Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sinh kế bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại xã phù long và trân châu, h...

Tài liệu Sinh kế bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại xã phù long và trân châu, huyện cát hải, thành phố hải phòng

.PDF
113
64
97

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU...................................24 1.1 Một số khái niệm .............................................................................................24 1.2 Cách tiếp cận ...................................................................................................32 1.3 Tiêu chí đánh giá SKBV trong bối cảnh BĐKH .............................................36 1.4. Kinh nghiệm một số địa phương về sinh kế bền vững ...................................37 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG SINH KẾ CỦA NGƢỜI DÂN XÃ PHÙ LONG VÀ TRÂN CHÂU TRONG THỜI GIAN QUA ..........................................................41 2.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ....................................................................41 2.2. Tác động của BĐKH đến khu vực huyện Cát Hải .........................................56 2.3 Tác động từ sự thay đổi quy hoạch sử dụng đất trong Quy hoạch mới về phát triển KT-XH đảo Cát Hải ......................................................................................64 2.4. Thực trạng phát triển sinh kế tại xã Phù Long và Trân Châu .........................66 2.5 Đánh giá SKBV trong bối cảnh BĐKH và những vấn đề đặt ra: ....................69 Chƣơng 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH BĐKH Ở KHU VỰC HUYỆN ĐẢO CÁT HẢI ĐƢỢC ĐỀ XUẤT ...................................................................................................................................76 3.1 Dự báo diễn biến BĐKH ở khu vực huyện đảo Cát Hải .................................76 3.2 Cơ sở và nguyên tắc đề xuất giải pháp ............................................................78 3.3 Đề xuất cụ thể các giải pháp sinh kế thích ứng BĐKH ...................................78 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................86 DANH MỤC BẢNG, HÌNH BẢNG Bảng 1. Cơ cấu phiếu phân theo đợt khảo sát ..........................................................21 Bảng 2. Ma trận 5*5 phân tích 5 yếu tố của hệ thống thể hiện tính dễ tổn thương và năng lực chống chịu, ứng phó BĐKH của cộng đồng ..............................................22 Bảng 2.1: Diện tích nuôi trồng thủy sản đảo Cát Bà ( 2016 ) ...................................47 Bảng 2.2. Các nguồn thu nhập chính của cá nhân và nhóm hộ điều tra ...................57 Bảng 2.3. Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải cao A2 (cm) ......................58 Bảng 2.4. Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải trung bình B2 (cm) ............59 Bảng 2.5. Đánh giá tình hình sinh kế tại Phù Long và Trân Châu ..........................67 Bảng 2.6. Xếp loại mức độ ưu tiên can thiệp, hỗ trợ cho các sinh kế trên địa bàn 2 xã(ưu tiên cao nhất là 1) ............................................................................................72 Bảng 3.1. Mức tăng nhiệt độ trung bình (oC) qua các thập kỷ của thế kỷ 21 so với thời kỳ 1980 - 1999 của Hải Phòng ứng với kịch bản phát thải trung bình (B2) .....76 Bảng 3.2. Mức tăng nhiệt độ trung bình (oC) qua các thập kỷ của thế kỷ 21 so với thời kỳ 1980 - 1999 của Hải Phòng ứng với kịch bản phát thải thấp (B1) ...............77 HÌNH Hình 1. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng 2016 .......................................2 Hình 2. (a): Nhiệt độ trung bình bề mặt của đất và đại dương toàn cầu giai đoạn từ 1850 đến 2012; và (b) Thay đổi mực nước biển trung bình toàn cầu giai đoạn 1901 – 2012 ..........................................................................................................................5 Hình 3: Khung sinh kế bền vững của DFID ...............................................................8 Hình 1.1 . Sơ đồ mối tương tác của BĐKH và các hợp phần của hệ sinh thái-nhân văn (A) và Khung các vấn đề của BĐKH (B) (Nguồn IPCC ...................................33 Hình 1.2. Các hệ tự nhiên và các dịch vụ HST như một hợp phần quan trọng trong chiến lược tổng thể để quản lý tổng hợp tài nguyên, giúp con người .......................34 Hình 1.3. Khung sinh kế bền vững DFID .................................................................35 Hình 2.1. Bản đồ hành chính Tp. Hải Phòng ............................................................41 Hình 2.2. Bản đồ huyện đảo Cát Hải ........................................................................42 Hình 2.3. Đặc trưng nhiệt độ khu vực Hải phòng .....................................................44 Hình 2.4. Bản đồ xã Trân Châu.................................................................................45 Hình 2.5. Cơ cấu kinh tế các xã năm 2016 ...............................................................50 Hình 2.6. Xu thế biến đổi của nhiệt độ qua các năm tại trạm Phù Liễn ...................52 Hình 2.7. Mực nước biển dương tại trạm Hòn Dáu – Đồ Sơn – Hải Phòng 2014 ...52 Hình 2.8 a. Xu thế biến đổi của lượng mưa trong mùa mưa tại trạm Phù Liễn (HP) ...................................................................................................................................53 Hình 2.8 b . Xu thế biến đổi của lượng mưa trong mùa khô tại trạm Phù Liễn (HP) ...................................................................................................................................53 Hình 2.9. Bản đồ nguy cơ ngập khu vực Hải Phòng ứng với mực NBD 1m. Màu đỏ là khu vực bị ngập .....................................................................................................60 Hình 2.10: Lược đồ quy hoạch đảo Cát Bà ...............................................................65 Hình 2.11 Quy hoạch tổng dự án cáp treo của Sungroup ........................................66 Hình 3.1.a.Mức tăng nhiệt độ trung bình mùa đông vào giai đoạn 2050 Với thời kỳ 1980 - 1999 ở Tp. Hải Phòng ứng với kịch bản phát thải TB(B2) ...........................78 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tiếng Anh BĐKH Cimate change BNN& PTNT CBA Tiếng Việt Biến đổi khí hậu Ministry of Agriculture and Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Rural Development (MARD) Community Based Approach/ Ti ếp cận dựa vào cộng đồng Adaptation Thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng CCA Climate change Adaptation COP Conference of the Parties Thích ứng biến đổi khí hậu Hội nghị cấp cao Liên Hợp Quốc về Biến đổi ĐDSH DFID DTSQ EbA HVCA khí hậu Bio-diversity Đa dạng sinh học Department for International Cơ quan phát triển quốc tế Vương quốc Anh Development Biosphere Reserve Dự trữ sinh quyển Ecosystem-based Adaptation Thích ứng dựa vào hệ sinh thái Hazard – Vulnerability Capacity Assessment – Đánh giá hiểm họa, tính dễ bị tổn thương và năng lực ứng phó KHKT Intergovernmental Panel on Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu Climate Change International Union for Tổ chức Bảo tồn Thiên nhi ên Quốc tế Conservation of Nature Khoa học kỹ thuật KNK Green house Gas IPCC IUCN KT-XH MAB MONRE MCD Khí nhà kính Kinh tế - xã hội Vietnam Man and Biosphere MAB Vietnam Ministry of Natural Resources Bộ Tài nguyên và Môi trường and Environment Center for Marinelife Trung tâm B ảo tồn sinh vật biển và Phát tri Conservation and Community ển cộng đồng Development NGO Non-Government Organnization Tổ chức phi chính phủ NBD Sea Level Rise Nước biển dâng NTTS Aquaculture Nuôi trồng thủy sản PRA Participatory Rural Appraisal Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia RRTT Disaster risk Rủi ro thiên tai SWOT Strength – Weekness Opportunity – Threats UNDP United Nations Development Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc Programme UNEP UNESCO UNFCCC WCED WMO – Điểm mạnh – Yếu – Cơ hội – Thách thức United Nations Environment Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc Programme United Nations Educational, T ổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa c Scientific and Cultural ủa Liên Hợp Quốc Oganization United Nations Framework Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Bi Convention on Climate Change ến đổi khí hậu World Commision on Environment and Ủy ban thế giới về Môi trường và Phát tri ển Development World Meteorological Tổ chức Khí tượng Thế giới Organization WB World Bank Ngân hàng Thế giới WW World Vision Tổ chức Tầm nhìn thế giới MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế giới hiện nay đang đối mặt với rất nhiều cuộc khủng hoảng. Đó là: khủng hoảng lương thực, khủng hoảng tài chính, khủng hoảng năng lượng, suy thoái tài nguyên, và một trong những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất, diễn ra trên phạm vi toàn cầu là cuộc khủng hoảng khí hậu – hay còn gọi là biến đổi khí hậu( BĐKH). BĐKH với biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng… đang trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng nhất của nhân loại trong thế kỉ 21. BĐKH tác động đến mọi lĩnh vực trong đời sống của con người: sức khỏe, kinh tế, xã hội, môi trường...Song tùy từng vị trí địa lý, tình hình phát triển, mức độ thích ứng cụ thể của từng địa phương, từng quốc gia mà mức độ ảnh hưởng của BĐKH sẽ ít hay nhiều. Việt Nam là một quốc gia với đường bờ biển dài hơn 3260km, có 28 tỉnh, thành nằm ven biển, nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thô để xuất khẩu, đặc biệt là nguồn tài nguyên biển. Vì vậy nên đây là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của tình trạng BĐKH đang diễn ra hiện nay( WB 2007). Một trong hai địa điểm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH theo kịch bản BĐKH mới nhất năm 2016 chính là đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Khu vực này được dự báo theo kịch bản năm 2016 là mực nước biển dâng sẽ làm mất đi trên 10% diện tích. Trong đó phải kể đến dải ven biển ( DVB ) với chiều dài 3260km đường bờ biển. WB năm 2007 đã dự đoán rằng khu vực DVB chính là nơi chịu nhiều tác động nặng nề nhất của BĐKH mà trực tiếp chính là tình trạng mực nước biển dâng, thiên tai, lũ lụt, những hậu quả về môi trường…Họ tính rằng, nếu mực nước biển dâng thêm 1m thì Việt Nam sẽ đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỉ USD/năm ( tương đương 10% GDP ), 1/5 dân số mất nhà cửa, 12,3% diện tích đất trồng trọt biến mất, 40.000km2 diện tích đồng bằng( 39% ĐBSCL và 10% ĐBSH)…Hải Phòng – một thành phố thuộc khu vực ĐBSH và nằm trên DVB của nước ta. Cũng như các khu vực ven biển khác, nơi đây cũng được đánh giá là khu vực chịu tác động mạnh mẽ của hiện tượng BĐKH tiêu biểu như nhiệt độ tăng, nước 1 biển dâng, và sự gia tăng các hiện tượng thiên tai cực đoan. Và khu vực đang phải hứng chịu nguy cơ ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của thành phố chính là huyện đảo Cát Hải, một trong 12 huyện đảo của Việt Nam. Hình 1: Kịch bản biến đổi khí hậu và nƣớc biển dâng 2016 ( Nguồn: Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Với diện tích khoảng hơn 300km2, địa hình nơi đây tương đối phức tạp, rừng núi chiếm 2/3 diện tích của huyện đảo. Huyện có 2 đảo hợp thành là đảo Cát Hải và quần đảo Cát Bà. Huyện có 336 hòn đảo trong đó đảo Cát Bà là đảo lớn nhất. Cát Hải có 10 xã và 2 thị trấn. Huyện có gần 31 ngàn người dân sinh sống( 2012 ). Với vị trí nằm tách biệt giữa biển, huyện đảo không chỉ gặp những khó khăn về sự chênh lệch phát triển kinh tế - xã hội giữa đất liền và hải đảo, giữa miền đồng bằng và miền biển mà còn phải đối mặt với các điều kiện thời tiết, thiên tai rất phức tạp khiến cho cuộc sống của người dân càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Không chỉ dừng ở đây, hiện nay đảo Cát Bà đang đồng thời đối mặt với các rủi ro của BĐKH và những thay đổi thực sự trong quy hoạch sử dụng đất của chính phủ, của thành phố với dự kiến biến một vùng dân cư có sinh kế truyền thống là nông nghiệp và 2 thủy sản trở thành khu cảng công nghiệp – dịch vụ trong tương lai. Chính sự thay đổi to lớn này đã làm tăng cường thêm sự khó khăn trong sinh kế của người dân trên đảo Cát bà nói chung và 2 xã Phù Long và Trân Châu nói riêng. Hiện vẫn chưa có các nghiên cứu đánh giá về tác động của BĐKH đến các hệ sinh thái tự nhiên, xã hội và kinh tế của 2 xã trên cũng như vẫn thiếu các giải pháp cụ thể cho phát triển sinh kế của người dân đảo trong giai đoạn có nhiều sự chuyển đổi mạnh mẽ này. Trong khi đó, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu: “đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển…” , trong đó nhấn mạnh việc ưu tiên phát triển kinh tế cho người dân hải đảo trong bối cảnh BĐKH. Như vậy, nếu có các nghiên cứu đánh giá tác động BĐKH và các đề xuất phù hợp cho sinh kế, huyện đảo Cát Hải sẽ có thêm cơ hội và tranh thủ được nguồn lực từ các chương trình, dự án quốc gia ưu tiên cho vùng biển đảo. Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi đã chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp chương trình thạc sĩ phát triển bền vững là: “ Sinh kế bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại xã Phù Long và Trân Châu, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1 Nghiên cứu trên thế giới Trong thế kỉ 21, BĐKH đã trở thành vấn đề toàn cầu và là mối quan tâm không riêng gì quốc gia nào.Lần đầu tiên, vào năm 1896 vấn đề BĐKH đã được Arrhenius, nhà khoa học người Thụy Điển đề cập đến. Cuối thập niên 1980, tổ chức IPCC - Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH ra đời cùng với Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đồng thành lập (năm 1988) nhằm đánh giá "các thông tin khoa học, kỹ thuật và KT-XH cho phép tìm hiểu các nguy cơ của BĐKH do con người gây ra” (IPCC, 2007). Kể từ đó đến nay, nhiều tổ chức quốc tế và các nhà khoa học đã tập trung vào đánh giá tác động của BĐKH tại các khu vực, vùng lãnh thổ và đặc biệt là tại các quốc gia được dự báo là sẽ hứng chịu nhiều rủi ro nhất do BĐKH trong đó có Việt Nam. Những nghiên cứu và triển khai về BĐKH trong thời gian qua đã được phân tích và tổng kết trong 5 báo cáo của IPCC (Báo cáo lần 1, 1990; Báo cáo lần 2, 3 1999; Báo cáo lần 3, 2001; Báo cáo lần 4, 2007; và, báo cáo lần 5, 2013). Trong đó, báo cáo lần thứ 4 (2007) đã được nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình cùng với Al Gore. Trong báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (2007), các nhà khoa học đã kết luận những biến đổi trong khí quyển, đại dương và các sông băng, núi băng chứng tỏ thế giới đang nóng lên và các hoạt động của con người là nguyên nhân chủ yếu. Cũng theo báo cáo này, việc tăng đáng kể nồng độ các khí nhà kính CO2, CH4 và N2O kể từ năm 1750 đến nay chính là hậu quả từ các hoạt động của con người. Nhiệt độ bề mặt trung bình của Trái Đất đã tăng khoảng 0,740C trong 100 năm qua (1906 - 2005). Con số này cao hơn so với báo cáo năm 2001 với mức 0,60C do những năm gần đây liên tục có những đợt nóng cực điểm. Cho đến năm 2014, IPCC đã tổng hợp hàng loạt các nghiên cứu từ nguyên nhân đến hệ quả (sự tăng nhiệt độ bề mặt trái đất, sự tăng lên của mực nước biển, cùng với những biến đổi về thời tiết, thủy văn, hải dương...), từ tác động của nó đối với tự nhiên, môi trường, các đối tượng KT-XH đến việc xây dựng giải pháp thích ứng và chiến lược ứng phó toàn cầu. Các báo cáo của IPCC là cơ sở cho các hội nghị toàn cầu về BĐKH như Hội nghị Thượng đỉnh của LHQ về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro,1992; Hội nghị các bên nước tham gia UNFCCC (từ COP 1 đến COP 23). Qua các báo cáo của IPCC, từ cuối thế kỷ XIX đến nay có thể nhận thấy được xu thế chung là nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên đáng kể. Nhiệt độ không khí trung bình toàn cầu trong thế kỷ XX đã tăng lên 0,6oC (+/- 0,2oC); trên đất liền, nhiệt độ tăng nhiều hơn trên biển; thập kỷ 90 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua (IPCC, 2007) [36]. Tháng 9 năm 2013, IPCC đã công bố tóm tắt Báo cáo đánh giá lần thứ 5 (AR5-WG1) về hiện trạng BĐKH toàn cầu theo góc nhìn vật lý cơ bản, do Nhóm công tác số 1 thuộc IPCC soạn thảo (Kỷ Quang Vinh, 2013) [73]. Theo tài liệu này, trong ba thập kỷ vừa qua, cứ sau mỗi thập kỷ bề mặt trái đất đã liên tục nóng lên hơn bất kỳ thập kỷ nào trước đó kể từ năm 1850 (xem hình 1.3 a,b). Ở Bắc bán cầu, giai đoạn từ 1983 đến 2012 dường như là khoảng thời gian 30 năm ấm nhất trong 1.400 năm qua. 4 Hình 2(a): Nhiệt độ trung bình bề mặt của đất và đại dƣơng toàn cầu giai đoạn từ 1850 đến 2012; và (b) Thay đổi mực nƣớc biển trung bình toàn cầu giai đoạn 1901 – 2012 Nguồn: “Giới thiệu Báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC và Một số thông tin liên quan” –Kỷ Quang Vinh, Văn phòng công tác BĐKH Cần Thơ. BĐKH không chỉ đơn thuần tác động tới tự nhiên mà còn là thách thức về kinh tế, xã hội của nhân loại. Xét về những tổn thất kinh tế, chi phí tiền bạc cho việc khôi phục thiệt hại sau những thiên tai do BĐKH đã làm thâm hụt vào ngân sách các quốc gia. Theo Báo cáo Stern (của chuyên gia kinh tế Nicolas Stern và cộng sự) thì, trong vòng 10 năm tới, “chi phí thiệt hại do BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước tính khoảng 7.000 tỉ USD; nếu chúng ta không làm gì để ứng phó thì thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5 - 20% tổng sản phẩm nội địa (GDP), còn nếu chúng ta có những ứng phó tích cực để ổn định KNK ở mức 550 ppm tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1% GDP” (Nicholas Stern, 2007) [92]. Được biết, tổng GDP toàn thế giới năm 2013 là 8,5 ngàn tỷ đô la (Ngân hàng thế giới, 2013) [44]. Như vậy, mỗi năm các công dân Trái đất phải chịu tổn thất kinh tế hàng tỷ đô cho việc khắc phục thiệt hại do BĐKH. Tại hội nghị về BĐKH do Liên Hợp Quốc tổ chức tại New York (Mỹ) vào ngày 23/9/2014, các chuyên gia chỉ ra rằng, cần hành động nhanh chóng để tránh các thảm họa trong tương lai như: những đợt nắng nóng, lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng. Ủy ban Toàn cầu về Kinh tế và Khí hậu cũng cho biết, trong vòng 15 năm tới, thế giới cần đầu tư 90.000 tỷ USD, trong đó tập trung vào 3 lĩnh vực chủ chốt là năng lượng xanh, xây dựng thành phố ít cacbon và sử dụng đất đai hợp lí. Điều đáng mừng, các quốc gia đang dần tìm được tiếng nói chung trong các nỗ lực cùng hành động ứng phó với BĐKH. Vừa qua, Hội nghị lần thứ 20 các Bên tham gia Công 5 ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH (COP20) và Hội nghị lần thứ 10 các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP10) vào tháng 12 năm 2014 tại Lima (Peru) đã diễn ra trong bối cảnh thuận lợi: Quỹ Khí hậu xanh đã nhận được cam kết đóng góp khoảng 9,7 tỷ USD cho ứng phó BĐKH, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về ứng phó với BĐKH giai đoạn sau 2020, EU nêu cam kết cắt giảm phát thải khí nhà kính giai đoạn 2020-2030 và, các nước ASEAN vừa ký tuyên bố chung ASEAN-Hoa Kỳ về BĐKH (Báo điện tử của Chính phủ Việt Nam, 2014) [74]. Tại COP21, thỏa thuận Paris - Thỏa thuận lịch sử toàn cầu chống biến đổi khí hậu Mục tiêu quan trọng của Thỏa thuận này giữ nhiệt độ của trái đất đến năm 2100 là không quá 2° và gắng tiến tới ngưỡng thấp hơn 1,5 độ C. Và đây cũng là lần đầu tiên, thế giới thống nhất là đặt mục tiêu đạt sự cân bằng giữa lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và hấp thụ từ rừng hay biển vào giữa thế kỷ này. Để đạt được mục tiêu này, các chính phủ cam kết ngăn chặn sự gia tăng của lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính một cách “sớm nhất có thể”. Thỏa thuận đưa ra, đến sau năm 2050, lượng khí thải do con người tạo ra phải được giảm xuống mức mà các khu rừng và đại dương có thể hấp thụ hoàn toàn. Tóm lại, trên phạm vi quốc tế, việc nghiên cứu, đánh giá BĐKH, tác động của nó cũng như đề xuất các giải pháp, chiến lược và kế hoạch ứng phó với BĐKH hiện nay đã trở thành vấn đề toàn cầu. BĐKH đang là một vấn đề được quan tâm hàng đầu trên các diễn đàn khoa học quốc tế và thu hút rất nhiều các nhà nghiên cứu tham gia. Các nghiên cứu và triển khai về các giải pháp thích ứng, đặc biệt là về sinh kế cho cộng đồng vùng ven biển đang được quan tâm nhiều và đó là một trong những hoạt động trọng tâm của nhiều nghiên cứu, dự án thuộc mảng thích ứng BĐKH hiện nay. Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề cần được thảo luận để có được sự đồng thuận như các nghiên cứu dựa vào cộng đồng đã không được chú trọng đúng mức (Reidlinger and Berkes, 2001) và các sản phẩm của mô hình khí hậu toàn cầu và các kịch bản là quá thiếu các thông tin chi tiết phục vụ quy hoạch có hiệu quả và các biện pháp thích ứng ở quy mô địa phương (Dolan and Walker, 2004). Ý tưởng về sinh kế được đề cập trong các tác phẩm nghiên cứu của Chambers vào những năm 1980. Về sau, khái niệm này xuất hiện nhiều hơn trong các nghiên cứu của Ellis, Barret và Reardon… Có rất nhiều định nghĩa về sinh kế như sau: 6 Chambers và Conway (1992) cho rằng sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (dự trữ, nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận) và các hoạt động cần có để đảm bảo phương tiện sinh sống. Sinh kế có thể được diễn tả như là sự kết hợp của các nguồn tài nguyên được sử dụng và các hoạt động được thực hiện để sống. Các tài nguyên đó có thể bao gồm cả các khả năng và kỹ năng của con người (vốn con người), đất đai, tiền tiết kiệm và trang thiết bị (vốn tự nhiên, vốn tài chính và vốn vật chất), và các dịch vụ hỗ trợ chính thức hoặc không chính thức cho các hoạt động (vốn xã hội) (Farrington và cs, 1999). Trong nhiều nghiên cứu của mình, Ellis (2010) cho rằng sinh kế bao gồm những tài sản, những hoạt động và cơ hội được tiếp cận đến tài sản và hoạt động đó (đạt được thông qua các thể chế và quan hệ xã hội), và theo đó các quyết định về sinh kế đều thuộc về mỗi cá nhân hay nông hộ. Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về sinh kế, tuy nhiên, có sự nhất trí rằng khái niệm sinh kế bao hàm nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động sống của mỗi cá nhân hay hộ gia đình. Kể từ Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro ở Brazil năm 1992, PTBV đã trở thành xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng tới. Theo đó, trong phát triển nông thôn xuất hiện xu hướng phát triển sinh kế bền vững bao gồm cả các mục tiêu giảm nghèo (Bộ TN & MT và CCWG, 2015). Trước đây, hoạt động sinh kế được hiểu là những phương tiện kiếm sống nhằm phục vụ nhu cầu cơ bản của cuộc sống (Ví dụ: thực phẩm, chỗ ở, quần áo, thuốc men...). Khái niệm về sinh kế bền vững cũng được hiểu là những nỗ lực để xoá đói giảm nghèo (Krantz, 2001). Tuy nhiên, các khái niệm đó chưa bao quát được hết mọi khía cạnh của hoạt động sinh kế, đặc biệt là các nguồn lực làm hạn chế hoặc tăng cường khả năng của con người. Khái niệm về sinh kế bền vững được Chambers và Conway (1992) mở rộng hơn. Sinh kế chỉ bền vững khi nó có thể đuong đầu và phục hồi sau các cú sốc, duy trì hoạc cải thiẹn nang lực và tài sản, và cung cấp các co họi sinh kế bền vững cho các thế hẹ kế tiếp; và đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cấp đọ địa phuong hoạc toàn cầu, trong ngắn hạn và dài hạn (Chambers Conway, 1992) Một số nghiên cứu của Barret và Reardon (2000) khẳng định các chính sách để xác định sinh kế người dân theo hướng bền vững được xác định liên quan chặt 7 chẽ đến bối cảnh kinh tế vĩ mô và tác động của các yếu tố bên ngoài. Các nghiên cứu này đã chỉ ra mối liên hệ giữa mức độ tăng trưởng kinh tế, cơ hội sinh kế và cải thiện đói nghèo của người dân. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của thể chế, chính sách cũng như các mối liên hệ và hỗ trợ xã hội đối với cải thiện sinh kế, xóa đói giảm nghèo. Sự bền vững trong các hoạt động sinh kế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như khả năng trang bị nguồn vốn, trình độ của lao động, các mối quan hệ trong cộng đồng, các chính sách phát triển… Tuy vậy, sự bền vững của tài nguyên thiên nhiên là yếu tố nền tảng trong quyết định một sinh kế có bền vững hay không. Dựa trên nền tảng nghiên cứu điển hình của Chambers và Conway, đã có rất nhiều lập luận được điều chỉnh cho khái niệm sinh kế bền vững. Đặc biệt quan trọng là đóng góp của Scoones và các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển(IDS) tại trường Đại học Sussex, Vương quốc Anh và Bộ phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFI Hình 3: Khung sinh kế bền vững của DFID KẾT QUẢ SINH KẾ CẤU TRÚC & QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI BỐI CẢNH TỔN THƢƠNG - Tăng thu nhập H - Sốc ảnh hƣởng & tiếp cận - Xu hƣớng - Tăng mức sống - Các cấp N S - Mùa vụ CHIẾN LƢỢC SINH KẾ chính quyền - Khu vực tƣ nhân P F - Giảm tình trạng dễ bị tổn thương - Cải thiện an ninh lương thực - Tăng tính bền vững khi sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên H: Nguồn vốn con ngƣời (Human Capital) F: Nguồn vốn tài chính (Financial Capital) N: Nguồn vốn tự nhiên (Natural Capital) P: Nguồn vốn vật chất (Physical Capital) S: Nguồn vốn xã hội (Social Capital) (Nguồn DFID, 2007) 8 Tổ chức DFID đã xây dựng khung sinh kế bền vững như là một công cụ nhằm xem xét những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sinh kế của con người. Đồng thời, khung sinh kế cũng nhằm mục đích tìm hiểu xem những yếu tố này liên quan với nhau như thế nào trong những bối cảnh cụ thể (Hình 1.2). Cách tiếp cận sinh kế bền vững để giảm nghèo đã được Krantz khẳng định và so sánh dựa trên ba khung phân tích sinh kế bền vững của UNDP, CARE và DFID. Trong đó, sinh kế bền vững được coi là phương pháp hữu hiệu nhất để xóa bỏ đói nghèo trong bối cảnh nhiều biến động như hiện nay. Như vậy, sinh kế bền vững là sinh kế: 1) Có thể phục hồi và đối mặt với các cú sốc và khủng hoàng; 2) Không quá phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài; 3) Duy trì và bảo tồn được tài nguyên; 4) Không bị suy yếu và suy giảm theo thời gian (Bộ TN & MT và CCWG, 2015). Nhiều tác giả (Scoones, 1998; DFID, 1999, 2001) đều thống nhất đưa ra một số chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của sinh kế trên 4 phương diện: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế: • Bền vững về kinh tế: được đánh giá chủ yếu bằng chỉ tiêu gia tăng thu nhập. • Bền vững về xã hội: được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như: tạo thêm việc làm, giảm nghèo đói, đảm bảo an ninh lương thực,cải thiện phúc lợi. • Bền vững về môi trường: được đánh giá thông qua việc sử dụng bền vững hơn các nguồn lực tự nhiên (đất, nước, rừng, tài nguyên thủy sản…), không gây hủy hoại môi trường (như ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường) và có khả năng thích ứng trước những tổn thương và cú sốc từ bên ngoài. • Bền vững về thể chế: được đánh giá thông qua một số tiêu chí như: hệ thống pháp luật được xây dựng đầy đủ và đồng bộ, qui trình hoạch định chính sách có sự tham gia của người dân, các cơ quan/tổ chức ở khu vực công và khu vực tư hoạt động có hiệu quả; từ đó tạo ra một môi trường thuận lợi về thể chế và chính sách để giúp các sinh kế được cải thiện một cách liên tục theo thời gian (Nguyễn Văn Sửu, 2010; Nguyễn Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu, 2017. Kinh tế và chính sách BĐKH, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân[53, 12]. 9 Cũng liên quan đến nghiên cứu về sinh kế và cộng đồng trong bối cảnh BĐKH, Badjeck và cộng sự (2010) ở Bangladesh nghiên cứu về tác động của những dao động và thay đổi khí hậu đến sinh kế dựa vào thủy sản cho biết, sự ấm lên toàn cầu ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực, đe dọa sinh kế của 36 triệu ngư dân và ảnh hưởng đến gần 1,5 tỷ người tiêu dùng thủy sản trên thế giới. Và để ứng phó với BĐKH thì cần chú ý: (i) cung cấp trước thông tin dự báo về BĐKH hỗ trợ cho lập kế hoạch ứng phó; (ii) cần công nhận và tận dụng các cơ hội có lợi từ BĐKH đối với ngành thủy sản, (iii) các chiến lược thích ứng với BĐKH cần được thiết kế trên quan điểm đa ngành, liên ngành, và (iv) phải ghi nhận những đóng góp tiềm năng của thủy sản trong các nỗ lực giảm nhẹ (Badjeck et al., 2010). 2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam Tại Việt Nam, nghiên cứu về BĐKH đã được tiến hành từ những thập niên 90 của thế kỷ 20. Tháng 6 năm 1992, để chuẩn bị tham gia Hội nghị Môi trường và Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc tại Rio de Janeiro, Brazin, 1992, các nhà khoa học Việt Nam đã thực hiện và công bố báo cáo “BĐKH và tác động của chúng ở Việt Nam”. Năm 1994, các nhà khoa học như Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu… đã tham gia thực hiện dự án “BĐKH ở châu Á” do ADB tài trợ; Bộ Thủy lợi chủ trì đã hoàn thành báo cáo về: 1) BĐKH ở Việt Nam trong 100 năm qua; 2) Tác động của BĐKH đến NBD và một số ngành kinh tế quốc dân; 3) Kiểm kê quốc gia KNK năm 1990 ở Việt Nam. Từ những năm 1998 - 2003, Tổng Cục Khí tượng Thủy văn, nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thành Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho UNFCCC, trong đó tổng kết BĐKH của Việt Nam trong 100 năm gần đây, kiểm kê quốc gia KNK 1993 và ước tính KNK các năm 2020, 2050, đánh giá tác động của nó đến các lĩnh vực KT-XH, xây dựng kịch bản BĐKH, kiến nghị các giải pháp giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH ở Việt Nam... (Bộ TN MT, 2003, 2008) [2]. Vào ngày 02/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 158/2008/QĐ – TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH (NTP-RCC) với mục tiêu chiến lược của Chương trình là nhằm nâng cao khả năng ứng phó với BĐKH của Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể; bảo đảm sự phát 10 triển bền vững của đất nước, ổn định cuộc sống của nhân dân (Bộ TN MT, 2008) [2]. Kể từ đó, nhiều hoạt động nghiên cứu, ứng dụng đã được triển khai. Một số cơ quan, ban, ngành chuyên phụ trách về vấn đề BĐKH cũng đã được thành lập nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng về BĐKH. Đặc biệt, trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH, nhiều đề tài, dự án cũng đã và đang được triển khai. Những hoạt động trên đã đem lại những hiệu quả nhất định trong vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng về BĐKH ở Việt Nam. Trong chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2011 – 2015 “Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH” được ban hành theo quyết định số 2630/QĐ-BKHCN ngày 29 tháng 08 năm 2011. Chương trình có 3 mục tiêu và 5 nội dung chính: i) Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng cơ sở dữ liệu về BĐKH và tác động của BĐKH đối với một số ngành , lĩnh vực dễ bị tổn thương; ii) Nghiên cứu bản chất khoa học của BĐKH; đánh giá thực trạng và mức độ của BĐKHở Việt Nam; iii) Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc đánh giá tác động của BĐKH, tính dễ tổn thương do BĐKHvà các giải pháp thích ứng với BĐKH; iv) Nghiên cứu cơ chế chính sách, định hướng công nghệ để giảm nhẹ BĐKH (cụ thể là làm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính), tận dụng các cơ hội để phát triển hướng tới nền kinh tế các-bon phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam, và; v) Nghiên cứu cơ sở khoa học để tích hợp vấn đề BĐKHvào các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành và địa phương. Từ năm 2011 đến 2013 đã có 33 nhiệm vụ của Chương trình được thực hiện (Trương Quang Học và nnk, 2014) [31]. Từ khi ký kết UNFCCC năm 1994 và KP năm 2002, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực, thông qua công tác xây dựng chính sách và luật pháp và đã có một số sáng kiến thích ứng và giảm nhẹ để ứng phó với những mối đe dọa từ BĐKH. Một đánh giá quan trọng về môi trường chính sách hiện hành liên quan đến thích ứng với BĐKH bao gồm: Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH (NTP-RCC) (2008), Định hướng Chiến lược Phát triển Bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21) (2008); Thông báo Quốc Gia lần thứ nhất cho UNFCCC (2003) đưa ra đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng đối với những 11 tác động của BĐKH dựa trên những mô hình đang sử dụng tại thời điểm đó và đưa ra những phương án giảm nhẹ KNK. Thông báo quốc gia thứ hai cho UNFCCC được hoàn thành năm 2010, bao gồm các phát hiện của các đánh giá sâu hơn về tính dễ bị tổn thương và thích ứng cũng như đưa ra một khung chính sách thực hiện những ứng phó mang tính chiến lược (Bộ TN MT, 2010) [5]; Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh trong đó chú trọng các giải pháp kinh tế nhằm giảm phát thải KNK và nâng cao khả năng thích ứng với BĐKH (QĐ của TTCP, 2014) [64]. Trong đánh giá tính dễ bị tổn thương, theo xu hướng của thế giới, từ đầu những năm 2000, ở Việt Nam, cũng đã có những nhà nghiên cứu, ứng dụng các lý thuyết và phương pháp đánh giá tính dễ bị tổn thương đối với các ngành khoa học khác nhau. Mai Trọng Nhuận và cs. (2004, 2009) đã nghiên cứu đánh giá tính dễ bị tổn thương về môi trường, vùng ven biển Việt Nam, đới duyên hải Nam Trung Bộ, đới ven biển Phan Thiết–Hồ Tràm, tài nguyên địa chất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu [47, 48]. Cũng theo hướng nghiên cứu này, Thái Thành Lượm và cs. (2008) đã đánh giá mức độ tổn thương hệ thống tự nhiên KT-XH vùng biển Hà Tiên – vịnh Cây Dương (Kiên Giang) [40]. Võ Hồng Tú và cs. (2012) đã đánh giá tổn thương sinh kế nông hộ bị ảnh hưởng lũ tại tỉnh An Giang và các giải pháp ứng phó. Kết quả của nghiên cứu này đã cho thấy được vốn sinh kế của người dân là dễ bị tổn thương cao khi có lũ. Thiên về hướng rủi ro kinh tế (Võ Hồng Tú và cs., 2012) [66]. Những nghiên cứu về vấn đề BĐKH đối với khu vực ven biển, hải đảo hoặc tác động của BĐKH đến nông nghiệp, cách tiếp cận hệ sinh thái trong ứng phó với BĐKH… những năm gần đây có nhiều đóng góp quan trọng trong đó có thể kể đến một số tác giả: Đinh Vũ Thanh và Nguyễn Văn Viết, 2013 với “Tác động của BĐKH đến các lĩnh vực Nông nghiệp và giải pháp ứng phó” [56]; Nguyễn Thị Kim Cúc, (2011) với nghiên cứu “Thích ứng của hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng ven biển dưới tác động của nước biển dâng – Nghiên cứu ở ĐB Sông Hồng” [9]; Trương Quang Học trong báo cáo “Tác động của BĐKH lên đất ngập nước” [28]; Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu, (2012) với “BĐKH và sinh kế ven biển” [12]; Nguyễn Hoàng Trí (2012) với báo cáo “Nghiên cứu và đề xuất phương pháp đánh 12 giá nhanh tính kết nối sinh thái của các Khu Dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam”; Kim Thị Thúy Ngọc, (2013) với “Lồng ghép cách tiếp cận thích ứng dựa vào HST trong các chính sách và chiến lược BĐKH”; Bùi Xuân Thông (2010) trong báo cáo “Xác định cơ sở khoa học và các giải pháp công trình bảo vệ bờ biển, đảo Việt Nam thích ứng BĐKH và giảm nhẹ thiên tai”; Nguyễn Văn Quân và Chu Thế Cường (2013) với “Đánh giá hiện trạng và tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh thái biển tiêu biểu trước tác động của BĐKH tại Khu DTSQ quần đảo Cát Bà”; Bùi Đại Dũng (2013) với “Một số phương pháp lượng giá tổn thất kinh tế do tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường”; Dư Văn Toán (2013) với báo cáo “Một số vấn đề về san hô thế giới trong bối cảnh BĐKH và đề xuất cho vùng biển Việt Nam”. Và đáng chú ý trong thời gian này phải kể đến những nghiên cứu của Trương Quang Học theo hướng tiếp cận liên ngành, xuyên ngành trong ứng phó với BĐKH và PTBV – một vấn đề mang tính liên ngành trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay (Trương Quang Học, 2008b, 2012, 2013). Đến năm 2011, Tổng cục Môi trường đã hoàn thành báo cáo “Điều tra, đánh giá và cảnh báo biến động của các yếu tố khí tượng thuỷ văn và sự dâng cao mực nước biển do BĐKH có nguy cơ gây tổn thương TN - MT vùng biển và dải ven biển Việt Nam, đề xuất các giải pháp phòng tránh và ứng phó”. Trong báo cáo đã phân tích, đánh giá biến động, xu thế và quy luật hoạt động của các yếu tố khí tượng, thủy văn gây tổn thất trong mối liên hệ với sự BĐKH, trong đó khẳng định bão, ATNĐ, gió mùa, thủy triều là các nhân tố chính tạo ra sự dâng, rút của mực nước biển [59]. Thực hiện Chương trình NTP-RCC, Bộ TN MT đã hoàn thành việc cập nhật Kịch bản BĐKH, NBD cho Việt Nam và chính thức công bố vào tháng 06 năm 2012. Năm 2014, Nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Khí tượng, Thủy văn và BĐKH gồm Mai Văn Khiêm và cs đã công bố đề tài "Nghiên cứu xây dựng Atlas khí hậu và BĐKH Việt Nam" thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH. Đây là một đóng góp quan trọng do đã đúc kết và minh họa được những quy luật, đặc điểm phân bố của khí hậu và BĐKH ở Việt Nam trong thế kỷ 20 và thập kỷ đầu của thế kỷ 21, đồng thời 13 cung cấp những thông tin cơ bản nhất về khí hậu và BĐKH phục vụ các hoạt động phát triển KTXH và ứng phó BĐKH [39]. Đặc biệt, cập nhật nghiên cứu về mảng cộng đồng và BĐKH có đóng góp của một số tác giả như: nhóm nghiên cứu Vũ Thị Diệu Hương và cs, (2013) có báo cáo “Đánh giá tác động của cơ chế chi trả cho hấp thụ cacbon đến ra quyết định và tính dễ bị tổn thương của hộ gia đình với BĐKH ở Việt Nam”; Lưu Thị Hương Giang, (2013) với “Thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và vấn đề sử dụng thông tin khí hậu”; Dư Văn Toán, (2013) có báo cáo “Tác động và giải pháp phòng chống thiên tai trước BĐKH dựa vào cộng đồng tại các xã bãi ngang vùng ven biển Việt Nam”; Phạm Thị Bích Ngọc và Trương Quang Học, (2013) có báo cáo “Nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân lực ứng phó với BĐKH cho các tổ chức phi chính phủ”. Qua kết quả nghiên cứu tổng hợp ở trên cho thấy, Việt Nam bước đầu đã có những nghiên cứu về BĐKH, gồm cả nghiên cứu đánh giá tác động và tìm kiếm các giải pháp ứng phó, trong đó đã chú ý nhiều đến vấn đề BĐKH tác động đến hệ sinh thái và cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng ven biển. Đáng lưu ý là các nghiên cứu đã xây dựng được hệ thống thể chế, xây dựng được kịch bản BĐKH và NBD của quốc gia và có những nghiên cứu, đánh giá tác động, khả năng ứng phó và các giải pháp thích ứng, giảm nhẹ BĐKH tại các địa phương. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay, ở các địa phương vùng ven biển Việt Nam, các nghiên cứu về BĐKH và tác động của BĐKH đến sinh kế cộng đồng vẫn còn thiếu chiều sâu và chưa đồng bộ. Nhiều địa phương còn thiếu những nghiên cứu chuyên sâu nhằm đánh giá toàn diện tác động của BĐKH đến tất cả các lĩnh vực tự nhiên, KT-XH và cộng đồng. Các nghiên cứu đánh giá nguy cơ tổn thương và năng lực ứng phó với BĐKH của cộng đồng các vùng biển, hải đảo ở Việt Nam cũng chưa được thực hiện đầy đủ, toàn diện trong khi các nguy cơ rủi ro về BĐKH – NBD và sự thay đổi các quy hoạch phát triển kinh tế vẫn gia tăng. Vì vậy, hướng nghiên cứu này trong thời gian tới cần được tiếp tục đẩy mạnh, đặc biệt là cần có thêm nhiều nghiên cứu về sức chống chịu và giải pháp tăng cường sức chống chịu của hệ sinh thái - xã hội của các vùng hải đảo trước tác động của BĐKH. 14 Ở Việt Nam đã có rất nhiều những nghiên cứu về sinh kế bền vững, tiêu biểu như Đinh Đức Thuận (2005) đã chỉ ra mối liên hệ giữa lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn. Dựa trên tiếp cận sinh kế bền vững, Trần Tiến Khai và Nguyễn Ngọc Danh (2012) đã thử sử dụng bộ số liệu điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 2008 và đã xác định mười chiều đo đại diện cho bốn nhóm tài sản sinh kế là vốn con người, vốn tự nhiên, vốn vật chất, và vốn tài chính của hộ gia đình nông thôn Việt Nam dựa trên các phương pháp thống kê đa biến. Sau đó, nghiên cứu này tiếp tục dựa vào khung phân tích sinh kế bền vững (DFID, 1999) để xác định các chỉ báo đo lường nghèo đa chiều cho hộ gia đình nông thôn Việt Nam và sử dụng bộ dữ liệu VHLSS 2010 để kiểm tra lại tính nhất quán của các chiều đo và các chỉ báo nghèo đa chiều. Trong khuôn khổ Chương trình nghiên cứu Việt Nam – Hà Lan giai đoạn II (1997 - 2002) đã có nhiều nghiên cứu phát triển nông thôn bền vững, trong đó một số những nghiên cứu giải pháp xây dựng mô hình kinh tế nông lâm ngư kết hợp ở Vườn Quốc gia Bạch Mã (Nguyễn Thị Nguyệt, 2005); Giải pháp phát triển kinh tế nông lâm nghiệp bền vững vùng đồi nghèo khó xã Viên Thành, Yên Thành, Nghệ An (Ngô Trực Nhà, 2005)… Những nghiên cứu này bước đầu xác lập cơ sở khoa học cho những giải pháp nhằm nâng cao tính bền vững của sinh kế nông thôn. Các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam đã thực hiện một số dự án nâng cao sinh kế theo hướng bến vững như “Dự án sinh kế bền vững cho phụ nữ nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc” do Liên minh Hợp tác xã Canada (CCA) tài trợ năm 2012; Dự án “Các tổ chức phi chính phủ Viêt Nam hướng tới sinh kế của các cộng đồng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc” của Trung tâm SRD. Hay trong khuôn khổ Dự án Giảm nghèo khu vực Tây Nguyên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối với với Ngân hàng Thế giới (2014) phát hành Sổ tay hướng dẫn thực hiện dự án: Phát triển sinh kế bền vững nhằm hướng dẫn các tổ chức thực hiện dự án thúc đẩy sinh kế bền vững hiệu quả. Một số những nghiên cứu trong khuôn khổ luận án tiến sĩ hay luận văn cao học của Nguyễn Văn Cường (2005), Phùng Văn Thạch (2012), Nguyễn Hoàng Hoa 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan