Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 đọc tốt....

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 đọc tốt.

.DOC
21
2306
94

Mô tả:

Sáng kiếến kinh nghiệm MỤC LỤC Trang I. Sơ lược lý lịch tác giả:………………………………………………… 2 II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:.....................................................2, 3 III.Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến : 1/ Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến……………….. 3, 4 2/ Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến…………………………………. 5 3/ Nội dung sáng kiến…………………………………….từ trang 5 đến trang 18 IV. Hiệu quả đạt được…………………………………………………… 18, 19 V. Mức độ ảnh hưởng…………………………………………………….19, 20 VI.Kết luận…………………………………………………………………20, 21 PHÒNG GDĐT CHÂU PHÚ GV: Nguyễn Thị Diệu An CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1 Sáng kiếến kinh nghiệm TRƯỜNG TH A ĐÀO HỮU CẢNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Châu Phú, ngày 20 tháng 12 năm 2018 BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến về: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT TRƯỜNG TIỂU HỌC A ĐÀO HỮU CẢNH ĐỌC TỐT. I- Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: Nguyễn Thị Diệu An Nam, nữ: Nữ - Ngày tháng năm sinh: 09/08/1983 - Nơi thường trú: Hưng Lợi- Đào Hữu Cảnh - Đơn vị công tác:Trường TH A Đào Hữu cảnh - Chức vụ hiện nay: Giáo Viên -Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm - Lĩnh vực công tác: Giáo viên tiểu học II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: 1. Thuận lợi: - Nhà trường nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Phòng GDĐT và Đảng ủy UBND xã; sự phối kết hợp công tác của các trường đóng trên địa bàn. Sự ủng hộ của các mạnh thường quân và phụ huynh học sinh. - Trình độ dân trí đã có bước chuyển biến mạnh mẽ; Chất lượng giảng dạy, chất lượng học sinh của trường và các điểm trường được duy trì ổn định. 100% GV đạt trình đô ̣ chuyên môn trên chunn. - Công tác lãnh đạo, quản lý giảng dạy của giáo viên và nhà trường đồng bộ và thống nhất cao tạo ra chuyển biến rõ rệt về chất lượng của nhà trường. 2. Khó khăn: GV: Nguyễn Thị Diệu An 2 Sáng kiếến kinh nghiệm - Trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh có 2 điểm là trường thuộc vùng trong, tình hình giáo dục, kinh tế - xã hội của địa phương còn gặp rất nhiều khó khăn. - Địa bàn quản lý rộng gồm 5 ấp, chủ yếu là nghề nông nghiệp (chiếm trên 90%). - Học sinh thường nghỉ theo thời vụ, làm ảnh hưởng một phần đến công tác dạy-học. - Học sinh thuô ̣c diê ̣n nghèo và câ ̣n nghèo trên địa bàn chiếm tỉ lê ̣ rất cao, từ đó ảnh hưởng mô ̣t phần cho các em đến trường. -Tên sáng kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT TRƯỜNG TIỂU HỌC A ĐÀO HỮU CẢNH ĐỌC TỐT. - Lĩnh vực: Giáo Dục III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến: 1/ Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện theo Nghị quyết 29- NQ/TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Và sự thật đúng như vậy: muốn đào tạo ra một con người có tri thức, có trí tuệ và nhân cách tốt thì không thể quên việc đào tạo ra một thế hệ học sinh có một kiến thức cơ bản ngay từ những ngày đầu tiên cắp sách đến trường. Bác Hồ kính yêu từng nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” Đối với thầy cô giáo ở cấp Tiểu học, thì vai trò và trách nhiệm giáo dục của chúng ta rất quan trọng. Bởi vì giáo dục bậc Tiểu học là cấp đầu tiên, là GV: Nguyễn Thị Diệu An 3 Sáng kiếến kinh nghiệm nền tảng ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người. Vì vậy, dạy như thế nào để đạt kết quả cao, để phát huy tính tích cực, chủ động, rèn luyện cho các em thói quen hành động đúng là điều khiến nhiều giáo viên trăn trở và suy nghĩ. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành những thông tư nhằm thúc đny việc thay đổi cách đánh giá học sinh nhằm khuyến khích người học. Trong đó thông tư 30, thông tư 22 được Bộ Giáo dục tổ chức thực hiện nhằm tạo ra sự chuyển biến trong giáo dục phù hợp với tình hình phát triển của học sinh tiểu học ở thời điểm hiện nay và tiến tới tầm nhìn những năm tiếp theo. Sự quan tâm đặc biệt này càng cho chúng ta biết được phải thay đổi giáo dục toàn diện theo hướng mới đặc biệt là ở bậc học nền tảng - bậc tiểu học. Người giáo viên không còn đánh giá học sinh bằng điểm số mà thay vào đó là những lời khích lệ, động viên các em phấn đấu học tập tốt, rèn luyện tốt. Vì vậy việc phải thay đổi theo tình hình mới là nhiệm vụ cũng là cách luyện rèn cho người giáo viên biết thay đổi, học tập những cái mới hướng tới mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục con người trong thời đại mới. Ở lớp một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kĩ năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ mình vừa đọc, hiểu được các lệnh, các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác, ở lớp một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Từ đó giúp các em ham học, tích cực trong học tập hơn nên kết quả học tập của các em sẽ tiến bộ hơn. Chính vì thế, việc tìm ra biện pháp để giúp học sinh đọc tốt là một yêu cầu cấp bách và vô cùng cần thiết đối với mỗi người giáo viên tiểu học, nhất là giáo viên đang dạy lớp một. Vì những lý do đó mà tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài " Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh đọc tốt ". 2/ Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: GV: Nguyễn Thị Diệu An 4 Sáng kiếến kinh nghiệm - Với việc nghiên cứu và sử dụng đề tài này tôi chỉ mong muốn góp phần cho “đàn con thân yêu” của tôi có một nền móng vững chắc, có một lượng kiến thức cơ bản vững vàng về môn Tiếng Việt lớp Một để tiếp tục học các năm sau, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên - học sinh trong giờ tập đọc. Học sinh hiểu được cái sai, cái đúng trong khi đọc từ đó sẽ phát huy được những mặt mạnh của chính bản thân mình. Mặt khác, giáo viên sẽ đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình rèn kĩ năng đọc cho học sinh nhằm hỗ trợ trong công tác giảng dạy của mình lâu dài. - Xác định được tầm quan trọng của việc giúp học sinh lớp Một đọc tốt nên có lẽ trước đây cũng có nhiều giáo viên nghiên cứu đề tài này. Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm dạy học của nhiều giáo viên, qua đọc thêm nhiều tài liệu, giáo trình; qua trao đổi kinh nghiệm với anh chị đồng nghiệp; qua thực tế ở lớp học, hôm nay tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp Một, hy vọng với ý kiến đóng góp nhỏ bé của tôi sẽ giúp ích trong việc rèn đọc cho các em và tiến xa hơn nữa là nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Việt của các em. 3/ Nội dung sáng kiến: a/ Tiến trình thực hiện: Trong suốt quá trình giảng dạy b/ Thời gian thực hiện: từ đầu năm học c/ Biện pháp tổ chức: 1. Hướng dẫn học sinh đọc chính xác các âm, các vần, các tiếng: 1.1. Phần học các âm: - Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu vì nó hình thành những khái niệm cơ bản ban đầu về âm, vần và cách đọc cho học sinh. Nếu thực hiện tốt các em sẽ tiếp thu cách đọc và cách học tốt hơn phát huy được tính tích cực chủ động trong học tập của các em. - Muốn học sinh nắm vững các âm thì trước tiên các em cần phải nhận biết chính xác các nét cơ bản. Do đó, tôi dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này, tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng GV: Nguyễn Thị Diệu An 5 Sáng kiếến kinh nghiệm nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. - Ở biện pháp này tôi thực hành mẫu chính xác, rõ ràng và hướng dẫn tốt cho các em trong từng cách phát âm, đánh lưỡi, … Trong quá trình thực hành, tôi hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chunn và tiến hành chỉnh sửa những sai sót kịp thời để không tạo tiền lệ thói quen trong quá trình đọc. Tầm quan trọng của người giáo viên trong giờ Học vần là giọng đọc và cách phát âm chunn vì hàng ngày học sinh được tiếp xúc với thầy cô giáo đã quen dần giọng đọc nên cần phải hình thành cho học sinh thói quen đọc đúng ngay từ ban đầu. Sự kết hợp giữa phát âm đúng và khnu hình miệng sẽ hình thành cho học sinh thói quen đọc đúng, biết chỉnh sửa những sai sót thông qua khnu hình miệng của giáo viên. Ví dụ: Bài âm “s”. Tôi nhận thấy chỉ có một số em đọc được, đa số các em còn lại là không đọc được. Tôi phát âm mẫu to, rõ ràng, lưu ý các em nhìn miệng tôi và lắng nghe tôi phát âm, sau đó tôi chỉ bảng cho từng học sinh phát âm. Đối với các em hay quên tôi cho các em phát âm nhiều lần hơn. Trong quá trình các em phát âm tôi luôn lắng nghe và sửa kịp thời để các em nhớ. Hơn thế nữa, tôi kịp thời tuyên dương để động viên, khuyến khích các em cố gắng. - Sau khi từng em đã đọc đúng, rõ ràng tôi cho các em đọc theo tổ, theo dãy, rồi đọc đồng thanh. Bên cạnh đó tôi cho các em thi đọc giữa các tổ dưới hình thức tập thể và cá nhân. - Bên cạnh đó tôi chú ý nhiều nhất ở những em đọc chưa chính xác do quen việc phát âm theo ngôn ngữ địa phương hay do quá trình phát triển sinh lí chưa hoàn chỉnh dẫn đến quá trình đọc còn ngọng, còn đớt. Những đối tượng này sẽ được luyện đọc nhiều lần hơn các em khác trong tiết Học vần hay tiết ôn tập ở buổi chiều. - Đối với những em phát âm theo ngôn ngữ địa phương như em Ngọc Hân, em Tuấn Anh, … tôi thường xuyên nhắc nhở các em đọc đúng và nói GV: Nguyễn Thị Diệu An 6 Sáng kiếến kinh nghiệm chuyện phát âm đúng dần loại bỏ thói quen cũ để phát âm theo tiếng phổ thông. Tuy nhiên cũng có một số khó khăn mắc phải mà chúng ta thường gặp đó là sau khi được thầy cô sửa chữa cách phát âm, giọng đọc xong thì khi về nhà các em tiếp xúc với gia đình thì các em lại quen theo nếp cũ. Vì vậy các em phải được giáo viên nhắc nhở thường xuyên, hàng ngày có thể xen vào những câu chuyện cười mang tính giáo dục khắc sâu để các em không còn mắc phải những lỗi phát âm địa phương. Ví dụ: Đến bài âm “ r ”. Tôi nhận thấy có một nửa lớp đọc là “ gờ ” (phát âm tiếng địa phương). Tôi hướng dẫn các em phát âm: uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát, có tiếng thanh. Sau khi đọc mẫu, tôi đã gọi 4 em đọc đúng, to, rõ của lớp cho các em đọc trước, các em còn lại chú ý nghe để các em sửa theo cho đúng. Dần dần tất cả các em đọc được. Cũng với biện pháp đó tôi hướng dẫn các em các âm khác: d, đ, k, h, v, tr, … - Việc sửa chữa này cho thấy tầm quan trọng của người giáo viên trong quá trình giảng dạy. Không những phải đọc đúng, phát âm chunn, hay mà người giáo viên còn phải biết quan sát, phân tích đối tượng học sinh để có cách giúp đỡ kịp thời. Đồng thời, giáo viên còn phải biết kết hợp giữa cái giống và khác nhau của những âm đang học và âm đã học tạo ra sự phân biệt hay cách phát âm tương đồng. - Trong quá trình dạy âm mới tôi luôn tìm những âm đã học ở tiết trước cho các em so sánh để giúp học sinh phân biệt tìm điểm giống nhau và khác nhau của âm để các em khắc sâu và dễ nhớ. Tôi cho học sinh cả lớp học âm cho thật vững. Các em nắm vững cấu tạo của từng âm, không thuộc lòng. - Khi dạy học sinh phát âm, nếu ta phát âm tốt và biết hướng dẫn phát âm thì học sinh có thể bắt chước mà phát âm lại không khó lắm. Vì vậy, muốn học sinh phát âm lại đúng thì ta phải luôn điều chỉnh để mình đọc đúng, hay hơn và luôn ý thức trau chuốt giọng đọc của mình thành thạo và lưu loát để dạy các em phát âm tốt. - Ở lớp tôi có một bảng phụ, khi học xong âm nào, tôi ghi chữ đó vào bảng phụ, cho từng em lên đọc lại tất cả các âm đã học, học sinh đọc đi đọc GV: Nguyễn Thị Diệu An 7 Sáng kiếến kinh nghiệm lại nhiều lần các âm đã học trong giờ ôn tập, truy bài đầu giờ để các em nhớ âm. Ví dụ: Bảng phụ tôi ghi e, b, ê, v, l, h, o, c, … - Vào giờ trống hay trước giờ học, tôi cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chậm, cho các em đọc chậm lên bảng phụ đọc lại các âm đã học rồi cho các em ôn đi ôn lại để các em nhớ âm. Nhờ thế mà những em hay quên âm do đọc đi đọc lại nhiều lần mà các em nhớ âm đã học. Biện pháp trên tuy không khó nhưng khi thực hiện giáo viên phải nhiệt tình chỉ bảo, uốn nắn và sửa cho các em kịp thời và quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh. Đặc biệt là phải có tâm: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. 1.2 Phần học vần và tiếng: Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen là nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em nắm vững. Ví dụ: Học vần “ ăm ”: 1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần “ ăm ”: vần “ ăm ” gồm 2 âm: âm “ ă ” đứng trước và âm “ m ” đứng sau. Vị trí âm trong vần: âm “ ă ” đứng trước, âm “m” đứng sau. 2/ Đánh vần vần “ ăm ”:  Hướng dẫn học sinh: âm “ ă ” đứng trước, ta đọc ă trước, âm “ m” đứng sau ta đọc m sau: ă - mờ - ăm.  Đọc trơn vần: ăm Kết hợp dùng bộ chữ học vần dành cho học sinh để ghép vần. Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: “ ă ” và “ m ”. Ghép đúng vị trí : “ ă ” trước “ m ” sau GV: Nguyễn Thị Diệu An 8 Sáng kiếến kinh nghiệm Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần ăm. Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế, nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kĩ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa Tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài tôi cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài. Tôi sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học. 2. Hướng dẫn học sinh cách luyện đọc bài tập đọc: 2.1 Giáo viên đọc mẫu cần chính xác: - Yêu cầu trước tiên là giọng đọc của giáo viên phải chunn, rõ ràng. Bài đọc mẫu của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chunn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. Tôi yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. - Đối với học sinh lớp một, mỗi bài tập đọc tôi đều chép lên bảng để khi tôi đọc học sinh có sự chú ý theo dõi từng chữ của giáo viên đọc hơn, nhờ vậy tránh được trường hợp một số em chỉ giả vờ nhìn vào sách giáo khoa mà không chú ý nghe cô đọc bài. Khi đọc mẫu tôi kết hợp giải nghĩa từ, để học sinh hiểu và dễ nhớ thì sẽ đọc tốt hơn. 2.2. Luyện đọc hiểu từ, cụm từ khó: - Đối với lớp Một dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm, vần. Trong phần này, các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc GV: Nguyễn Thị Diệu An 9 Sáng kiếến kinh nghiệm cần lựa chọn thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm sai do cách phát âm địa phương của từng vùng miền để cho các em luyện đọc thì tôi còn tìm thêm một số từ khó để các em hiểu nghĩa của nó rõ ràng hơn. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này. Ví dụ: Bài “Đầm sen” (sách giáo khoa Tiếng Việt 1- tập 2- trang 91 ) Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau: “xanh mát, cánh hoa, xòe ra, ngan ngát, thanh khiết” Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng, đó là các từ ngữ: “mặt đầm, vươn cao, xanh thẫm, …” Sở dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy các năm trước vẫn còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. Cụ thể như: Từ học sinh đọc nhầm: Mặt đầm mặt đằm Vươn cao vương cao Xanh thẫm xanh thnm - Tôi để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy khó đọc trong khi phát âm. - Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, tôi kết hợp phân tích tiếng để giúp học sinh nhớ lại những âm, vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần dành nhiều thời gian gọi những học sinh đọc còn chậm, xong để giúp những em này đọc được đúng thì việc gọi một số em đọc tốt đọc thật to, thật chính xác là một việc làm không thể thiếu bởi vì các em đọc chậm sẽ bắt chước các bạn để đọc và như vậy các em sẽ có ý thức tự sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường cho các em nhận xét nhau về cách đọc đúng hay sai, nếu sai thì sai ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, tôi kịp thời uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có tuyên dương, động viên các em kịp thời. GV: Nguyễn Thị Diệu An 10 Sáng kiếến kinh nghiệm - Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết luyện tập Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp các em phát âm tốt hơn. Ví dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu + Bài tập 1: Điền l hay n ...o…..ắng , …o…ê , ….í….ẽ , ….áo…ức + Bài tập 2: Điền r, d, gi ... ộn….ã , …..ập ….ờn , tháng…..iêng - Phần luyện đọc tôi hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em hoàn thành tốt các bài tập. 2. 3. Giáo viên hướng dẫn luyện đọc củng cố và nâng cao (đọc diễn cảm): - Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, tôi dành thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này tôi cho học sinh luyện đọc cá nhân - tôi chú ý tới các em đọc chậm để em đó được tham gia đọc - tôi động viên khích lệ kịp thời. Trong quá trình học sinh đọc tôi quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Đối với bài thơ cần cho các em đọc nhiều. Một tiết học tập đọc chỉ khoảng có 35 – 40 phút vì vậy để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học, học sinh phải đọc trước bài ở nhà. Tôi có sự chunn bị chu đáo, phải đưa ra các tình huống có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay. Muốn vậy tôi phải luôn trau dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong giờ học, tôi chỉ là người hướng dẫn, tổ chức để học sinh tự tìm ra kiến thức. Bên cạnh đó tôi hướng dẫn cho học sinh đọc diễn cảm bằng cách cho học sinh nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm hay hóa thân vào nhân vật, ... Tuy nhiên, đọc diễn cảm không phải là yêu cầu bắt buộc với học sinh lớp Một nên chỉ cần rèn cho các em kĩ năng đọc đúng là chủ yếu. Đối với học sinh có khả năng tốt thì chúng ta sẽ tiến hành giúp cho các em phát huy khả năng của mình. GV: Nguyễn Thị Diệu An 11 Sáng kiếến kinh nghiệm 2.4. Cần chú ý cho học sinh đọc đúng các dạng bài tập đọc: Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài: - Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng. - Dạng văn xuôi. Cụ thể là trong 31 bài đọc thì có: - 17 bài dạng văn xuôi. - 14 bài dạng thơ. * Biện pháp đọc đúng dạng văn xuôi: - Tương tự như ở thơ, tôi chú trọng rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghỉ hơi ít ở dấu phny, nghỉ hơi lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài hoặc do chính tôi đưa ra. Sau đó yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, rồi gọi học sinh nhận xét. Đối với học sinh lớp một, giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào các tiếng, từ, dấu câu. Ví dụ: Bài “Trường em” (sách giáo khoa Tiếng Việt 1- tập 2- trang 46) Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt, nghỉ hơi là: “Ở trường / có cô giáo hiền như mẹ, / có nhiều bè bạn thân thiết như anh em.//” Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên (vì đây là bài đầu tiên trong chương trình tập đọc nên tôi hướng dẫn luôn cách đọc). GV: Nguyễn Thị Diệu An 12 Sáng kiếến kinh nghiệm - Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì tôi tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn giúp tôi kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp. Ngoài ra, để tránh tình trạng các em đọc vẹt, đọc thuộc lòng tôi cho các em đọc đảo trật tự từ, câu trong bài. * Biện pháp đọc đúng dạng thơ: - Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từng từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa chỉ đọc theo quán tính của nhạc thơ. Học sinh không tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn. Ví dụ: Bài “Tặng cháu” (sách giáo khoa Tiếng Việt 1- tập 2- trang 49) Vở này / ta tặng cháu yêu ta Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là Mong cháu / ra công mà học tập Mai sau / cháu giúp nước non nhà. Học sinh sẽ được luyện đọc từng dòng thơ rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài. Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc không bị quên. Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn cho các em nhấn giọng ở những từ cần thiết, đọc với giọng chậm rãi, nhẹ nhàng. Qua đó, các em sẽ cảm nhận được cái hay cái đẹp của thơ. GV: Nguyễn Thị Diệu An 13 Sáng kiếến kinh nghiệm - Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi để học sinh nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài thơ của lớp một thường là ngắn nên công việc này cũng không chiếm quá nhiều thời gian trong tiết dạy). Nếu học sinh ngắt giọng đúng giáo viên công nhận ngay và cho các em đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh ngắt giọng chưa đúng thì giáo viên sửa lại cho học sinh. Ví dụ: Bài “Kể cho bé nghe” (sách giáo khoa Tiếng Việt 1- tập 2- trang 112) Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em mỗi em đọc 2 dòng thơ cho trọn một ý (ví dụ: em thứ nhất đọc: “Hay nói ầm ĩ/ Là con vịt bầu”; em thứ hai đọc: “Hay hỏi đâu đâu/ Là con chó vện”). Cứ như thế cho đến hết bài. Đọc với giọng vui, tinh nghịch, nghỉ hơi lâu sau các câu chẵn (số 2, 4, ...). 3. Cần lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp: Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là tối ưu, tôi sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học: 3.1 Phương pháp đàm thoại, vấn đáp: Tôi đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc. Khi sử dụng phương pháp này, tôi dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Tôi ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày. 3.2 Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh: Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm như em Ngọc Hân, em Trúc Nhi để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với các em đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn GV: Nguyễn Thị Diệu An 14 Sáng kiếến kinh nghiệm khởi hơn. Còn đối với các em chậm tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở nhà”. Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc chậm lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô. Tôi dành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi (nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi) theo đúng tinh thần thông tư 22. 3.3. Phương pháp học nhóm: Trong quá trình giảng dạy, tùy theo từng bài mà tôi có cách chia nhóm phù hợp nhằm tạo sự hứng thú trong học tập của các em, mỗi nhóm đều có học sinh đọc tốt và đọc chậm. Trong nhóm tổ chức cho từng em lần lượt đọc và sửa sai cho nhau. Cụ thể chia nhóm luyện đọc trong giờ học, ngoài giờ học cũng như lúc ra chơi, đầu giờ học hay ở nhà (nhóm những em ở gần nhà). Dùng biện pháp này cùng lúc được nhiều em luyện đọc. Ngoài giờ học các em sẽ tự kiểm tra giúp nhau rèn đọc. Trong hoạt động nhóm, những em nhút nhát như em Trúc Nhi, em Duyên sẽ mạnh dạn hơn. Ở biện pháp này tôi chú ý quan sát và quản lí tốt các em có như thế hiệu quả mới cao. 3.4. Phương pháp “Trò chơi học tập”: Đây là một trong những phương pháp tạo hứng thú trong lúc rèn học sinh đọc. Bằng cách tổ chức thi đua chơi trò chơi có thưởng bằng cách luyện đọc nhanh và chính xác được thực hiện trong giờ tự học. Tôi thường viết cho các em một đoạn văn, đoạn thơ không có trong sách giáo khoa và yêu cầu các em tự luyện đọc trong vòng 2 phút. Em nào đọc đúng, đọc trôi chảy sẽ nhận được những phần thưởng từ tôi. Qua đó hiệu quả rèn luyện chất lượng đọc cho các em ngày càng được nâng cao. Các em đọc chậm cũng cải thiện được những khó khăn ban đầu và có sự chuyển biến tốt hơn qua các lần rèn luyện. 4. Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp: GV: Nguyễn Thị Diệu An 15 Sáng kiếến kinh nghiệm Muốn học sinh học chăm ngoan, ngày càng tiến bộ, thì trước hết phải có sự phối kết hợp chặt chẽ lâu dài, giữa nhà trường và phụ huynh học sinh. Vì thế mà công tác chủ nhiệm lớp của người giáo viên là hết sức quan trọng. Ngay từ đầu năm học, khi họp phụ huynh học sinh tôi đã tạo được mối liên hệ và phối hợp giữa nhà trường và gia đình thông qua số điện thoại của cha mẹ các em. Cũng trong cuộc họp, tôi đã nêu cho tất cả phụ huynh thấy được tầm quan trọng của đồ dùng học tập là những công cụ hỗ trợ để giúp các em học tốt. Vì vậy tất cả phụ huynh đều đồng lòng nhất trí trong việc trang bị đầy đủ đồ dùng học tập cho các em. Đối với những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như em Gia Hân, Bảo tôi tiến hành liên hệ, đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường, Chi hội khuyến học có biện pháp để giúp các em như: hỗ trợ sách, vở, dụng cụ học tập còn thiếu đảm bảo những điều kiện học tập cơ bản cần có để các em có thể tiếp thu bài học. Việc kiểm tra cách bảo quản sách, vở, nhắc nhở các em bao bìa, dán nhãn cũng là quá trình chunn bị tốt cho tiết học, rèn luyện cho các em tính cnn thận trong quá trình học tập cũng là công tác thường xuyên mà tôi hướng đến cho các em. Mối liên hệ được duy trì thường xuyên nhằm tạo ra sự quan tâm nhiều hơn từ phía phụ huynh đến việc học tập của con em mình, nhất là trong việc nhắc nhở các em cách đọc, cách học, cũng như điều chỉnh phát âm theo tiếng phổ thông được thầy cô giảng dạy trong nhà trường. Đó là cách các em tự rèn luyện, tự điều chỉnh cách đọc, cách phát âm của mình dần hình thành nên thói quen phát âm đúng, đọc đúng, nói đúng từ ngữ trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra công tác duy trì sĩ số hàng ngày cũng được sự thống nhất giữa phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm. Không giải quyết các trường hợp xin nghỉ vì lí do không chính đáng. Bên cạnh đó tôi luôn quan tâm động viên các em, khuyến khích các em cố gắng học tập. Tạo ra mối quan hệ tốt giữa học sinh đọc chậm và những học sinh đọc tốt. Để tránh tình trạng các em đọc tốt tự cao, em đọc chậm mặc cảm mà làm cho các em đọc tốt phải luôn đoàn kết giúp đỡ các em đọc chậm, em đọc chậm thì phải cố gắng vươn lên, như thế các em sẽ ngày càng thích thú GV: Nguyễn Thị Diệu An 16 Sáng kiếến kinh nghiệm học hơn và lớp học sẽ ngày càng tiến bộ. Từ đó xây dựng cho các em tình đoàn kết, biết yêu thương và biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đây cũng là mục tiêu quan trọng trong quá trình xây dựng nên nhân cách học sinh. 5.Tổ chức kiểm tra, đánh giá: Hằng tuần tôi kiểm tra thi đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm cho từng đối tượng. Tuần 1 : Học sinh hoàn thành và học sinh hoàn thành tốt Tuần 2 : Học sinh chưa hoàn thành Thời gian đầu, cô giáo và học sinh làm ban giám khảo kể cả học sinh chưa hoàn thành, khi được làm ban giám khảo các em rất thích, điều đó khiến các em đọc tốt hơn, trôi chảy hơn. (đọc tốt hơn để chấm điểm các bạn). 6. Rèn cho học sinh các hình thức đọc thầm, đọc hiểu và đọc thành tiếng: - Đọc thầm: Học sinh nhìn liếc mắt đọc và phân tích cấu tạo vần, đọc trong trí nhớ. Tôi yêu cầu học sinh nào đọc xong trước thì giơ tay để giáo viên kiểm tra tốc độ đọc của học sinh. - Đọc hiểu: Hướng dẫn học sinh kĩ năng nhận biết từ mới, từ khó hiểu chia một số từ thành hai cột đảo lộn trật tự cho học sinh đọc và ghép lại để từ có nghĩa. - Đọc thành tiếng: Rèn cho học sinh cách phát âm tự tin, biết lấy hơi khi đọc, đọc to, rõ vừa đủ cho cả lớp nghe. Rèn cho các học sinh phương pháp đọc cá nhân, nối tiếp, đọc nhóm theo dãy bàn và đọc cả lớp. 7. Phụ đạo học sinh chưa hoàn thành : Đầu năm học, hơn một tháng tôi bắt tay ngay vào việc phân loại học sinh theo hướng phân hóa đối tượng học sinh, để có hướng phụ đạo, bồi dưỡng riêng biệt đồng thời cũng thể hiện rõ hơn trong kế hoạch bài học để giúp việc giáo dục tốt hơn. Đối với học sinh mới vào học chưa qua mẫu giáo nên có nhiều thiệt thòi, khả năng tiếp thu cũng hạn chế. Thế là tôi rèn cho các em đọc lại các âm chưa biết, các tiếng chưa đọc được, rồi rèn chữ viết cho các em để các em quen dần với các con chữ, âm, vần. Cho các em ôn đi ôn lại GV: Nguyễn Thị Diệu An 17 Sáng kiếến kinh nghiệm nhiều lần vào các buổi học trong 15 phút đầu giờ mỗi ngày. Cho các em tham gia vào hoạt động nhóm để các bạn đọc tốt giúp đỡ bạn đọc còn yếu trong hoạt động học mau tiến bộ hơn. Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về sự tiến bộ của các em để tạo điều kiện giúp đỡ các em ở nhà. Tránh thái độ phân biệt đối xử. Đối với các em chưa đọc được tôi tranh thủ vào đầu giờ các buổi chiều đi sớm hơn để kèm giúp cho các em và động viên các em học nhiều hơn nữa. IV. Hiệu quả đạt được: * Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến: Trước khi nghiên cứu thì kết quả môn Tiếng Việt nhất là phần đọc của học sinh chưa cao nhưng khi nghiên cứu thì kết quả đạt khả quan hơn. Mang lại nhiều niềm vui cho học sinh, và học sinh ngày càng tự tin hứng thú trong học tập. Học sinh đọc ngày càng tiến bộ hơn, các em cảm thấy ham học hơn không chỉ ở môn Tiếng Việt mà còn tất cả các môn học khác nữa. * Lợi ích thu được: Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên giúp học sinh lớp Một đọc tốt. Tôi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau: Số học sinh đọc tốt tăng dần : Sĩ số Đầu năm Số lượng Tỉ lệ Cuối học kì I Cuối học kì II Số lượng Số lượng Tỉ lệ Tỉ lệ Năm học Học sinh 2015- 30/18 4 13,3% 10 33,3% 16 53,3% 28/13 5 17,9% 13 46,4% 18 64,3% 33/17 7 21,2% 15 45,5% 23 69,7% 2016 20162017 20172018 Biểu đồ thống kê số liệu học sinh lớp 1 đọc tốt qua các giai đoạn GV: Nguyễn Thị Diệu An 18 Sáng kiếến kinh nghiệm Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy phương pháp tôi thực nghiệm đã đạt được một số kết quả đáng kể. Thực tế trên lớp tôi dạy, học sinh đọc được các âm một cách chính xác, rõ ràng, ... các em tiến bộ hẳn lên không những ở phân môn Tập đọc mà còn ở những môn học khác nữa.. Từ kết quả trên, tôi chưa dám hoàn toàn khẳng định những phương pháp trên là tối ưu, nhưng tôi nhận thấy nếu phương pháp của tôi được áp dụng trong thời gian dài trong điều kiện yêu cầu thực tế cơ bản hiện nay thì chắc chắn sẽ giúp cho các em lớp Một đọc tốt hơn. V. Mức độ ảnh hưởng: -Đối với gia đình: Động viên phụ huynh học sinh cần quan tâm giúp đỡ thường xuyên kiểm tra việc học của con em. Cố gắng sắp xếp công việc dành thời gian luyện đọc thêm cho các em ở nhà.. -Đối với giáo viên: Phân loại học sinh từ đầu năm học. Tổ chức nhiều trò chơi học tập nhằm gây hứng thú, không khí phấn khởi sôi nổi, hòa đồng trong học tập. Động viên, khuyến khích kịp thời, đúng lúc. Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp khác, áp dụng đổi mới phương pháp. Cần tận tụy, nhiệt tình trong công tác, cần quan tâm gần gũi giúp đỡ những em chưa hoàn thành. -Đối với học sinh: Tránh lười biếng, ham chơi, tạo nề nếp tốt trong học tập, ham thích đến lớp. Tạo sự học hỏi, mạnh dan, không biết thì nói, không hiểu thì hỏi. Kiên trì nhẫn nại trong học tập nhất là khi học môn Tiếng việt. -Đối với tổ chuyên môn: cần trao đổi kinh nghiệm trong công tác giảng dạy ở các lần sinh hoạt tổ chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. VI.Kết luận: Trong cuộc sống hằng ngày, dù ở môi trường nào con người cũng cần phải có hoạt động giao tiếp. Trong xã hội hiện đại, hoạt động giao tiếp lại càng quan trọng hơn. Để giao tiếp tốt mỗi người cần phải có kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói). Muốn có một lớp người trong tương lai năng GV: Nguyễn Thị Diệu An 19 Sáng kiếến kinh nghiệm động, linh hoạt trong giao tiếp thì ngay từ bây giờ chúng ta phải bồi dưỡng cho mầm non của đất nước, đặc biệt đối với cấp Tiểu học. Dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với những người đi học. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Có đọc tốt thì mới phát triển tốt các kĩ năng viết, nghe, nói. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là công cụ để học tập các môn học khác, đồng thời tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt cuộc đời, đó là một khả năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Những biện pháp mà tôi đã sử dụng trong quá trình dạy học chỉ là một sáng kiến nhỏ. Như ta biết kiến thức là vô hạn, những gì mình biết chỉ là hạt cát rất nhỏ. Tuy nhiên, tôi cũng đã góp được một phần lớn vào việc dạy học phần luyện đọc cho học sinh nhất là học sinh chưa hoàn thành lớp Một. Học sinh nằm ở khối lớp cần chunn bị đầy đủ về mặt kiến thức để chunn bị học tốt cho các lớp trên. Đó là những thành công của tôi. Tôi mong muốn được chia sẻ, nhưng cũng mong muốn các bạn thông cảm với những gì tôi còn thiếu sót. Để chúng ta luôn mãi chia sẻ những kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp trồng người của mình. Trên đây là “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một trường tiểu học A Đào Hữu Cảnh đọc tốt ”của bản thân tôi nên cần có nhiều đóng góp từ phía đồng nghiệp để giúp cho bản thân ngày càng được hoàn thiện và giúp học sinh học tập tiến bộ hơn. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến GV: Nguyễn Thị Diệu An Người viết sáng kiến 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan