Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp giúp giáo dục học sinh cá biệt đạt hiệu quả ở trường tiểu ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giúp giáo dục học sinh cá biệt đạt hiệu quả ở trường tiểu học

.DOC
39
262
147

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân MỤC LỤC I. Đặt vấn đề. Trang 2 1. Lí do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu của SKKN 3 3. Đối tượng nghiên cứu 4 4. Phạm vi nghiên cứu 4 II. Giải quyết vấn đề 4 1. Cơ sở lí luận 4 2.Thực trạng 6 3. Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá bịêt 8 4.Các biện pháp khắc phục 10 4.1.Tìm hiểu thông tin cá nhân học sinh 11 4.2.Lập kế hoạch cho công tác chủ nhiệm và thực hiện kế hoạch 13 4.3. Xác định nhiệm vụ, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp 14 4.4. Công tác phối hợp với phụ huynh học sinh, chính quyền địa phương, BGH nhà trường 18 4.5. GVCN biết chấp nhận và yêu thương, tạo niềm tin đối với học sinh 19 4.6. Nâng cao chất lượng về học lực của học sinh 20 4.7. Nâng cao chất lượng đạo đức cho học sinh 25 5. Hiệu quả 29 III. Kết luận 30 IV. Đề xuất, kiến nghị 31 Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 1 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT ĐẠT HIỆU QUẢ I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Mục tiêu của giáo dục hiện nay cũng như bất cứ giai đoạn phát triển nào của xã hội là giáo dục học sinh toàn diện về các mặt: Học lực, hạnh kiểm, văn, thể, mĩ và kĩ năng cơ bản của con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Đó là tạo ra những con người hữu ích cho xã hội, những con người và thế hệ có tư cách đạo đức, có kiến thức và kĩ năng, những con người có sức khoẻ, tinh thần học tập cầu tiến, tính năng động sáng tạo trong công việc, có ý thức tổ chức và kỉ luật, có ý thức tập thể cộng đồng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, có ý thức bảo vệ môi trường, có nếp sống lành mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nói chung mong mỏi lớn nhất của ngành là đào tạo ra những thế hệ có đầy đủ trí tuệ, thể chất sức khỏe và nghị lực vượt khó. Người trực tiếp đào tạo những con người như thế không ai khác chính là giáo viên, giáo viên giảng dạy bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lớp. Người giáo viên giỏi là người giáo viên phải hết sức quan tâm đến việc giúp học sinh tiếp thu kiến thức, hình thành tư cách và đạo đức cho hoc sinh. Là giúp học sinh khám phá nguồn kiến thức về tự nhiên, ứng xử với người thân, bạn bè và trong cộng đồng… Tuy nhiên công tác chủ nhiệm trong nhà trường hiện nay gặp phải không ít khó khăn trong việc quản lý, giáo dục học sinh sa sút về đạo đức, thiếu ý thức trong việc học tập, đặc biệt là những học sinh cá biệt, chậm tiến. Đó là công tác giáo dục học sinh cá biệt. Công tác giáo dục học sinh cá biệt là công tác không thể thiếu của người giáo viên đứng lớp. Học sinh cá biệt, những đối tượng này chỉ chiếm số ít của lớp nhưng đối với vai trò của giáo viên chủ nhiệm thì đây là vấn đề tương đối khó khăn trong công tác chủ nhiệm không khéo sẽ làm ảnh hưởng đến những học sinh khác. Từ đó để làm tốt công tác giáo dục học sinh cá biệt thì đòi Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 2 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân hỏi người giáo viên không những giỏi về chuyên môn mà còn giỏi về công tác chủ nhiệm, giàu lòng nhân ái, vị tha, kiên trì, nhiệt tình, biết tôn trọng nhân cách học sinh, được các em tin yêu và cha mẹ học sinh tín nhiệm, có sức cảm hóa thuyết phục, có bản lĩnh để xử lý kịp thời các tình huống sư phạm đa dạng, đối xử công bằng trong nhận xét đánh giá đối với học sinh. Như vậy nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của học sinh. Lâu nay các thầy cô giáo vẫn trăn trở rất nhiều về tình hình học sinh cá biệt ở các lớp ngày một tăng. Làm thế nào để giúp được học sinh trở nên ngoan ngoãn, có ý thức học tập, qua quá trình giảng dạy, làm công tác chủ nhiệm nhiều năm học, bằng vốn kinh nghiệm của mình tôi xin mạnh dạn đưa “ Một số biện pháp giúp giáo dục học sinh cá biệt đạt hiệu quả”. 2. Mục đích nghiên cứu của SKKN Với đề tài “Một số biện pháp giúp giáo dục học sinh cá biệt đạt hiệu quả”, bản thân tôi muốn đưa ra một số biện pháp giáo dục tích cực để giúp cho những học sinh cá biệt từng bước thay đổi , nhận thức được sai lầm của mình và sẽ có thái độ học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết tôn trọng bản thân mình và xác định được sự quan trọng của việc học. Giúp cho các em thấy được cha mẹ có công lao rất lớn, đã vất vả nuôi con ăn học. Giúp các em nhận ra sự vất vả và công lao to lớn của thầy cô trong công việc truyền đạt kiến thức và giáo dục đạo đức nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Từ đó các em sẽ hiểu và biết làm gì để không phụ lòng mong mỏi của bố mẹ, thầy cô giáo. Bên cạnh đó phần nào giúp cho các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với công tác chủ nhiệm cũng như nghề nghiệp của mình. Đối với học sinh cá biệt, người giáo viên chủ nhiệm phải biết nhìn bằng con mắt tình thương và sự thông cảm, thật sự xem học sinh như người thân của mình. Giáo viên nên có cái hiền từ, bao dung của người mẹ người cha, cái gần gũi cảm thông của người anh người chị và cái thân thiết của một người bạn. Nghề dạy học là một nghề thiêng liêng cao cả, không phải ai cũng làm được Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 3 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói“ Nghề dạy học là nghề cao cả nhất trong những nghề cao cả”. Giáo viên xác định được “tất cả vì đàn em thân yêu” để xây dựng nhà trường thật vững mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục, tăng học sinh khá giỏi, hạ thấp học sinh yếu kém, giảm tỷ lệ học sinh nghỉ bỏ học và góp phần xây dựng môi trường học tập “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. 3. Đối tượng nghiên cứu Các phương pháp giúp giáo dục học sinh cá biệt đạt hiệu quả. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được áp nghiên cứu và áp dụng tại lớp 4 tôi chủ nhiệm trường TH Tân Hiệp trong những năm qua, đặc biệt là từ năm học 2010 – 2011 đến nay. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Chúng ta ai cũng biết, lứa tuổi học sinh Tiểu học đặc điểm tâm sinh lý là tâm hồn các em còn hết sức trong sáng hồn nhiên như trang giấy còn mới tinh. Tâm hồn các em vẫn luôn luôn đa cảm, dễ bị xúc động. Cần tránh cho các em phải đối mặt với những nghịch cảnh và bất hạnh, những thực tế quá phũ phàng, những hình ảnh dã man bạo lực trên sách báo, truyền hình, những biến cố quá gay cấn ngoài đường phố, trong gia đình, nơi trường học, vì sẽ gây tổn thương nơi các em, để lại trong tâm trí các em vết sẹo không bao giờ phai nhạt. Mặt khác, bên cạnh sự đa cảm, các em vẫn còn thiên nhiều về giác quan, thích sờ tận tay nhìn tận mắt, nên các em rất vui thích khi được thưởng cụ thể bằng vật chất hơn là khen ngợi tuyên dương suông. Các em rất hãnh diện thấm thía khi được người lớn khéo léo góp ý khích lệ hơn là phê bình chê trách hay nổi cáu quát tháo. Chúng ta thấy, nhà trường đã áp dụng những cách khen thưởng khá cụ thể như bông hoa điểm 10, sách truyện làm phần thưởng cuối năm… Do vậy, đây là những cách khen thưởng có vẻ vật chất nhưng lại hàm ý về chiều sâu tinh thần nhiều lắm. Ở lứa tuổi này, người sống với các em phải là một "bề Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 4 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân trên" hiểu theo nghĩa rộng nhất, nghiêm minh mà quảng đại, công bình mà bao dung, vẫn luôn đòi hỏi cao mà lại biết khích lệ nâng đỡ. Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh đó, các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là khủng hoảng về ý thức cử động. Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đùa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi táy máy, hì hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức mình. Trong thực tế, người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào, lại cho rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức vóc lẫn tâm lý, nên thường la rầy ngăn cấm các em, vô tình đã đẩy các em sớm rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn, rất có hại về lâu về dài. Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý tưởng, các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc mắc. Dù vậy, các em chưa thể tập trung tư tưởng lâu để kịp phân tích vấn đề và quan sát một cách kiên nhẫn, các em cũng chưa thể tự mình biết cách học hỏi sao cho đúng mức nếu không được người lớn hướng dẫn dưới dạng "học mà chơi" đầy hấp dẫn. Ở điểm này, giáo viên phải là người vừa có kiến thức quảng bác, lại vừa có tâm hồn sâu sắc để truyền đạt tri thức, gợi mở sáng kiến và nhất là vun đắp cho các em những tâm tình nhân ái vị tha, vui tươi và dễ thương, đúng với độ tuổi các em. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến học sinh với nhiều hình thức khác nhau có thể lôi kéo học sinh sa ngã vào các tệ nạn bất cứ lúc nào và đã có không ít học sinh ngoan, hiền, học giỏi đã vô tình trở thành học sinh hư, cá biệt thường xuyên vi phạm nội quy nề nếp, chửi thề, nghỉ, bỏ học, cúp tiết chơi game online, sa sút về đạo đức, vô lễ với giáo viên, sa sút về học lực và đặc biệt nghiêm trọng đó là tình trạng bạo lực học đường ngày càng xảy ra nhiều ở cả học sinh nam và nữ… Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 5 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân Chính những điều này là mối quan tâm không chỉ của giáo viên mà của toàn xã hội. Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc làm ăn, buôn bán, phát triển kinh tế nên thời gian dành cho việc quan tâm, giáo dục con cái không nhiều, gần như giao phó cho nhà trường và xã hội, họ chỉ nghĩ cung cấp tiền cho con ăn học là đủ mà không thấy được rằng các em đang thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo. Nhiều gia đình lại hay có mâu thuẫn, cha mẹ thường xuyên cãi vã, đánh nhau; li hôn hoặc mồ côi cha mẹ, ở xa gia đình… 2. Thực trạng Học sinh cá biệt là học sinh có cá tính đặc biệt và những học sinh cá biệt này thường có hoàn cảnh đặc biệt. Học sinh cá biệt là những thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo để chỉ những học sinh có biểu hiện kém về đạo đức, lười nhác trong học tập, hay quay cóp trong học tập, nói dối cha mẹ, thầy cô, doạ nạt bạn bè, không thích tham gia các hoạt động tập thể; càn quấy, ý thức tổ chức kỉ luật kém; thích “chơi trội”, ham chơi, lười học, không chấp hành nội quy nhà trường, thêm vào đó là sự lôi kéo của bạn bè về phía mình nhằm thoả mãn nhu cầu tâm lí bị ức chế về hoàn cảnh của bản thân mình. Tuy nhiên, ẩn chứa đằng sau những học sinh có đặc điểm này là một hoàn cảnh rất riêng, một cá tính đặc biệt chưa được phát huy đúng hướng. Mặt tiêu cực của xã hội, sự quan tâm chưa đúng cách của gia đình, hay phương pháp giáo dục chưa phù hợp đều ảnh hưởng rất xấu đến sự hình thành nhân cách của học sinh. Là một giáo viên chủ nhiệm trực tiếp đứng lớp, tính đến nay đã hơn 10 năm trong nghề. Trong suốt quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chủ yếu là con em lao động, cha mẹ làm vườn, rẫy nên ít có thời gian quan tâm đến việc học của con em mình. Hầu hết phụ huynh có trình độ văn hoá thấp nên mức hiểu biết rất hạn chế, mọi vấn đề liên quan đến việc Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 6 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân học tập của con em mình chỉ trông chờ và giao phó cho giáo viên chủ nhiệm. Chính vì vậy vai trò của người giáo viên đứng lớp quả thật rất vất vả. Qua kế hoạch từng tháng giúp tôi theo dõi, phát hiện được những học sinh xuất sắc, những học sinh cá biệt để từ đó kịp thời có biện pháp giáo dục các em và kết quả là có 4 học sinh đặc biệt cần chú ý hơn đối với những em bình thường. Đó là mhững em cá biệt học yếu. Những học sinh cá biệt, học yếu được chia thành các loại sau: * Học sinh thứ nhất ( HuỳnhTrần Phú): Học sinh cá biệt vì do học lực yếu. Do em bị mất kiến thức cơ bản ở lớp dưới. * Học sinh thứ hai ( Đinh Phương Nam): Cá biệt - học yếu do các em được bố mẹ nuông chiều, ham chơi, lười học không học bài, đi chơi bạn xấu rủ rê sa đà. * Học sinh thứ ba ( Nguyễn Văn Khang): Cá biệt - học yếu do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải phụ giúp thêm cho gia đình. * Học sinh thứ tư ( Lương Tấn Đức): Cá biệt – học yếu do do cha mẹ li hôn, ở với ông bà mà chán nản lười học rồi dần dần bỏ học, tính tình nhút nhát, rụt rè. Ở tất cả các loại học sinh cá biệt trên đều ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và năng lực học tập của học sinh. Nếu chúng ta không kịp thời uốn nắn, giáo dục các em thì dễ dẫn đến các em từ những vi phạm nhỏ đến những việc làm không có ý thức khác và sau này có nguy cơ không tốt cho xã hội vì rất có thể các em sẽ trở thành tội phạm. Tất cả những học sinh bình thường trở thành học sinh cá biệt đều có nguyên nhân của nó, sau đây tôi xin đưa ra một số nguyên nhân cụ thể trực tiếp hoặc gián tiếp đến học sinh làm các em trở thành học sinh cá biệt. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 7 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân 3. Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt Có nhiều nguyên nhân làm cho học sinh trở thành học sinh cá biệt nhưng ở đây tôi chỉ xin nêu một số nguyên nhân tác động trực tiếp đến học sinh, làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và làm hạn chế đến năng lực học tập của các em: a. Từ gia đình. - Lứa tuối các em rất nhạy cảm nên gia đình nào có bố mẹ hay bất hoà, cãi vã, không có hạnh phúc các em dần dần bị ảnh hưởng tâm lí như nhút nhát, sống khép mình, buồn phiền, ít nói. Nặng hơn các em có thể bị trầm cảm, do đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học, từ đó học lực của các em sẽ giảm sút dẫn đến chán học. - Một số học sinh lại có bố mẹ li hôn nên hụt hẫng về mặt tình cảm và ở với ông bà, thiếu thốn sự quan tâm chăm sóc, nhắc nhở của bố mẹ nên việc học của các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều. - Do sự buông lỏng, thiếu trách nhiệm và sự quan taâm cuûa gia đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của các em. - Gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ phải lao động vất vả, không quan tâm đến việc học tập của các em, phó mặc cho nhà trường, có gia đình buộc con cái phải lao động, làm cho các em không có thời gian học tập ở nhà như soạn bài mới, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, lo lắng, sợ sệt khi thầy cô kiểm tra bài cũ… từ đó thua sút bạn bè và phát sinh tâm lí chán học dẫn đến trốn học, bỏ học. - Bố mẹ đều đi làm ăn xa vì lo kinh tế cho gia đình đã phó mặc con cái cho ông bà hoặc anh chị em chăm sóc. Vì vậy nếu các em chưa ý thức tốt về việc học tập, đồng thời bố mẹ không quan tâm, thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên chất lượng học tập bị ảnh hưởng, các em sẽ học tập yếu thua sút bạn bè. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 8 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân - Có gia đình tuy không khó khăn về kinh tế nhưng lo làm giàu, bỏ mặc con cái, không quan tâm đến việc học của các em. Những gia đình này lại nuông chiều các em về vật chất, cho nhiều tiền tiêu vặt khi đến lớp, dần dần sẽ hình thành đức tính không tốt ở các em. - Do hoàn cảnh gia đình một số em rất khó khăn, bố mẹ phải đi làm các em hay nghỉ học để ở nhà trông em do đó các em bị mất kiến thức và trở thành học sinh cá biệt. b. Từ xã hội. - Hiện nay có các dịch vụ giải trí không lành mạnh như internet, phim ảnh bạo lực, bida, tình cảm lứa đôi thể hiện ở trong phim với mức độ quá trớn… là những cám dỗ đã lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trò chơi vô bổ. Các em bị bạn bè xấu lôi cuốn, trốn học để lao vào các trò chơi đó, các hình ảnh bạo lực có ở các trò chơi internet, phim bạo lực làm cho các em dễ dàng bắt chước dần dần làm cho ác em trở thành học sinh hư. c. Từ nhà trường. - Một số giáo viên còn lúng túng chưa tìm ra những biện pháp thích hợp trong việc quản lí giáo dục học sinh; chưa quan tâm đúng mức tới những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt ( những em quá đầy đủ vật chất, được chiều chuộng; ngược lại những em lại có hoàn cảnh khó khăn quá thiếu thốn về vật chất; những em có hoàn cảnh éo le, những em có cá tính bất thường…) Chưa tạo ra môi trường thân thiện khi học sinh đến trường, làm cho học sinh thấy nhàm chns khi đến trường. Một số giáo viên lại “ngại” khi phải xử phạt học sinh cá biệt vì sợ các em bỏ học làm giảm sĩ số của lớp, ảnh hưởng đến chỉ tiêu của trường. Một số giáo viên lại ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm chưa trở thành chỗ dựa tinh thần cho các em mỗi lúc gặp khó khăn, thiếu tâm huyết với nghề, chưa quan tâm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của học sinh. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 9 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân - Một số giáo viên chưa thực sựu quan tâm đến học sinh cá biệt, thường hay sử dụng các biện pháp mạnh như trách mắng các em trước lớp làm cho các em mặc cảm, tự ti dẫn đến chán nản, lười đi học. - Đa số giáo viên chưa thực sự gần gũi với các em nên không nắm bắt kịp thời được tâm tư, nguyện vọng của các em do đó có biện pháp giáo dục không phù hợp. - Ở một số đồng nghiệp khác thì lại cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ, sự nhận thức chưa cao, tư duy còn nông cạn, đối xử thế nào cũng được nên không ít giáo viên đã có những hành động đối xử không đúng với học sinh như: ánh mắt lạnh lùng, lời nói cộc cằn, thô bạo, hành vi mang tính chất áp đặt, bắt buộc… Từ đó đã gây ra ở các em những phản ứng tiêu cực, không tốt rồi dần dần làm cho các em trở thành học sinh cá biệt có đạo đức kém. d. Từ bản thân học sinh. Lứa tuổi học sinh Tiểu học là lứa tuổi, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích tự khẳng định mình... trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều, thậm chí các em còn có suy nghĩ là làm như vậy là không sai. Khi đạo đức kém thì học lực cũng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả, các em kiến thức bị hổng dẫn đến mất căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp làm cho các em mặc cảm đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học và nảy sinh ý định bỏ học. Những em này phát sinh tính xấu là nói dối thường xuyên tìm cách che đậy hoặc chối tội. Chính từ hiện tượng đó đã cho tôi những suy nghĩ là phải tìm biện pháp giúp các em lấy lại kiến thức căn bản, tinh thần học tập và ngoan ngoãn hơn. 4. Các biên pháp khắc phục Từ kết quả thực tế thu được 4 học sinh cá biệt học yếu này, bản thân tôi cũng đã từng sử dụng các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng học sinh cá biệt Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 10 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân như: nhắc nhở, vỗ bàn, đập bàn ghế, bắt chép phạt bài nhiều lần, phạt trực nhật lớp… nhưng tôi thấy không đem lại hiệu quả, các biện pháp cứng rắn dường như phản tác dụng nên khi các em không học bài, làm bài, bỏ học, không làm được bài tập khi ở lớp… tôi đều bình tĩnh để tìm ra hướng giải quyết, tôi đã nhẹ nhàng hơn với học sinh, tăng cường phương pháp kỉ luật tích cực. Thay vì mắng mỏ và dùng hình phạt, khi học sinh vi phạm tôi động viên, khuyến khích, dùng tình cảm bạn bè, lấy nghĩa cô trò, lắng nghe học sinh nhiều hơn. Không khí lớp học từ nặng nề đã trở nên thoải mái, học sinh cũng nghe lời và tự giác nhận lỗi. Có kết quả khả quan nên tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm ở lớp 4/2 trường Tiểu học Tân Hiệp như sau: 4.1. Tìm hiểu thông tin cá nhân học sinh. Ngay từ ngày đầu đón học sinh nhập học, để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp thì người giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước mong, khả năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống, những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh, những thông tin liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia đình của các em. Nên ngay từ đầu năm học, khi được nhận lớp tôi đã tiến hành điều tra hoàn cảnh thực tế để có cơ sở phân nhóm học sinh cho phù hợp với từng biện pháp giáo dục. Tôi sử dụng phiếu thông tin học sinh để điều tra nắm bắt hoàn cảnh học sinh, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức ở các năm trước, phân biệt độ tuổi để nắm được đặc điểm tâm lý lứa tuổi của các em. PHIẾU THÔNG TIN HỌC SINH Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 11 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân Họ tên học sinh:................................................................................................… Sinh ngày………………..tháng ………………….năm………………………… Nơi sinh:………………………………………… ………….Dân tộc:…………. Địa chỉ thường trú:............................................................................................… Thuộc diện ưu tiên, chính sách: ( Thương binh, bệnh binh, liệt sỹ, dân tộc, nghèo, mồ côi )....................................................................................................................... Họ tên cha:…………tuổi……,nghề nghiệp………., số điện thoại………… Họ tên mẹ:……………… tuổi……… ,nghề nghiệp………,số điện thoại…………. Gia đình có bao nhiêu anh chị em, nghề nghiệp của anh chị em: ……………………………………………………………………………………… Đường từ nhà đến trường dài khoảng:…………….mét. Sống với ai?.............................................. Nguồn thu nhập chính của bố mẹ hay người nuôi dưỡng: ………………đồng/tháng. Ước mơ sau này của em là gì?.......................................................................................... Ngoài giờ học em thường làm gì để giúp đỡ gia đình?................................................... Trong học tập và cuộc sống em gặp phải khó khăn gì?.................................................... Em chơi thân với bạn nào? Bạn đó học lớp mấy?............................................................ Kết quả học tập và rèn luyện năm học 2011 – 2012 của em Học lực Hạnh kiểm Thi lại Điểm KTCN Xếp loại Xếp loại môn Ghi chú Phiếu thông tin này được phát cho học sinh trong tuần đầu của năm học, học sinh sẽ điền thông tin, học sinh điền xong tôi đóng thành cuốn để nắm rõ thông tin học sinh trong năm học. Dựa vào phiếu thông tin này giúp tôi dễ dàng phân loại học sinh theo từng địa bàn, từng nhóm đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch và biện pháp giáo dục cho phù hợp. 4.2. Lập kế hoạch cho công tác chủ nhiệm lớp và thực hiện kế hoạch: Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp dạy chữ và dạy người, hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 12 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở, là người quyết định chất lượng cao các hoạt động giáo dục của lớp khi và chỉ khi giáo viên chủ nhiệm có sự định hướng, tư vấn, chia sẻ kịp thời trong quá trình tự rèn luyện của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm đối với lớp học cần phải hiểu rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc lập kế hoạch chủ nhiệm lớp. Kế hoạch chủ nhiệm nhằm xác định một cách chính xác cái đích mà lớp muốn đi đến và cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được điều đó. Để xây dựng được kế hoạch chủ nhiệm tốt, tôi xác định rõ ràng định hướng tương lai cần đạt của lớp học. Ví dụ: Lập kế hoạch chủ nhiệm cho năm học. Đơn vị…. CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM …………….. Độc lập….. ……….., ngày tháng năm KẾ HOẠCH CHỦ NHIỆM Năm học 2012 -2013 1. Đặc điểm lớp học: - Tổng số học sinh trên nữ:……. a. Những thuận lợi. - Lớp có những điểm mạnh nào? - Cá tính, nhân cách của cán bộ lớp, học sinh… có tính cách gì nổi bật? - Sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường…. - Sự quan tâm của lãnh đạo địa phương… * Những thuận lợi nêu trên sẽ đem lại những lợi thế gì cho lớp chủ nhiệm? b. Khó khăn. - Lớp chủ nhiệm có những điểm yếu nào? - Địa phương, gia đình học sinh, lớp học có ảnh hưởng gì lớn đến lớp chủ nhiệm? Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 13 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân - Quán games onlie, bida, nạn bạo lực học đường … có ảnh hưởng như thế nào đến lớp chủ nhiệm? 2. Những chủ tiêu phấn đấu. 1. Duy trì sĩ số ….%. VSCĐ đạt tỉ lệ: A…..%, B…% 2. Lớp đạt danh hiệu:………………Chi đội đạt danh hiệu: ……………….. 3. Học sinh đạt danh hiệu: Giỏi……...em. Tiên tiến:……..em 4. Đăng kí xếp loại về hạnh kiểm: Thực hiện đầy đủ……..%. 5. Đăng kí xếp loại về học lực: Giỏi…em, Khá…em, TB…em, Yếu…em Biện pháp phải cụ thể, hiệu quả, mang tính giáo dục cao và được sự nhất trí của tập thể lớp. 3. Đề xuất với cấp trên Nêu những đề xuất cụ thể nhằm hỗ trợ tốt cho công tác chủ nhiệm. Duyện BGH GVCN Dựa vào kế hoạch năm học này tôi lên kế hoạch cho từng tuần, tháng, học kỳ cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong quá trình thực hiện tôi vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt, sáng tạo, khéo léo các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công tác chủ nhiệm cũng như giáo dục học sinh cá biệt đạt hiệu quả cao. 4.3. Xác định nhiệm vụ, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp: - Giảng dạy các bộ môn, tổ chức giáo dục rèn luyện học sinh. - Học tập nâng cao sự hiểu biết, đạt trình độ chuẩn, phấn đấu đạt trên chuẩn. - Nêu cao các phẩm chất trong công tác giáo dục học sinh: * Gần gũi, thương yêu, tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh. * Có ý thức trách nhiệm, tinh thần phục khó khăn, tận tuỵ, sáng tạo trong lao động sư phạm. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 14 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân * Gắn bó mật thiết với tập thể sư phạm và cộng đồng. * Sống giản dị, lành mạnh, trung hậu, bao dung, vui tươi, cởi mở. Có tác phong mẫu mực. * Ham hiểu biết cái mới, luôn nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp và rèn luyện tự hoàn thiện nhân cách. Để làm đúng vai trò của một giáo viên chủ nhiệm đối với công tác tổ chức lớp thì người giáo viên phải bỏ ra nhiều công sức, vất cả cả trong việc theo dõi, quản lí lớp. Để làm tốt công tác của mình tôi thực hiện một số công việc sau: a. Xếp chỗ ngồi cho học sinh: Tôi tìm hiểu học sinh qua: Học bạ, sơ yếu lí lịch, lời nhận xét của GVCN cũ để giúp tôi nhận biết và phân loại học sinh. Tôi tìm hiểu học sinh thông qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp học sinh hằng ngày trong các hoạt động giáo dục, lao động và sinh hoạt để biết hành vi thái độ học sinh. Từ đó tôi cố gắng tìm ra những nét cá tính của từng em, để xếp chỗ ngồi cho phù hợp. Khi sắp chỗ ngồi tôi chia đều những học sinh có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn những học sinh có học lực trung bình nhằm mục đích học sinh khá giỏi sẽ giúp bạn mình tiến bộ. Không nên cho những học sinh cá biệt ngồi gần nhau, không nên cho học sinh tuỳ tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham chơi, hay nói chuyện, làm việc riêng trong lớp thường thích ngồi gần nhau. b. Xây dựng đội ngũ nhân sự của lớp: Căn cứ vào hồ sơ học bạ của HS, khi lựa chọn nhân sự thì phải chọn những học sinh có học lực khá, giỏi đồng thời có nhận thức đúng đắn, Có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trung thực, lành mạnh, có uy tín, trách nhiệm, nhiệt tình. Có năng lực tổ chức vận động, Có khả năng tiếp thu và có ý thức tổ chức kỷ luật tốt được quần chúng tín nhiệm. - Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu mỗi năm học. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 15 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân Lớp được chia thành 4 tổ với các chức danh: 1 lớp trưởng, 1 lớp phó phụ trách học tập, 1 lớp phó phụ trách lao động, 1 lớp phó phụ trách Văn - Thể, 4 tổ trưởng, 4 tổ phó. Sau đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho bộ phận nhân sự đó. c. Phát huy năng lực tự học, tự quản của học sinh: “Để nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục” song song việc cải tiến phương pháp dạy của giáo viên ,thì việc “phát huy năng lực tự học của trò” là một yếu tố rất quan trọng hai vấn đề này cần phải diễn ra một cách tích cực và thường xuyên trong suốt quá trình dạy học . Đây cũng là điều cần và đủ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện. - Người giáo viên cần tin tưởng khả năng của học sinh, các em hoàn toàn có thể tự quản được nếu có sự tác động đúng cách của chúng ta. Người giáo viên luôn biết cách tạo cho các em sự tự tin vào khả năng của chính mình và tạo điều kiện để các em được thể hiện khả năng của mình trong công việc của tập thể. - Bồi dưỡng khả năng tự quản cho học sinh đòi hỏi phải có quá trình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ các em từ thấp đến cao, để các em tự lực giải quyết từ công việc đơn giản đến phức tạp. Biện pháp trong giai đoạn đầu là cầm tay chỉ việc, sau đó để học sinh từng bước tự lực giải quyết những công việc cụ thể trong toàn bộ tiến trình tổ chức hoạt động. - Phương hướng chung là tăng dần khả năng tự quản của học sinh đi đối với việc giảm dần sự tham gia cụ thể của người giáo viên trong hoạt động cho đến khi các em có thể chủ động hoàn toàn trong công việc. - Người giáo viên luôn luôn giữ vai trò là người cố vấn, hướng dẫn chứ không phải là người làm thay cho các em. Sự giúp đỡ của thầy cô cần đúng lúc, hợp lý; chủ yếu động viên, khích lệ tinh thần sáng tạo, nỗ lực vươn lên và phát huy năng lực sở trường của các em. d. Phát huy năng lực tự học, tự rèn, tự nâng cao cho học sinh: Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 16 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân Học sinh sau quá trình học tập tiếp thu kiến thức trên lớp các em phải tự thấm hiểu và vận dụng được kiến thức đã học muốn vậy đòi hỏi học sinh phải tự cân đối thời gian học tập ở trường và thời gian học tập ở nhà trên cơ sở đó các em tự rèn luyện, tự trang bị, tự bổ sung kiến thức, kĩ năng cơ bản cần thiết. Tự đào sâu mở rộng kiến thức, tự hệ thống tổng hợp hoá kiến thức giúp các em hiểu kĩ, hiểu sâu, nắm chắc kiến thức đã học phục vụ hữu ích cho việc ôn tập kiểm tra. Thông qua đó hình thành cho học những thói quen, giúp cho học sinh yêu học tập và ý thức được học tập là một nhu cầu cần thiết, từ đó tự hình thành cho các em có động cơ và thái độ học tập đúng đắn . e. Giáo dục học sinh thực hiện tốt nội quy, nề nếp. Việc thực hiện tốt nội quy nề nếp có vai trò quan trọng để đưa tập thể lớp đi lên. Do vậy giáo viên chủ nhiệm cần giáo dục các em tự giác thực hiện tốt nội quy nề nếp của trường lớp. Để rèn cho học sinh tính tổ chức kỷ luật, phải giúp các em nhận thức đúng vấn đề thông qua các giờ sinh hoạt chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm cần phân tích cho học sinh thấy được mỗi học sinh trong lớp đều giữ vị trí quan trọng để đưa tập thể lớp đi lên, cho nên mỗi học sinh trong lớp cần phải cố gắng thực hiện tốt các nội quy, hạn chế vi phạm đến mức tối đa, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác. Ví dụ: Nội quy lớp. Trường TH Tân Hiệp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Lớp 4/2 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc NỘI QUY LỚP 1. Đi học đúng giờ. 2. Học bài và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp. 3. Thực hiện tốt việc vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp sạch sẽ. 4. Ra vào lớp phải xếp hàng. 5. Thực hiện tốt việc truy bài đầu giờ. 6. Thực hiện tốt việc tập thể dục buổi sáng và giữa giờ. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 17 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân 7. Quần áo, đầu tóc gọn gàng đúng quy định của nhà trường. 8. Bỏ rác đúng nơi quy định. Không được nhả kẹo cao su xuống nền gạch. 9. Có ý thức học tập, không làm việc riêng trong lớp. 10.Đoàn kết, thương yêu bạn bè, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. 11. Nghỉ học phải có lí do. Giáo viên chủ nhiệm sẽ thông qua nội quy lớp ngay từ tuần đầu tiên nhận lớp cho học sinh nắm và yêu cầu học sinh nghiêm túc thực hiện. Bên cạnh đó giáo viên xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với nội quy, học sinh nào gương mẫu thực hiện tốt nội quy của lớp giáo viên sẽ biểu dương, khen thưởng. Học sinh nào vi phạm giáo viên nhắc nhở bằng biện pháp phù hợp. Với những việc làm trên giúp giáo viên chủ nhiệm xây dựng tập thể lớp đoàn kết cũng như giúp học sinh hình thành được thói quen thực hiện nội quy nề nếp. Trong học kỳ I năm học 2012 – 2013 lớp 4/2 đã hạn chế việc học sinh lười học bài cũ và những vi phạm về nội quy nề nếp, đưa tập thể lớp đi lên rõ rệt. 4.4. Công tác phôí hợp với PHHS, chính quyền địa phương, BGH nhà trường. Để giáo dục được những học sinh cá biệt, bản thân của mỗi giáo viên cần phải biết phối hợp kịp thời, linh hoạt giữa nhà trường, gia đình và xã hội, giữa giáo viên và học sinh. Trong đó, Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò như là chiếc cầu nối, là mắt xích của sự kết hợp được thể hiện qua các mối quan hệ. Liên lạc thường xuyên với phụ huynh học sinh của lớp sẽ giúp cho chủ nhiệm nắm bắt rõ hơn về thời gian biểu của các học sinh cũng như các thói quen, sở thích và tính cách của từng học sinh. Một khi hiểu rõ học sinh của mình hơn thì giáo viên chủ nhiệm sẽ có nhiều giải pháp hơn để giúp học sinh của mình chuyên cần hơn trong việc học tập. Khi có học sinh bỏ học thì giáo viên chủ nhiệm cần phải thông báo ngay cho Ban giám hiệu nhà trường đồng thời sắp xếp thời gian gặp trực tiếp phụ huynh để trao đổi các thông tin cùng nhau tìm các giải pháp phối hợp tốt nhất đưa học sinh trở lại trường. Qua đó đã thể hiện Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 18 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân sự quan tâm sâu sát của nhà trường, đồng thời tạo được sự tin tưởng của phụ huynh học sinh đối với nhà trường khi con em mình được học tập ở tại trường. Học sinh sẽ trở nên chuyên cần, tích cực học tập hơn nếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình có hiệu quả đáng kể. 4.5. GVCN biết chấp nhận và yêu thương, tạo niềm tin đối với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự thương yêu HS, coi các em như người thân của mình, cố gắng để giúp HS vượt qua những biến cố, những vấn đề đã xảy trong quá trình sống và nó đã trở thành vết thương tâm lý khó phai mờ trong tâm hồn học sinh. Đối sử công bằng với tất cả các em học sinh, không thiên vị, không xử lý các sai phạm của học sinh theo cảm tính. Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, tế nhị mà hiệu quả. GVCN phải tự đặt mình vào vị trí của học sinh để hiểu được hành vi và thái độ của các em. Giúp đỡ các em trong học hành, lối sống bằng sự quan tâm chăm sóc ân cần, động viên của người giáo viên GVCN cần có nếp sống kỷ cương, tình thương, trách nhiệm để học sinh tự nhận thức, tự khép mình trong những nội quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao đổi, thỏa sức đóng góp trong tập thể và vì tập thể mà cống hiến cho tập thể; luôn gắn lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, chính là một trong những chuẩn mực, điều kiện để giáo dục học sinh cá biệt trở thành học sinh ngoan. GVCN tuyệt đối không được nóng vội, không vì thành kiến dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Tạo điều kiện để các em trình bày suy nghĩ của mình, giúp các em giãi bày tâm sự, từ đó từng bước giúp các em hòa nhập cùng tập thể. Chính sự thân thiện, gần gũi, thái độ quan tâm của thầy cô sẽ là động lực lớn cho các em có lại được niềm tin. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 19 Sáng kiến kinh nghiệm Hiệp Trường Tiểu học Tân Dùng các biện pháp khuyên bảo nhẹ nhàng động viên hơn là trách phạt. Phải biết khi nào cứng rắn, khi nào mềm dẻo để xử lý các tình huống. Thuyết phục bằng lời lẽ có lý, bằng tình cảm và phép tắc tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh như: trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt. Không nên chỉ mời CMHS khi thấy cần thiết hay xảy ra sự cố trong trường học, lớp học mà nên xem việc gặp gỡ, trao đổi với CMHS là chuyện bình thường. GVCN cần phải đề xuất với ban Giám Hiệu cần quan tâm hơn trong việc đầu tư về tranh thiết bị cho các em học, tập tổ chức sinh hoạt ngoại khóa, vui chơi thoả đáng. 4.6. Nâng cao chất lượng về học lực của học sinh: Việc nâng cao chất lượng trong học tập của học sinh rất quan trọng. Vì vậy với những học sinh cá biệt, học yếu người giáo viên phải dựa vào từng loại học sinh cá biệt mà có các biện pháp giáo dục khác nhau như: - Đối với học sinh cá biệt học yếu do hoàn cảch gia đình khó khăn, bố mẹ lo làm ăn không quan tâm, nhắc nhở con em mình và vì kinh tế khó khăn nên học sinh này phải phụ giúp thêm cho gia đình, không có thời gian học bài, chuẩn bị bài nên sa sút trong học tập, học yếu. Giáo viên phải luôn quan tâm, gần gũi hỏi han, động viên em và đến nhà gặp gỡ phụ huynh của em, nhắc nhở gia đình phối hợp tạo điều kiện và cần quan tâm để giúp các em có điều kiện học tập tốt, giúp em tiến bộ. Trên lớp người giáo viên phát động phong trào” Đôi bạn cùng tiến” để những học sinh có học lực giỏi, khá sẽ giúp các em này tiến bộ. Ngoài ra để giúp đỡ cho gia đình giảm bớt đi phần nào khó khăn, giáo viên sẽ nhận đỡ đầu cho em mua cho em những cuốn sách, cây bút, hỗ trợ cho em một phần chi phí đóng góp đối với nhà trường. Sự gần gũi, chân thành, nhẹ nhàng của giáo viên đã giúp cho em vui vẻ, bớt mặc cảm mà sẽ thay đổi cố gắng hơn trong học tập. Người viết: Nguyễn Thị Thanh Xuân 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan