Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs...

Tài liệu Skkn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thcs

.DOC
17
1
112

Mô tả:

1 UBND HUYỆN ĐAN PHƯỢNG TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Lĩnh vực: Đạo đức Cấp học: THCS Tên tác giả: Nguyễn Thị Huyền Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh Chức vụ: Phó Hiệu trưởng 1 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề II. Mục đích của đề tài III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu IV. Phương pháp nghiên cứu B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận II. Thực trạng kỹ năng sống (KNS) của học sinh( HS) và vấn đề giáo dục KNS III. Nguyên nhân IV. Một số biện pháp giáo dục KNS cho HS 1. Bồi dưỡng nhận thức, kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục 1.1. Bồi dưỡng nhận thức về vấn đề KNS và giáo dục KNS. 1.2 Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục. 2. Lồng ghép giáo dục KNS cho HS vào các môn học 2.1. Một số lưu ý khi giáo dục KNS cho HS trong giờ học 2.2. Một số ví dụ 3. Giáo viên chú nhiệm(GVCN) với công tác giáo dục KNS cho HS 3.1. Xây dựng kế hoạch giáo dục KNS cho HS 3.2. Tổ chức các tiết sinh hoạt lớp 3.3. Giáo viên chủ nhiệm lớp phối hợp với gia đình 3.4. Tổ chức và nâng cao hiệu quả giáo dục đồng đẳng 4. Giáo dục KNS cho HS thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 4.1. Lập kế hoạch tổ chức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 4.2. Tổ chức các hoạt động "Sinh hoạt dưới cờ ' 4.3. Tổ chức các buổi hoạt động cao điểm 4.4. Tổ chức các Hoạt động giáo dục khác 4.5. Đẩy mạnh phong trào xây dựng ”Trường học thân thiện- HS tích cực". 5. Nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội giáo IV. Kết quả: C. PHẦN KẾ A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Trong xã hội phát triển mạnh mẽ đầy thách thức hiện nay, nếu thiếu kỹ năng sống(KNS) sẽ thiếu kỹ năng phân tích sử lý các tình huống khó khăn, xuống cấp về đạo đức, nhận thức và ứng xử lệch lạc, có phản ứng tiêu cực, dễ rơi vào bế tắc,… Trong khi đó, chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục KNS cho học sinh(HS). Năm học 2008-2009, với chủ trương xây dựng”Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, nội dung giáo dục KNS lần đầu tiên được Bộ GDĐT nhắc đến. Đặc biệt một số trường ở trung tâm của huyện, gần nơi buôn bán nói chung và của trường THCS Lương Thế Vinh nói riêng việc giáo dục KNS đã được quan tâm. Do vậy, tôi chọ đề tài:” GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THCS” để nghiên cứu nhằm hướng đến giáo dục toàn diện cho học sinh, giúp các em có KNS vững vàng trong cuộc sống. II. Mục đích của đề tài: Đề tài được viết ra nhằm góp phần tìm biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lúa tuổi THCS. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên đối tượng là toàn thể học sinh, cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu sâu về vấn đề kỹ năng sống và biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS. IV. Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát thực tế; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh; Tham khảo ý kiến đồng nghiệp B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận: Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống (theo hướng dẫn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28/1/2015 V/v hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở GDMN, GDPT và GDTX) là “giáo dục cho người học những kỹ năng cơ bản cần thiết, hướng tới hình thành những thói quen tốt giúp người học thành công đảm bảo vừa phù hợp với thực tiễn và thuần phong mỹ tục Việt Nam vừa hội nhập quốc tế trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước" và đối với học sinh THCS phải Tiếp tục rèn luyện những kỹ năng đã được học ở Tiểu học, tập trung giáo dục những kỹ năng sống cốt lõi, có ý nghĩa thiết thực cho người học như. kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện và sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và hợp tác, kỹ năng tự nhơn thức và cám thông. kỹ năng quán lý cảm xúc và đương đầu với áp lực kỹ năng tự học". Ta thường nói "Con người sống có văn hoá" đó chính là văn hoá đạo đức một bộ phận trọng yếu của đời sống tinh thần, xã hội. Chúng ta phải giáo dục học sinh thành những con người sống có văn hoá - Giáo dục kỹ năng sống với nhiều hoạt động có mục đích, có tổ chức của thầy và trò nhằm hình thành cho học sinh những quan điểm, niềm tin, định hướng giá trị, lý tưởng, động cơ, thái độ, kỹ xảo, thói quen đối xử trong những quan hệ chính trị, xã hội, đạo đức, luật pháp và thẩm mỹ. . ..Các nhà nghiên cứu cho rằng: Chính trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải trí . . . con người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình. Như vậy hoạt động là điều kiện, là phương tiện và là con đường để hình thành, phát triển nhân cách. Ở lứa tuổi học sinh, hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo nhưng đối với học sinh THCS thì nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hơn thế, nó còn là hoạt động xã hội công ích: Hoạt động giao lưu, hoạt động học tập định hướng nghề nghiệp. II. Thực trạng KNS của HS và vấn đề giáo dục KNS ở trường THCS. Hiện nay chúng ta đang nói rất nhiều đến vấn đề KNS và giáo dục KNS. Dư luận xã hội thời gian qua rất quan tâm đến một số biểu hiện về tâm lý, cách ứng xử và giải quyết các vấn đề xảy ra trong cuộc sống một cách thiếu định hướng giáo dục của giới trẻ trong đó có nhiều đối tượng là HS THCS. Hàng loạt các vụ việc xảy ra như bạo lực học đường, vi phạm đạo đức, có hành vi cấu thành tội phạm . . . có tình trạng đó phải chăng là do các em còn thiếu kiến thức, KNS cần thiết. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giáo dục KNS qua khảo sát thấy: Thiếu sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể ở địa phương và giữa nhà trường với gia đình, tác động tiêu cực của môi trường xã hội, phẩm chất, lối sống của cha mẹ, bạn bè... đa phần do trình độ dân trí chưa đều, nhận thức còn hạn chế nên nhiều phụ huynh chưa biết giáo dục con; cơ chế thị trường thâm nhập, làm ảnh hưởng đến suy nghĩ, tạo nên những hành vi vi phạm của HS; cán bộ, giáo viên chưa thực sự tập trung giáo dục đạo đức mà chủ yếu tập trung vào dạy văn hoá, một số giáo viên chưa thực sự nhận thức và thấy được vài trò của giáo dục KNS cho HS THCS. Công tác quản lý giáo dục KNS cho HS còn nhiều tồn tại như: Việc xây dựng kế hoạch giáo dục KNS chưa cụ thể, chưa phù hợp; nội dung các hoạt động giáo dục KNS thực hiện ở mức độ trung bình; các phương pháp giáo dục KNS chưa được tốt, HS chưa thấy được hiệu quả của các phương pháp trong việc rèn luyện bản thân; Các lực lượng giáo dục chưa có sự phối hợp đồng bộ; việc kiểm tra đánh giá nhiều lúc còn chiếu lệ, qua loa, chưa mang tính động viên, khuyến khích, răn đe kịp thời; GVCN chưa xây dựng được kế hoạch cụ thể hàng tuần phù hợp với đặc thù riêng của lớp, ý thức thực hiện nội quy của học sinh chưa cao. Chính vì vậy, cần có phương pháp giáo dục KNS cho HS một cách hợp lý. III. Nguyên nhân: Hoạt động giáo dục chưa phong phú đa dạng, chưa thật phù hợp với tâm lý lứa tuổi nên chưa tạo nên sức hút đối với học sinh. Phần lớn thời gian dạy học đều dành hết cho các môn học chính khóa còn KNS ít được quan tâm, có chăng đưa vào lồng ghép với các hoạt động và thường có tính hình thức, chiếu lệ. Giáo dục cần phải hướng đến một chương trình toàn diện, dạy học là dạy cả tri thức, kỹ năng và thái độ sống để học sinh có thể hội nhập. thích nghi với thế giới. Vậy, nguyên nhân cụ thể dẫn tới việc còn yếu và thiếu KNS của một bộ phận học sinhTHCS là gì? tôi nhận thấy là do một số nguyên nhân sau: - Chương trình giáo dục còn nặng về kiến thức, ít quan tâm đến rèn KNS. - Đối với các nhà trường chủ yếu tập trung dạy cho học sinh kỹ năng học tập. - Một bộ phận giáo viên cũng chưa hiểu rõ KNS là gì? Bản thân họ cũng còn thiếu KNS; không ít giáo viên nghĩ rằng KNS chính là các bài dạy về đạo đức. Bên cạnh đó áp lực về công tác chuyên môn là quá lớn, cho nên giáo viên chủ yếu tập trung thời gian, công sức để làm tốt công tác chuyên môn. Nhiều gia đình HHS chưa hiểu tâm lý của con em mình và chưa đủ khả năng dạy cho con những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Có gia đình chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền, đáp ứng nhu cầu vật chất cho con em mà lãng quên việc dạy bảo con em những kỹ năng cần thiết như: kỹ năng ứng xử, giao tiếp; kỹ năng tự vệ. Thiếu sự quan tâm của gia đình, bản thân học sinh chưa có sự rèn luyện tốt, chịu tác động tiêu cực của bạn bè, sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ: Điện thoại, intemet, games . . . Đây thực sự là vấn đề rất đáng quan tâm của HS để chúng ta có thể xem lại và tìm biện pháp giáo dục hiệu quả hơn. IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KNS CHO HS THCS * Biện pháp thứ nhất: Bồi dưỡng nhận thức, kỹ năng tổ chức hoạt động 1. Bồi dưỡng nhận thức về vấn đề KNS và giáo dục KNS. 1.1. Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người. 1.2. Khi thực hiện các hoạt động lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cần phải tuân theo một số nguyên tắc cơ bản sau: Phải đảm bảo tính mục đích, tổ chức, tính kế hoạch; đảm bảo tính tự nguyện tự giác, học sinh có năng lực sở trường trên lĩnh vực nào thì có thể tham gia ở lĩnh vực đó để phát triển năng khiếu; đảm bảo tính tập thể; đảm bảo tính đa dạng phong phú; Đảm bảo tính hiệu quả. 1.3. Hoạt động giáo dục có nội dung rất phong phú đa dạng, do đó khi lên kế hoạch phải rất năng động, tổ chức chỉ đạo, kiểm tra đánh giá tập trung vào các loại hình hoạt động : Hoạt động xã hội và nhân văn( tìm hiểu truyền thống tốt đẹp của nhà trường và địa phương, Công tác Trần Quốc Toàn, nhân đạo đền ơn đáp nghĩa, từ thiện,…); Hoạt động tiếp cận khoa học(Các trò chơi " hỏi đáp" tìm hiểu về các chuyên đề, các môn học, sưu tầm tìm hiểu về các danh nhân, nhà bác học, những tấm gương ham học); Hoạt động văn hóa nghệ thuật và thẩm mỹ( Sinh hoạt văn nghệ như đọc thơ, múa hát kể chuyện, vẽ tranh, đọc sách báo xem phim, xem biểu diễn văn nghệ, tham quan danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử của địa phương); Hoạt động vui khỏe và giải trí(Thể dục giữa giờ, múa hát tập thể, trò chơi dân gian); Hoạt động công ích(Trực nhật ,trồng cây, làm bồn hoa cây cảnh cho đẹp trường đẹp lớp, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ) 2. Bồi dưỡng khả năng tổ chúc các hoạt động giáo dục Để tổ chức các hoạt động giáo dục đạt mục đích rèn KNS cho học sinh, người giáo viên cần phải có một hệ thống các kỹ năng tổ chức. Đó là hệ thống kỹ năng từ xác định mục tiêu đến thiết kế công trình và tổ chức hoạt động, từ kỹ năng thực hiện triển khai hoạt động, kỹ năng tiếp cận đến kỹ năng kiểm tra đánh giá và điều chỉnh hoạt động của học sinh nhằm thực hiện mục đích là "Củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học, mở rộng và nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội. làm phong phú thêm vốn tri thức, kinh nghiệm hoạt động tập thể của HS; rèn luyện cho HS những kỹ năng cơ bán phù hợp lứa tuổi học sinh THCS. củng cố và phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập lao động và công tác xã hội đồng thời bồi dưỡng thái độ tự giác, tích cực tham gia các hoạt động tập thể, hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước, có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng tự nhiên và xã hội ". Kỹ năng thiết kế chương trình thể hiện ở một loạt các thao tác cần thiết để có được một bản kế hoạch đầy đủ, rõ ràng và thông minh nhất. Nếu kỹ năng này được rèn luyện thường xuyên thì sẽ nâng cao được khả năng lập kế hoạch cho tổng phụ trách và GVCN lớp, họ sẽ không mất nhiều thời gian trong việc xây dựng một bản kế hoạch hoạt động giáo dục KNS. Có bản kế hoạch chưa đủ, vấn đề là ở chỗ tổng phụ trách và GVCN phải biết thực hiện theo kế hoạch đó nghĩa là biết chắc chắn nội dung công việc đã dự kiến để từ đó bố trí lực lượng cụ thể, phù hợp với tổng đối tượng, khả năng và nhu cầu của học sinh. Kỹ năng thực hiện, triển khai các hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp còn thể hiện ở chỗ người giáo viên biết phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục, đồng thời phải quan sát và biết nắm bắt các tình huống nảy sinh để kịp thời điều chỉnh, giải quyết, rút kinh nghiệm. Có kế hoạch, có thực hiện triển khai thì một hoạt động không thể thiếu trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục KNS, đó là kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả. Kỹ năng kiểm tra, đánh giá đòi hỏi người giáo viên phải cố gắng bồi dưỡng thường xuyên thì mới có thể thực hiện một cách khách quan, chính xác. Và cuối cùng khi kết thúc việc đánh giá bao giờ cũng phải đề xuất ra được những kiến nghị mang tính giải pháp để tiếp tục giải quyết những tồn tại, đó là những giải pháp tổng quát chứa đựng trong đó những biện pháp nhằm cải thiện những hạn chế trong hoạt động giáo dục KNS. * Biện pháp thứ hai: Giáo dục KNS thông qua các giờ học chính khóa 2.1 . Một số lưu ý khi giáo dục KNS cho học sinh trong giờ học: - Là người truyền tải kiến thức cho các em, bản thân người giáo viên phải chú ý tới các phương pháp giáo dục của mình để có thể giáo dục kỹ năng sống cho các em một cách thuận lợi và hiệu quả từ những bài học trên lớp . - Để học sinh có thể nói lên những suy nghĩ của mình, giáo viên phải biết khơi gợi, dẫn dắt hướng học sinh đến cái đích cuối cùng của bài học và để làm được điều đó giáo viên phải kết hợp nhiều biện pháp dạy học tích cực như: Đặt câu hỏi, thảo luận nhóm, vẽ sơ đồ tư duy, chấm, trả bài kiểm tra... hy vọng với sự định hướng của giáo viên sẽ góp phần vào việc hoàn thiện nhân cách của học sinh, để các em trở thành những con người năng động, có hành vi ứng xử một cách đúng mực, có văn hóa, chấp hành luật pháp và có thể thích ứng nhanh với các yêu cầu, đòi hỏi và hoàn cảnh trong cuộc sống. - Khi thiết kế bài học cần lồng ghép, tích hợp các bộ. 2.2. Một số ví du: - Thông qua bộ môn Giáo dục công dân: Trong giờ giảng trên lớp, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực thể hiện trong các mối quan hệ của học sinh với bản thân, với người khác, một hệ thống những bổn phận đạo đức của bán thân đối với môi trường tự nhiên, với con người phù hợp với yêu cầu của xã hội các chuẩn mực đạo đức và những quy định của pháp luật. Nhấn mạnh cho học sinh vai trò của con người trong việc gìn giữ môi trường trong sạch, lành mạnh trong mối liên quan chặt chẽ giữa môi trường, dân số và chát lượng cuộc sống. -Thông qua bộ môn Địa lý: Địa lý lớp 6 học về lớp vỏ địa lý và các cảnh quan trên trái đất có thể giúp học sinh hiểu được môi trường là tổng hoà các nhân tố: Không khí, nước, đất, ánh sáng, âm thanh, cảnh quan, . . . ảnh hướng tới chất lượng cuộc sống và các tài nguyên thiên nhiên' cần thiết cho sinh sống và sản xuất của con người . .; Khi dạy phần Địa lý dân cư trong Địa 9 và phần Dân số thế giới, giáo viên cung cấp cho học sinh sơ đồ về mối quan hệ giữa sự tăng trưởng dân số với môi trường từ đó có nhận thức đúng hơn về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình; Thông qua bộ môn Sinh vật: Giáo viên có thể khai thác dưới nhiều hình thức như: Cuối mỗi bài học giáo viên đưa ra các câu hỏi để xác định nhận thức của học sinh từ đó giáo dục thái độ cư xử đúng đối với sinh vật, đối với xã hội; các bệnh tật ở người, các dạng biến dị ở động vật, thực vật và người liên quan đến nguyên nhân gây đột biến và hậu quả đột biến; Từ các thí nghiệm trực quan và các tài liệu giáo viên cung cấp, giáo viên yêu cầu học sinh dự đoán, giải thích kết quả, từ đó rút ra kết luận về vai trò của cây xanh và sự cần thiết phải báo vệ tài nguyên rừng cùng các động vật quý hiếm để giữ cân bằng sinh thái. Chính sự thay đổi về nhận thức hiểu đúng bản chất sẽ hướng các em tới những hành vi lành mạnh, góp phần cải thiện môi trường xã hội. * Thông qua môn Ngữ Văn: Đại văn hào Mác xim - Gorki đã từng nói: "Học văn !à học làm người". Đây là môn học có khả năng đặc biệt trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, bởi đó là môn khoa học xã hội và nhân văn, môn học không chỉ cung cấp những trí thức về xã hội, văn hóa, lịch sử, đời sống nội tâm cua con người mà còn giúp học sinh có năng lực giao tiếp, nhận thức về xã hội, con người, bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thâm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Đặc biệt là các giờ học làm văn nghị luận xã hội thường gợi nhiều hứng thú, hấp dẫn đối với học sinh bới các em có thể trình bày quan điểm, những suy nghĩ của riêng cá nhân mình. Người giáo viên qua đó có thể nắm bắt được suy nghĩ, quan điểm của học sinh, từ đó hướng các em đến một lối 'sống tốt, có ý nghĩa. . . Vỉ vậy giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các tiết học làm văn nghị luận xã hội có thể phát huy được tính tích cực, những giá trị tốt đẹp và đánh thức tiềm năng con người ở mỗi học sinh. . ."Văn học là nhân học" Chính sự hấp dẫn của cái Chân - Thiện - Mỹ trong văn học đã tạo nên sự xúc động, và đúng như M.Goorki đã nói: "Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý". Không những thế, văn học còn chắp cánh cho các em đến với thời đại văn minh, với nền văn hoá hiện đại, xây dựng cho các em niềm tin vào cuộc sống, hướng các em vươn tới đỉnh cao của sự hoàn mỹ và ý thức góp phần bảo vệ và xây dựng sự hoàn mỹ đó. Rõ ràng môn Ngữ văn chiếm vị trí rất quan trọng trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và kỹ năng sống cho học sinh. Qua các môn học Thể dục, Nhạc, Họa: Học sinh được giáo dục thể chất, biết rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ một cách khoa học, bồi dưỡng tâm hồn, khả năng cảm thụ thẩm mỹ tích cực, từ đó hướng cho các em hướng tới những hành động đẹp. Như vậy, qua các môn học chính khoá trong nhà trường, đội ngũ giáo viên giảng dạy đã góp phần quan trọng vào việc giáo dục học sinh kỹ năng sống cho học *Biện pháp thứ ba: Giáo viên chủ nhiệm với việc giáo dục KNS cho HS Trong nhà trường, giáo viên chủ nhiệm với chức năng: Là người thay mặt Hiệu trưởng quản lý giáo dục toàn diện học sinh trong một lớp; tổ chức tập thể học sinh hoạt động tự quản nhằm phát huy tiềm năng tích cực của mọi học sinh; là cầu nối giữa học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tố chức phối hợp các lực lượng giáo dục đồng thời đánh giá khách quan kết quả rèn luyện của mỗi học sinh và phong trào chung của lớp. Để thực hiện tốt các chức năng đó, người giáo viên chủ nhiệm phải vừa hồng vừa chuyên 3.1. Xây dựng kế hoạch Hoạt động giáo dục kỹ năng sống: Căn cứ vào mục tiêu cấp học, nội dung kế hoạch và chương trình hoạt động giáo dục của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm xây dựng một chương trình hoạt động giáo dục kỹ năng sống với nội dung cụ thể, hình thức phong phú và tổ chức hoạt động toàn diện về các mặt nhằm phát triển trí tuệ và năng lực của học sinh. 3. 2. Tổ chức các tiết sinh hoạt lớp: Đây là một nội dung thuộc chương trình bắt buộc của Hoạt động giáo dục NGLL mà giáo viên chủ nhiệm với vai trò cố vấn, giúp đỡ học sinh thực hiện dưới hình thức giáo dục tự quản, lả một trong nhiều biện pháp cơ bản góp phần xây dựng một tập thể học sinh đoàn kết đồng thời cũng là dịp để học sinh làm quen với nhiều loại hình hoạt động khác nhau, giúp các em phát triển những kỹ năng cơ bản và cần thiết. Với nội dung hoạt động đã được định hướng cộng với sự sáng tạo, giáo viên chủ nhiệm lớp đã kết hợp nội dung hoạt động chủ nhiệm với nội dung hoạt động chủ điểm, sử dụng nhiều hình thức khác nhau như giao nhiệm vụ, tạo tình huống có vấn đề để học sinh tự xử lý và luân phiên điều khiển hoạt động, nêu gương để các em học tập, thực hành, tự đánh giá rút kinh nghiệm ... các em trở nên tự tin, tự chủ và sáng tạo hơn. Giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò quan trọng trong Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, với phương pháp giáo dục sáng tạo: + Xây dựng một tinh thần đoàn kết, thân ái, tương trợ, tạo nên một môi trường lành mạnh trong quan hệ giữa các em học sinh: Tổ chức thi đua giữa các tổ, nhóm; xây dựng những đôi bạn cùng tiến. + Hướng dẫn học sinh giữ vệ sinh chung, trồng cây và bảo vệ cây xanh, biết ăn sạch, uống sạch, Ở sạch,.. . giáo dục các em ý thức "mình vì mọi người, mọi người vì mỗi người" để các em thấy được trách nhiệm của cá nhân trong tập thể mà cùng nhau cố gắng học tập, rèn luyện, tham gia tốt các hoạt động của nhà trường... Có thể nói, toàn bộ cuộc sống tâm hồn, tình cảm của học sinh là một trong những điều cần lưu ý, nhiều mặt của cuộc sống nội tâm dễ bị biến đổi, cảm xúc và tâm lý diễn biến phức tạp, vì thế giáo viên chủ nhiệm phải luôn quan tâm tới sự thay đổi của từng em để có định hướng, điều chỉnh kịp thời. 3.3. Giáo viên chủ nhiệm lớp phối hợp với gia đình tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Bác Hồ nói: "Củng cố gia đình là củng cố hạt nhân của xã hội; gia đình tốt đẹp có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước". Gia đình tốt có ý nghĩa nền tảng làm cho dân giầu, nước mạnh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ cho xã hội phát triển lành mạnh Nếu gia đình định hướng sai lầm, hình thành những thói quen xấu như ỷ lại, vô lễ coi thường mọi người xung quanh,... thì khi lớn lên chúng có thể trở thành mầm mống của những hành vi không lành mạnh. Nhiều nghị quyết của Đảng nêu "Lành mạnh hoá các quan hệ xã hội", chính gia đình đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh. Về không gian thì gia đình là môi trường tiếp nhận thông tin xã hội về mọi mặt. Gia đình phải là một trung tâm xử lý thông tin chính xác, có chắt lọc để định hướng giá trị đạo đức xã hội cho mọi thành viên. Nhiều người cho rằng: Thầy cô giáo dạy kỹ năng sống cho học sinh chỉ cần lồng ghép vào các môn học trong nhà trường là đủ, về nhà bố mẹ chỉ chú trọng nhắc nhở các em học văn hóa. Đây là quan niệm giáo dục sai lầm. Cũng có nhiều trường hợp phụ huynh hốt hoảng "tách ' con ra khỏi môi trường thường nhật, đưa chúng vào một môi trường riêng biệt có tổ chức chặt chẽ, huấn luyện nghiêm khắc, những mong qua những lớp học kỹ năng sống; sau những "học kỳ quân đội,, như vậy chúng sẽ lớn khôn, trưởng thành và vững vàng hơn trước sóng gió cuộc đời. Có lẽ đây cũng là sự ngộ nhận về giáo dục lớp trẻ, bởi giáo dục kỹ năng sống trước hết phải bắt đầu từ trong mỗi gia đình, từ vai trò, trách nhiệm của mỗi người làm cha mẹ, không gì có thế thay thế được. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, phải được xem như là sự tiếp tục, bổ. sung, nâng cao, mở rộng kết quả giáo dục kỹ năng sống cho các em từ trong mỗi gia đình. "Dạy con từ thuở còn thơ", "Học ăn học nói, học gói học mở"; học chịu thương chịu khó, học làm con làm cháu, học làm anh chị, làm em, học làm người... Để dạy cho học sinh những bài học đó trước hết và tốt nhất là từ gia đình. Những bài học kinh nghiệm tuy xưa mà chẳng bao giờ cũ, càng không nên xem thường và cho đó là lạc hậu, lỗi thời, để rồi chạy theo "mốt" cho con đi học kỹ năng sống. Các bậc cha mẹ ngày nay phải tỉnh táo và trưng thực nhìn vào chính gia đình mình, xem ở đó trẻ được giáo dục kỹ năng sống như thế nào, khi mà dường như trẻ không được yêu cầu làm việc gì, chỉ tập trung vào ăn và học, mọi việc còn lại cha mẹ làm thay, hoặc cần thì thuê người giúp việc, gọi dịch vụ... Sự giao tiếp ứng xử giữa cha mẹ và con cái. Hơn thế nữa, cùng với việc ép con học chính, học phụ, học giỏi, đỗ cao, đạt nhiều "danh hiệu” là việc cha mẹ hạn chế, cách ly con cái tiếp xức với bên ngoài, không được trải nghiệm cuộc sống, nhằm phòng ngừa tiêu cực, tai nạn rủi ro... đó cũng là nguyên nhân khiến trẻ "lơ ngơ như gà công nghiệp" và càng thiếu kỹ năng sống. Rõ ràng đây không chỉ là những lệch lạc về giáo dục kỹ năng, mà trước hết là sự lệch lạc về giáo dục giá trị sống trong mỗi gia đình. Vậy thì tại sao lại đi tìm giải pháp từ bên ngoài gia đình? Hãy bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức của các cha mẹ học sinh. Ngày nay, tuy cùng sống trong một mái nhà và đa số là đầy đủ tiện nghi, nhưng giữa cha mẹ và con cái lại đang thiếu đi rất nhiều cái "cùng nhau, như cùng ăn, cùng chơi, cùng trò chuyện, cùng đảm trách mọi công việc trong nhà để cùng cảm thông, chia sẻ niềm vui và những lo toan. Ngay từ nhỏ trong phận làm con cũng cần phải được rèn tập thực thi trách nhiệm, cùng cha mẹ vun đắp cuộc sống gia đình. Kỹ năng sống của trẻ được hình thành từ đó, đâu có đợi đến mai sau. Càng không thể trông đợi vào phép màu của các lớp học kỹ năng sống, vào một "học kỳ quân đội"... mà các em chỉ tham gia trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Vì vậy, mỗi gia đình, mỗi tế bào xã hội cần nhận thức đúng đắn hơn nữa trong việc giáo dục để các em có một môi trường lành mạnh, tự tin vui tươi thoải mái... trong gia đình thì trẻ sẽ học tập và tiếp thu được nhiều điều tốt trong xã hội . Giáo viên chủ nhiệm lớp là người đóng vai trò quan trọng trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, với phương pháp giáo dục sáng tạo, các thầy cô chủ nhiệm đã thực sự quan tâm uốn nắn kịp thời bằng nhiều biện pháp: +Giáo dục đạo đức cho các em, xây dựng một tinh thần đoàn kết, thân ái, tương trợ, tạo nên một môi trường lành mạnh trong quan hệ giữa các em học + Hướng dẫn học sinh có những hành động bảo vệ môi trường: Giữ vệ sinh chung. trồng cây và bảo vệ cây xanh, biết ăn sạch, uống sạch, Ở sạch, . . . giáo dục các em ý thức "mình vì mọi người, mọi người vì mỗi người" để các em thấy được trách nhiệm của cá nhân trong tập thể mà cùng nhau cố gắng học tập, rèn luyện, tham gia tốt các hoạt động của nhà . 3.4. Tô chức và nâng cao hiệu quả Giáo dục đồng đẳng Giáo dục đồng đẳng là một hoạt động thường đem lại hiệu quả giáo dục cao bởi chính các em là những người gần gũi nhau, hiểu nhau nhất và có thể giúp nhau cùng tiến bộ trong cả học tập cũng như trong mọi hoạt động giáo dục, nhà trường có "Góc tình bạn" dành cho học siêu, ở đó các em có thể đọc các loại sách báo dành cho tuổi mới lớn như: "Những điều bạn muốn biết nhưng ngại hỏi", "Bác sĩ ơi, tại sao", "Hãy biết quý trọng bản thân ', . . . những tờ rơi về "tuổi dậy thì", "Tình bạn, tình yêu', . . . những đôi, nhóm bạn cùng tiến, những hướng dẫn viên đồng đẳng hoạt động tích cực, hiệu quả đã góp phần tích cực vào xây dựng một bầu không khí trong sạch, lành mạnh trong nhà trường. Ví dụ: Lớp tổ chức họp bàn giúp đỡ các bạn gặp hoàn cảnh khó khăn; bàn phương án giúp đỡ, cảm hoá những học sinh cá biệt trong lớp. * Biện pháp thứ tư: Giáo dục HS thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp Trong các nhà trường THCS, việc thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống đã được tiến hành theo yêu cầu nội dung trong phân phối chương trình quy định Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nảy sinh một số vấn đề bất cập: Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tập trung toàn trường được thực hiện chủ yếu trong tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần và bằng hoạt động cao điểm. Với quy mô toàn trường, Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thường chỉ hoạt động theo cao điểm, theo đợt thi đua lấy thành tích chào mừng. kỷ niệm những ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị xã hội mà chưa tạo được không khí chung hoạt động sôi nổi, thường xuyên, liên tục trong nhà trường. Hình thức hoạt động toàn trường còn đơn điệu, chưa phong phú, chưa gây được khí thế mới, chưa đáp ứng những hứng thú và say mê tìm tòi cái mới trong học tập, ứng dụng, chưa đáp ứng được nhu cầu mỏ rộng mối liên hệ giữa các tập thê lớp, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ trong đời sống tập thê hàng ngày của học sinh. - Hoạt động trong các lớp: Được thực hiện chủ yếu trong tiết sinh hoạt cuối tuần, hầu hết thực hiện theo kế hoạch của trường, của ban phụ trách đội đề ra chưa tạo được nét riêng. Nội dung mang tính hình thức, chưa phong phú đa dạng, chưa khơi dậy được tính tích cực chủ động của học sinh. Các nhà trường đã nắm bắt chắc nội dung, hình thức của Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhưng sao các hoạt động chưa có sức hút lớn đối với học sinh? Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy: - Có nội dung chưa phù hợp với tâm lý lứa tuổi cấp THCS nên chưa gây được hứng thú, chưa thu hút được học sinh tham gia. - Hình thức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp chưa phong phú nên chưa thu hút được các đối tượng học sinh tham gia. - Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm chưa thực sự cải tiến phương pháp làm việc trong các giờ sinh hoạt. .Hơn nữa, người giáo viên chủ nhiệm còn thiếu các kỹ năng cần thiết để thiết kế chương trình và lập kế hoạch tổ chức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Hội đồng giáo dục cần phải đứng ra làm "trọng tài" định hướng cho các lực lượng giáo dục phối hợp với nhau. Nhà trường, gia đình và xã hội cần có sự quan tâm giáo dục một cách linh hoạt, đa dạng và bằng nhiều phương pháp để các em có những hoạt động lành mạnh, xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, yêu đời, có đà vươn lên tự khẳng đỉnh mình 4.1. Lập kế hoạch tổ chức Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong bất kỳ việc gì dù lớn hay nhỏ đều phải có sáng kiến. phải có kế hoạch, phải cẩn thận và phải quyết tâm làm cho thành công". Vì vậy khi đứng trước một mục tiêu giáo dục, chúng ta phái lập kế cụ thể, rõ ràng. Kế hoạch sẽ làm cho công tác của chúng ta trở nên có mục đích, việc lập kế hoạch sẽ giúp cho Ban phụ trách chọn ra những công việc cần thiết, biết cách phân bố đứng đắn theo thời gian và định ra được trách nhiệm cho mỗi đối tượng tham gia công tác giáo dục. Việc lập kế hoạch yêu cầu Ban phụ trách phải nắm vững ba vấn đề quan trọng là: Làm gì? Ai làm? và làm như thế nào?. Học sinh THCS từ lớp 6 đến lớp 9, càng lớn các em càng cần nhiều thời gian dành cho việc học tập hơn. Vì vậy, việc tổ chức các Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh là rất cần thiết nhằm giúp các em có điều kiện thư giãn, có tâm thế thoải mái để sẵn sàng học tập và tiếp thu bài giảng tốt hơn đồng thời khép kín thời gian, không gian giáo dục đối với học sinh, tạo ra sự thống nhất trong môi trường giáo dục. Căn cứ vào nội dung kế hoạch, Nhà trường đề ra biện pháp thực hiện và thời gian thực hiện một cách cụ thể, chi tiết, mang tính khá thi . Một số hoạt động lồng ghép giáo dục kĩ năng sống: - Hoạt động' giáo dục bảo vệ sức khỏe và phòng, chống HIV/AIDS. - Hoạt động giáo dục về phòng, chống ma túy và các tệ nạn xã hội. - Hoạt động giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. - Hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường. - Hoạt động giáo dục trật tự, an toàn giao thông. - Hoạt động hưởng ứng phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". - Hoạt động theo chương trình rèn luyện Đội viên. - Hoạt động Nghi thức Đội - Hoạt động theo các chuyên hiệu, kĩ năng hoạt động Đội. - Triển khai hoạt động giáo dục trong tuần, trong tháng. - Mỗi tháng có 2 tiết GDNGLL theo chủ đề của lớp hoặc khối có lồng ghép giáo dục kỹ năng sống và các vấn đề toàn cầu. 4.2. Tổ chức các hoạt động "Sinh hoạt dưới cờ' . Đây là nội dung hoạt động theo chương trình phần bắt buộc của Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được xây dựng. theo các chủ điểm giáo dục được quy định trong năm, là một dạng Hoạt động giáo dục có tính chất tổng hợp, nhằm giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương đất nước, khắc sâu ý thức phục vụ Tổ quốc, xác định được trách nhiệm của mình, định hướng những yêu cầu trọng tâm của mình trong từng thời điểm, tạo khí thế mới, thúc đẩy học sinh hăng say rèn luyện; mở rộng mối liên hệ giữa các tập thể lớp, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ. Trong trường THCS, các hoạt động của Đội là hoạt động thu hút đông đảo học sinh tham gia nhất vào Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bởi đó là tổ chức tập hợp học sinh các khối tham tạo nên một môi trường giáo dục thống nhất. Tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần được tổ chức theo quy mô toàn trường với sự điều khiển của tổng phụ trách Đội và sự theo dõi giám sát của giáo viên chủ nhiệm đối với lớp mình quản lý và động viên các em tham gia vào hoạt động chung của trường. Nội dung của tiết gắn liền với nội dung hoạt động của chủ điểm giáo dục, có tính định hướng và với hình thức phong phú, đa dạng, sinh động và thiết thực. Ví dụ: - Báo cáo kết quả thi đua, rèn luyện của các tập thể, cá nhân. Phát động thi đua theo một chủ đề nhất định: Thi đua lấy thành tích chào mừng ngày "Nhà giáo Việt Nam"; "Mừng Đảng, mừng xuân" . . . Tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí: Văn nghệ theo chủ đề, . . . - Nghe nói chuyện chuyên đề: Về 12 ngày đêm "Điện biên phủ trên không"; Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 ; . . . - Giao lưu giữa các lớp; - Chuẩn bị cho các hoạt động của tuần, tháng trong các tiết sinh hoạt dưới cờ có nội dung cụ thể mang tính định hướng, nhiều hoạt động sáng tạo, tích cực nêu gương người tốt, việc tốt, tạo bầu không khí thi đua phấn đấu, giao lưu đoàn kết. 4.3. Tố chức các buổi hoạt động cao điểm: Đây cũng là một hoạt động theo chương trình bắt buộc với quy mô toàn trường (hoặc liên lớp, liên trường) được tổ chức mỗi tháng một lần theo nội dung của cao điểm trong tháng và với hình thức phong phú. Đây là dịp để học sinh thể hiện kết quả hoạt động của một tháng và được coi là ngày hội của các em. Trong ngày hoạt động cao điểm, học sinh có thể tham gia với nhiều vai trò khác nhau, trong những nội dung khác nhau như:' Hoạt động văn 'hoá văn nghệ; tham quan du lịch; thể dục thể thao; hội vui học tập . . . Đặc biệt nêu cao vai trò giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua nghệ thuật: Phê phán và lên án cái ác, ca ngợi và biểu dương cái thiện, vạch trần sự giả nhân giả nghĩa, sự lừa dối của bọn phản động thông qua các hình tượng nghệ thuật, tạo nên sự tự tin, chủ động, sáng tạo trong học sinh, tạo cơ hội cho các em dược rèn luyện ý thức tự giác, tích cực và kỹ năng tự quản trong hoạt động tập thể. Ví du:- Tháng 9: Để bắt đầu cho năm học mới, nhà trường tổ chức thi viết, vẽ ca ngợi truyền thống nhà trường; Cam kết thực hiện an toàn giao thông. Với khẩu hiệu "Phấn đấu một trường học không ma túy" nhà trường tổ chức buổi hoạt động NGLL về chủ đề "Ma túy học đường" - Tháng 10: Tìm hiểu thư Bác Hồ gửi cho ngành giáo dục; Nhà trườngg tổ chức Chuyên đề ,.Phòng chống tệ nạn xã hội- HIV/ AIDS'( ký cam kết thực hiện phòng chống ma tuý và các tệ nạn xã hội. - Tháng 11 : Hội diễn văn nghệ chào mưng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11; Tổ chức lễ đăng ký thi đua học tốt, tháng học tốt. - Tháng 2: Mời đảng viên tiêu biểu ở địa phương giao lưu nhân dịp phát động thi đua "Mừng Đảng, mừng xuân" - Tháng 3 : Gian lưu với Đoàn viên ưu tú xã đoàn. Thực hiện chương trình dã ngoại Trở về cội nguồn", .. . Ngày hoạt động cao điểm giúp học sinh có cơ hội mở rộng quan hệ giao tiếp với bạn bè, với thầy cô giáo, với mọi người, với cộng đông, với môi trường tự nhiên. Do đó, nó có tác dụng bồi dưỡng cho học sinh thái độ và tình cảm trong sáng, rèn luyện các kỹ năng giao tiếp và các kỹ năng cơ bản khác. 4.4. Tổ chức các Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp khác: Ngoài các yêu cầu thuộc phần chương trình bắt buộc trên, học sinh phải tham gia các phong trào do trường hoặc địa phương phát động, thường là những hoạt động phục vụ cho các vấn đề chính trị xã hội cấp thiết như bảo vệ môi trường, thực hiện trật từ an toàn giao thông, phòng chống AIDS, ma tuý và các tệ nạn xã hội . . . những hoạt động đó nhằmm giáo dục ý thức công dân cho học sinh trước những vẫn đề nóng bỏng của xã hội, đồng thời góp phần giáo dục thái độ, tình cảm lành mạnh, đúng đắn và những kỹ năng cần thiết khác. + Phong trào trồng cây và bảo vệ cây xanh tạo được cảnh quan xanh, sạch, đẹp: Khối 9 trồng cây lưu niệm; Phân công các lớp chăm sóc và bảo vệ cây trong tùng khu vục; Khối 6,7,8 làm các công trình măng non: Bồn hoa, cây cảnh. + Phong trào thu nhặt giấy loại, vệ sinh trường lớp hàng ngày sạch sẽ giáo dục học sinh thực hành tiết kiệm. + Tổ chức các cuộc"Thi tìm hiểu. . .", "Viết, vẽ về tuổi mới lớn", "Tuổi trẻ sáng tạo" . . . vừa mang tính giáo dục, vừa tạo cho các em thê hiện mình, từ đó các em ngoan hơn, có trách nhiệm hơn, yêu trường, yêu lớp hơn. Công tác Đoàn, Đội có những hoạt động phù hợp với tâm lý lứa tuổi, đáp ứng nhu cầu về sự phát triển trí tuệ và thể chất cho học sinh. Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất cho ban phụ trách tổ chức những Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Hội đồng thi đua nhà trường bao gồm BGH, các tổ chức đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm lớp hoạt động thường xuyên, sát sao, khen thưởng kịp thời các trường người tốt, việc tốt 4. 5. Đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện- Học sinh tích cực": Mục tiêu của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” là huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhà trường đã thành lập ban chỉ đạo phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực,, trong nhà trường, có kế hoạch hành động cụ thể, tổ chức tuyên truyền sâu rộng , huy động mọi lực lượng xã hội tích cực tham gia và có tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện. Ví dụ: * Với nội dung "xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn”: - Nhà trường đã tổ chức đê học sinh trồng cây vào dịp đầu xuân và chăm sóc cây thường xuyên để nhà trường có cây xanh thoáng mát và ngày càng đẹp hơn. - Tổ chức cho các lớp vệ sinh trường lớp thường xuyên để các em có thể tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ vệ sinh các công trình công cộng, nhà trường, lớp học và cá nhân. *Biện pháp thứ năm:Nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội Việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống hiện nay không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường, mà còn có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - xã hội - nhà trường. Dù ở dạng hoạt động nào, nhà trường - mà vai trò chủ đạo là người thầy, với hoạt động giáo dục có nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức phong phú, đa dạng sẽ góp phần quyết định đến giáo dục phát triển nhân cách học sinh. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng để phát triển tâm lực, trí lực, thế lực và các năng lực khác của quá trình phát triển toàn diện của mỗi học sinh. Nhà trường- gia đình - xã hội là ba môi trường thường xuyên tác động đến quá trình hình thành nhân cách con người;làm cho mọi người tham gia vào hoạt động giáo dục có mục đích đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho học sinh phát triển nhân cách, định hướng cho các em có nhận thức đúng đắn về những thang giá trị mới, góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trên địa bàn dân cư là hình thức hoạt động ngoài nhà trường nhưng lại có sự phối kết hợp rất chặt chế với công tác giáo dục trong nhà trường. Học sinh có 3/4 quỹ thời gian sinh hoạt ở nhà. Vậy vấn đề phối hợp hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở địa bàn cụm dân cư là việc làm rất cần thiết. Ngoài thời gian ở trường, các em trở về gia đình, sống trong môi trường xã hội, được cha mẹ và các thành viên của các tổ chức xã hội uốn nắn, giáo dục một cách đồng bộ tạo nên một sân chơi lớn cho các em vừa học vừa chơi, thu hút đông đảo các em tham gia. Ví dụ:Phong trào "Trồng một cây, nuôi một con ', phong trào trồng rau sạch ở gia đình luôn được nhà trường duy trì. Mỗi năm học, các lớp có tổng kết báo cáo nhà trường động viên kịp thời, những tấm gương sáng được nhân rộng trong nhà trường. V. Kết quả: Qua thực tế tiến hành việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS theo những biện pháp trên, tôi nhận thấy kết quả đáng mừng: Hoạt động giáo dục kỹ năng sống đã có nhiều hình thức phong phú hơn, nội đung mang tính giáo dục cao góp phần tích cực xây dựng " Nhà trường thân thiện" - Các tổ chức đoàn thể xã hội đã phối hợp chặt chẽ hơn trong công tác giáo dục, ý thức của học sinh đã có những chuyển biến tích cực. - HS sống chan hoà, có ý thức trách nhiệm với mình, mọi người xung quanh . - Nhà trường được công nhận:”Trường học thân thiện- Học sinh tích cực" và và đó cũng là một tiêu chuẩn để trường nhiều năm liền được công nhận Trường Tiên tiến xuất sắc cấp thành phố. C. PHẦN KẾT Xu hướng phát triển xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi đa dạng hoá cả về hình thức và nội dung giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mỗi cá nhân chủ động tự điều chỉnh, thích ứng nhanh và tốt hơn với thực tiễn. Nước ta từ khi chuyển sang kinh tế thị trường thời mở cửa, nhiều chuẩn mực xã hội thay đổi nhanh chóng. Do vậy, Hoạt động giáo dục kỹ năng sống chính là chìa khoá làm cho mọi người hiểu rõ, thấy hết trách nhiệm của mình đối với vấn đề giáo dục cho thế hệ trẻ, giúp cho con em mình tránh được những ảnh hưởng tiêu cực. . Qua thực việc giáo dục KNS cho HS THCS theo những biện pháp trên, nhận thức của các em về vấn đề đạo đức, về pháp luật đã được nâng cao, môi trường được cải thiện, các em được học tập, sinh hoạt, vui chơi... với những hành vi thể hiện có văn hoá. Đạt được những chuyển biến tích cực trên, chắc chắn có sự đóng góp không nhỏ của chính sách xã hội, sự ủng hộ của hội đồng giáo dục mà hơn cả là sự kết hợp chặt chẽ giũa ba môi trường: Nhà trường, gia đình, xã hội. Xây dựng trong lớp thanh thiếu niên một nếp sống văn hoá lành mạnh biết " sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”, giúp các em sớm có ý thức về lối sống đẹp, vị tha, giàu lòng nhân ái./.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan