nhận ra rằng con trẻ đã đủ khéo
léo, có các kỹ năng phù hợp và đủ tự tin bắt tay vào một công việc nào
đó. Để hình thành tính tự lập, người lớn cần tin tưởng trẻ, động viên và
khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người
kiểm soát trẻ quá chặt để trẻ phụ thuộc quá lâu thì trẻ sẽ bám riết lấy
cha mẹ, cô giáo, chúng có thể trở thành những đứa trẻ lười biếng và
mọi việc đối với trẻ đều trở nên khó khăn.
6
Xuất phát từ tư duy này cô giáo và cha mẹ nên dạy con tính tự lập,
làm việc bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác
nhau hãy đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy
trẻ về tính tự lập theo lời Bác Hồ dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo
sức của mình”. Và với mong muốn sau này mỗi đứa trẻ lớn lên và
trưởng thành đều có nhân cách tốt, đạo đức tốt và có khả năng về tự
lập, tự phục vụ cho chính bản thân mình, để sau này dù có ở môi
trường nào thì trẻ đều có thể dễ dàng thích nghi và hòa nhập . Vì vậy
ngay từ đầu năm học tôi đã đặt ra các mục tiêu để rèn luyện các kỹ
năng cho trẻ lớp mình như sau:
- Kỹ năng tự phục vụ bản thân: Tự nhặt đồ chơi; tự cởi và mặc quần
áo; tự rửa mặt, rửa tay; tự đi dép, tự cất dép, lấy và cất đồ dùng cá nhân
của mình khi đến lớp và khi ra về; tự ăn; tự đi lên xuống cầu thang; tự
lấy và cất gối.
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Tự thay quần áo khi thấy bẩn; tự đánh
răng sau khi ăn; lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn; xả nước sau khi đi
vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi qui định; rửa tay bằng xa phòng khi tay
bẩn, nhặt rác, bỏ rác vào đúng nơi qui định; tự rửa tay, chân khi thấy
bẩn, biết tự đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu.
- Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị
bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ
đồ, tưới cây….
Việc xác định được những kỹ năng như trên đã giúp tôi định
hướng được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung
và việc thực hiện đề tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ xác định được
những kỹ năng đó mà tôi đã rèn trẻ thông qua các hoạt động trong
ngày. Tôi đã giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của hành động, của công việc
đó như thế nào, biết được việc nào nên làm và việc nào không nên làm,
việc đó có ích lợi gì để từ đó giúp trẻ dần dần trở thành ý thức cần có
trong cuộc sống hàng ngày.
7
b . Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng tự lập, tự phục vụ
cho trẻ.
Để việc giáo dục kỹ năng tự lập cho trẻ đạt được kết quả cao,
ngay từ đầu năm học tôi đã lên kế hoạch cụ thể, rõ ràng từng tháng
xuyên xuốt từ những kĩ năng dễ tới những kỹ năng khó như sau:
Kế hoạch giáo dục kĩ năng tự lập, tự phục vụ cho trẻ lớp mẫu
giáo bé:
Tháng
Kĩ năng
Tháng 9
- Biết lấy và cất đồ dùng cá nhân khi đến lớp và ra
về.
- Biết đi và tháo giầy, dép.
Tháng 10
- Biết tự đi vệ sinh khi có nhu cầu
- Biết bỏ rác đúng nơi quy định
Tháng 11
- Biết tự cầm thìa xúc ăn mà không cần cô nhắc.
- Biết tự đi lấy nước uống và cất cốc đúng nơi quy
định.
Tháng 12
- Biết tự lau mặt khi bẩn
- Biết cất, xếp đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định.
Tháng 1
- Biết tự rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và
khi tay bẩn bằng xà phòng
- Biết tự đánh răng sau khi ăn
Tháng 2
- Biết cởi, mặc quần áo
- Biết tự gấp quần áo
Tháng 3
- Biết giúp đỡ người khác khi được yêu cầu
8
- Trẻ tự tin làm một số công việc
Và theo tôi, để trẻ có được kỹ năng tự lập, tự phục vụ thì cô cần
có quy trình nhất định để thực hiện kế hoạch một cách dễ dàng mà
mang lại hiệu quả không nhỏ.
1.Cung cấp kỹ năng.
2. Tạo nhiều cơ hội cho trẻ được luyện tập.
3. Hình thành thói quen.
4. Vận dụng linh hoạt vào các hoạt động. Đảm bảo quy tắc từ dễ
đến khó cho trẻ thực hiên.
c: Giáo dục trẻ có tính tự lập ngay từ những ngày đầu đến lớp:
Để thực hiện có hiệu quả việc rèn tính tự lập cho trẻ đầu tiên tôi
tự thiết kế cho mình một số kỹ năng rèn luyện trẻ bao gồm:
. Lựa chọn lựa một số kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Ngay từ những ngày đầu năm học, khi trẻ bắt đầu quen dần với
cô, với bạn, làm quen với môi trường lớp học tôi tiến hành rèn luyện
cho trẻ một số kỹ năng đơn giản:
- Kỹ năng tự phục vụ bản thân: tự đi dép, tự cất dép, lấy và cất đồ dùng
cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về. Tự cởi và mặc quần áo; tự
xúc ăn; tự đi lên xuống cầu thang; tự lấy và cất gối.
+ Ngay từ đầu năm học, trẻ Mẫu Giáo Bé vừa ở lớp nhà trẻ chuyển
lên và trẻ còn bỡ ngỡ với những việc làm tự phục vụ bản thân mình, vì
ở nhà trẻ các bé đều được ba mẹ, cô giáo làm và chăm sóc các bé từ
những việc làm nhỏ nhất . Do đó ngay từ khi các bé quen cô, quen bạn
thì tôi bắt đầu với công việc là dạy và tập cho bé tự phục vụ bản thân
mình từ những việc làm nhỏ nhất .
9
Kỹ năng tự phục vụ bản thân: tự đi dép, tự cất dép, lấy và cất đồ
dùng cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về. Tự cởi và mặc quần
áo; tự xúc ăn; tự đi lên xuống cầu thang; tự lấy và cất gối…
Ví dụ:
Từ đầu năm học một số trẻ như bạn Khang, Yến Nhi, Thiện
Nhân,…..đến lớp thì để dép ngay cửa ra vào, cặp thì để ba mẹ cất dùm
không biết tự làm, tôi phải hướng dẫn trẻ tự làm bằng cách trò chuyện
và dạy trẻ: tôi hỏi trẻ khi đến lớp con thấy các bạn để dép và cặp ở
đâu? Con thấy bạn làm có giỏi không? Sao con không tự làm giống
bạn? Và tôi bắt đầu hướng dẫn trẻ tự để dép lên kệ, sau đó mang cặp
cất vào tủ đồ dùng cá nhân của mình . Khi trẻ tự làm tôi khen trẻ và
nhắc trẻ lần sau nhớ làm đúng như vậy. Và những ngày tiếp theo tôi để
ý theo dõi xem trẻ có làm đúng không, nếu trẻ quên tôi nhắc trẻ và
trong thời gian 1- 2 tuần trẻ bắt đầu quen và có ý thức cất đồ đúng nơi
và trẻ cũng nhắc nhở khi có bạn làm sai.
( Hình ảnh bé tự cất giày dép và đồ dùng cá nhân của mình )
10
Ví dụ : Trong giờ thay đồ sau khi ăn xong, cũng như vậy trước khi cho
trẻ làm thì tôi luôn hưỡng dẫn và dạy cho trẻ thực hành . Ban đầu tôi
sẽ cho trẻ tự mặc quần cho mình trước vì các bé vừa được chuyển lên
từ nhà trẻ nên tôi hưỡng dẫn từ những điều dễ nhất . Sau khi tất cả các
bé trong lớp đều thực hiện được việc tự mặc quần thì lại bắt đầu
chuyển qua hưỡng dẫn cho trẻ cách tự mặc áo và gấp quần áo cho gọn
gàng.
( Hình ảnh bé tự mặc quần áo )
11
( Hình ảnh hướng dẫn trẻ tự gấp quần áo)
Ví dụ : Trong giờ ăn ở lớp, điều đầu tiên tôi làm đó là hưỡng
dẫn cho các bé cách cầm muỗng để làm sao xúc được cơm, canh ……
Sau khi hưỡng dẫn xong tôi cho bé thực hiện, luôn động viên, nhắc bé
ăn uống hết khẩu phần ăn của mình và đặc biệt là khuyến khích các bé
tự xúc ăn bằng cách bạn nào hôm nay tự xúc ăn thì cô sẽ có thưởng.
12
Cũng nhờ có động lực được thưởng nên các bé không những trở nên
thích thú với việc tự xúc ăn mà còn ăn hết khẩu phần ăn của mình.
( Hình Ảnh bé tự xúc ăn)
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh:
+ Ở lứa tuổi mầm non thì trẻ 3 tuổi dù là nhỏ tuổi nhưng trẻ
cũng đã dần biết được giữ vệ sinh cho bản thân mình luôn được
sạch sẽ. Vì vậy Trước giờ ăn tôi hướng dẫn trẻ rửa tay bằng xà
phòng, khi ăn tôi nhắc các cháu tự múc ăn, khi ăn xong tôi hướng
dẫn trẻ rửa tay, rửa mặt và đánh răng, tự rót nước uống. Tôi
hướng dẫn cháu rửa tay khi tay bị bẩn, đi vệ sinh đúng nơi quy
định, gạt nước sau khi đi vệ sinh, bỏ rác đúng nơi quy định.
Ví dụ : Ở lớp khi ra ngoài trời chơi hay trong lúc đi vệ sinh…..
mà bị ướt quần một chút, hay mồ hôi ra bẩn hết quần áo thì các
bé đều biết gọi và nhờ sự trợ giúp của cô. “ Cô ơi , quần áo con
ướt rồi, con thay đồ nha cô ”. Điều này cũng đã thể hiện rõ và có
ý thức của trẻ về giữ gìn vệ sinh sạch sẽ cho bản chính bản thân .
Ở trẻ nhỏ luôn tìm tòi và khám phá những điều mới lạ.
Hàng ngày trẻ được học tập và chơi rất nhiều loại đồ dùng, đồ
13
chơi hay sau khi đi vệ sinh thì thường có rất nhiều vi khuẩn
bám vào đôi tay và chân của trẻ rất nhiều. Điều đó làm cho trẻ
rất dễ bị nhiễm bệnh và lây lan bệnh rất nhanh. Chính vì vậy
mà tôi thường xuyên dạy và cho trẻ rửa tay, chân trước khi ăn,
sau khi chơi và sau khi đi vệ sinh xong bằng xà phòng để đề
phòng vi khuẩn lây bệnh và giữ cho đôi tay của bé luôn được
sạch sẽ.
( hình ảnh bé rửa tay)
14
-
Có thể ở nhà, trẻ thường thấy khó chịu mỗi khi bố mẹ nhắc
nhở đi đánh răng súc miệng nhưng bố mẹ nhiều khi lại bận
công việc và thường để trẻ thực hiện việc đánh răng một mình.
Đó cũng chính là một trong những điều mà làm cho trẻ không
hứng thú với việc đánh răng. Nhưng khi ở lớp được cô giáo
hưỡng dẫn và học cách đánh răng để giữ cho răng miệng luôn
được sạch, thơm và không bị sâu răng thì trẻ lại rất thích thú
và hào hứng. Bởi vì ở trên lớp trẻ được làm cùng cô và cùng
các bạn nên càng làm cho trẻ thích thú hơn.
( hình ảnh bé đánh răng sau bữa ăn trưa)
d. Rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông qua một số hoạt động trong ngày
ở lớp.
Để giúp trẻ thực hiện được các thói quen tự phục vụ một cách
phấn khởi và nhớ lâu tôi đã kết hợp lồng ghép những bài thơ, bài hát
có ý nghĩa giáo dục giữ gìn vệ sinh để trẻ dễ dàng thực hiện các kỹ
năng đó.
● VD: Trước giờ ăn tôi cho trẻ hát các bài hát hoặc đọc một số
bài thơ: Rửa tay, rửa mặt, giờ ăn , giờ ngủ, giờ chơi…
Rửa tay
Rửa mặt
Miếng xà phòng nho nhỏ
Bàn tay nhỏ nhắn
Em xát lên bàn tay
Bé cầm chiếc khăn
Nước máy đây trong vắt
Rửa một bên mặt
15
Em rửa đôi bàn tay
Rồi đến bên kia
Khăn mặt đây thơm phức
Gấp chiếc khăn lại
Em lau khô bàn tay
Lau đến mũi miệng
Đôi bàn tay be bé
Khuôn mặt của bé
Nay rửa sạch xinh xinh
Xinh xinh lạ kì
Tất cả lớp chúng mình
Là nhờ bé đấy
Cùng giơ tay vỗ vỗ.
Chăm chỉ rửa mặt
Bài thơ “ Giờ ăn ”
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé
Nào thìa bát dĩa
Xúc cho gọn gang
Chớ có vội vàng
Cơm rơi cơm vãi
- Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, dọn dẹp đồ
chơi phụ cô, chuẩn bị muỗng và khan bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy
ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây….
16
( Hình ảnh bé phơi khăn giúp cô )
( Hình ảnh trẻ nhặt lá vàng rơi trong sân trường giúp các cô lao công )
Khi trẻ có nguyện vọng tự lập, mong muốn được làm việc có khi
còn tỏ ra bướng bỉnh. Những lúc đó tôi rất thông cảm và hiểu được
“bướng bỉnh” ở lứa tuổi này và không kìm hãm ý muốn tự lập của trẻ.
17
Khi trẻ thực hiện công việc đó mất rất nhiều thời gian, không theo
mong muốn của tôi, đôi khi còn bừa bãi thậm chí còn hỏng việc. Song
tôi vẫn luôn tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc.
VD: Như lớp tôi có một số trẻ rất thích giúp cô chia thìa vào khay
và đặt vào các bàn, nhưng loay hoay mãi không biết chia như thế nào,
có khi còn chia thiếu, rồi làm rơi hết thìa xuống sàn. Mỗi lần như vậy
tôi không tỏ ra khó chịu mà nhẹ nhàng đến bên trẻ dẫn trẻ vào từng
bàn làm mẫu cách đếm bạn trong bàn và chia thìa tương ứng với số
bạn trong bàn đó, sau đó tôi cho trẻ chia tiếp các bàn tiếp theo. Sau
mỗi lần được tôi hướng dẫn động viên trẻ của tôi giờ làm rất thành
thạo và trẻ nào cũng muốn được giúp cô.
( Hình ảnh bé xếp muỗng, bỏ khan vào bàn ăn giúp cô )
Được tự tay làm những công việc mình thích tôi thấy trẻ rất phấn
khởi, có thể lần đầu trẻ làm rất lâu mới song, nhưng các lần sau đó tôi
thấy các thao tác của trẻ thành thạo rất nhiều, trẻ mạnh dạn tự tin hơn.
Qua đó những kiến thức tự trải nghiệm của trẻ sẽ được mở rộng và
khắc sâu hơn rất nhiều.
Tính tự lập của trẻ được trải nghiệm trong các hoạt động, trong
sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nhà trường. Đối với trẻ lên ba đã bắt
đầu có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức về điều đó
và luôn chứng tỏ khả năng của mình trong sinh hoạt hàng ngày. Trong
giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị
đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị
trí ngồi của mình, kết thúc tiết học cũng vậy tôi cho trẻ tự cất đồ dùng
học tập đúng nơi qui định.
● VD: Trong giờ học toán tôi đã chuẩn bị rổ đồ dùng và bảng trắng
cho mỗi trẻ nhưng tôi đặt chung vào một bàn, tôi cho mỗi trẻ lên lấy
18
một rổ và một bảng về chỗ của mình để học. Sau khi học xong tôi cũng
cho trẻ cất đồ dùng về đúng vị trí. Hay trong giờ học tạo hình cần đến
hộp màu tôi thường nhờ trẻ chuẩn bị bàn học và hộp màu cho các bạn.
Được tự lấy đồ dùng học tập như vậy tôi thấy trẻ rất tích cực, hứng
thú học và luôn muốn khám phá xem mình được học gì ở các đồ dùng
đó, giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ học đến
cuối giờ học. Qua đó tôi còn rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng ngăn
nắp, lấy đâu cất đấy.
Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ
hoạt động góc và hoạt động ngoài trời trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn
khởi, mong chờ nhất. Không những vậy hoạt động vui chơi là hoạt
động quan trọng nhất nó giữ vai trò chủ đạo ở lứa tuổi này, qua hoạt
động này làm biến đổi về chất trong toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Vì
vậy đối với trẻ ở lứa tuổi này, đồ vật không phải là thứ để trẻ nghịch
như trước đây mà bây giờ qua chơi với đồ vật, đồ chơi giúp trẻ khám
phá chức năng và phương thức sử dụng tương ứng (như cái thìa dùng
để xúc cơm ăn và có cách cầm thìa nhất định…) Chính vì vậy tôi rất
chú trọng việc tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ vật, đồ chơi và
chơi với bạn bè.
Ngoài ra trong quá trình chơi với đồ vật trẻ còn bắt chước thao tác của
người lớn. Trò chơi phân vai chính là một hoạt động phản ánh thực
cuộc sống xã hội thu nhỏ. Khi tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí
chủ thể của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết định làm
lấy những gì mà mình thích chứ không phải là những gì người khác ép
buộc. Vì vậy, trong khi chơi xuất hiện ở trẻ sự tích cực tự nguyện.
Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các chức năng
tâm lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thấn.
Chơi là để học hỏi làm người là để phát triển nhân cách một cách toàn
diện. Với những ý nghĩ to lớn đó, có thể khẳng định rằng: Chơi cũng lá
cách để rèn luyện và phát huy khả năng tự lập. Hơn bất cứ hoạt động
19
nào, trong trò chơi, trẻ được thể hiện khả năng tự lập của mình. Trẻ
luôn luôn mong muốn mình được tự giải quyết lấy mọi tình huống,
chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của ai. Trẻ
có thể tự tiến hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ, hăng say, thích
thú.
VD: Trong hoạt động góc có rất nhiều góc chơi, trong mỗi góc lại có
nhiều nhóm chơi nhỏ. Khi cô giới thiệu các góc chơi, nhiệm vụ của
từng vai chơi, trẻ bắt đầu tự chọn hoạt động của mình. Có trẻ chọn góc
phân vai, có trẻ chọn góc xây dựng…Lần đầu tiên cháu được đóng làm
chú công nhân, được đóng vai bố, mẹ, vai y tá, bác sĩ,…Làm chú công
nhân phải xây nhà, xây hàng rào và xây nhiều công trình khác. Khi đó
trẻ sẽ nghĩ ra cách làm cho đẹp, cho nhanh. Được đóng vai bố, mẹ trẻ
sẽ tự làm công việc của bố là đi làm hoặc là làm công nhân hoặc là một
nông dân chăm sóc cây trong vườn hoặc đưa trẻ đi học, đi chơi công
viên… làm mẹ là biết bế em, cho bé ăn, quét dọn nhà cửa,nấu cơm…
Làm y tá, bác sĩ trẻ sẽ khám bệnh, kê đơn thuốc, tiêm thuốc… Khi trẻ
hoạt động cô giáo tạo tình huống để trẻ giải quyết. Đồng thời gợi ý,
hướng dẫn thêm để mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ trong lúc chơi.
Từ những giai đoạn sau khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không can thiệp
quá sâu vào trò chơi của trẻ để trẻ bộc lộ khả năng tự lập của mình.
Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc
hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong quá trình hành động đó. Từ
đó trẻ học được cách tự lập trong các thao tác hành động với đồ vật,
giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong sống.
20
- Xem thêm -