Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện hoài...

Tài liệu Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện hoài ân, tỉnh bình định

.PDF
67
79
133

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................. 9 1.1. Khái niệm và các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................................. 9 1.2. Khái quát lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 ........................................................................................ 14 1.3. Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong pháp luật một số nước trên thế giới .............................................................. 20 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BLHS NĂM 2015 VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ............................................................................. 26 2.1. Quy định của BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................... 26 2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định ........................................................ 36 CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ................................................................................................. 50 3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................... 50 3.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................... 52 KẾT LUẬN ................................................................................................. 58 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự. BLTTHS: Bộ luật Tố tụng Hình sự. NCTN: Người chưa thành niên. TNHS: Trách nhiệm hình sự. TAND: Tòa án nhân dân. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao. CTKGG: Cải tạo không giam giữ. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện đã được xét xử trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2020 .................................................................................. 38 Bảng 2.2. Thống kê các vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện đã được thụ lý, giải quyết trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định Định từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2020 ................................................................... 39 Bảng 2.3. Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2020 ............................................................................................................. 40 Bảng 2.4. Hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2016 đến 6 tháng đầu năm 2020 ............................................................................................................. 41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới đất nước, những năm qua tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Bình Định nói chung, huyện Hoài Ân nói riêng đã có những bước phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Đời sống của nhân dân được đảm bảo; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; đã triển khai và tổ chức thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả các loại tội phạm; công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đảm bảo đúng quy định pháp luật, không xảy ra oan sai, lọt tội phạm. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội cả nước nói chung, ở tỉnh và huyện nói riêng còn nhiều khó khăn; tình hình tội phạm chưa có chiều hướng giảm, các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính tiếp tục gia tăng và ngày càng phức tạp, trong đó có tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo thống kê, trong những năm gần đây, tình trạng tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ngày càng tăng cả về số lượng và mức độ phạm tội. Nếu những năm trước đây người người dưới 18 tuổi thường thực hiện các hành vi trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích không gây nguy hại lớn thì hiện nay thủ đoạn phạm tội của các đối tượng này không còn đơn giản do bồng bột, thiếu suy nghĩ, mà đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao. Từ đó có thể thấy, tình hình vi phạm pháp luật người dưới 18 tuổi gây ra tiếp tục diễn biến phức tạp với tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nguy hiểm. Có nhiều vụ án các bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù, chung thân hoặc tử hình, như các hành vi phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng như: giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, ma 1 túy...Do vậy, vấn đề quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trở thành vấn đề quan trọng; việc quy định TNHS và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS một cách hợp lý sẽ có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đáp ứng được yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước nói chung, trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định nói riêng. Chính sách hình sự của đảng và Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có vị trí quan trọng trong phòng, chống tội phạm ở nước ta, nên đã ban hành nhiều văn bản pháp luật với nhiều nội dung điều chỉnh đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do các cơ quan áp dụng pháp luật chưa nhận thức được đầy đủ các quy định của BLHS về trách nhiệm hình sự, hình phạt và việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, với các biểu hiện như: việc quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc tình tiết tăng nặng chưa đúng, đánh giá chưa chính xác căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; v.v… Ngoài ra, các quy định của BLHS về vấn đề này còn một số hạn chế, vướng mắc nhất định, chưa đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn xã hội, như: chưa quy định việc quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, mức cao nhất của khung hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt; v.v... Theo khảo sát, tính đến thời điểm hiện tại thì trên địa bàn tỉnh Bình Định chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ vấn đề về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện các quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từng bước đáp ứng 2 yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta giai đoạn hiện nay. Vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định” làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử, là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử, để việc quyết định hình phạt phải đảm bảo tính chính xác thì không thể tách rời với việc định tội danh chính xác. Ngoài việc định tội danh chính xác làm tiền đề cho hoạt động quyết định hình phạt thì Tòa án còn phải xem xét cân nhắc đến các yếu tố khác như tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa phương nơi có tội phạm xảy ra cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa, phòng chống tội phạm và các yếu tố khác được quy định trong BLHS để làm căn cứ quyết định hình phạt. Trong thực tiễn đã có nhiều công trình nghiên cứu và một số bài viết về hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội nói riêng như: 2.1. Các luận án, luận văn: Hồ Sĩ Sơn (2007), Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật; Hoàng Minh Đức (2016) Luận án tiến sĩ luật học “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Xuân Bốn, Luận văn thạc sĩ luật học “Các căn cứ quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương”, 2.2. Các sách tham khảo giáo trình:Võ Khánh Vinh (2002), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.Võ Khánh Vinh (1994) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản 3 (chủ biên), Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; TS. Hoàng Văn Hùng, “Chương XVI - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội”, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); PGS.TS. Trần Đình Nhã, “Chương XXIV - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội”, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003 (GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên); GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, “Chương 27 - Phòng ngừa các tội phạm do người chưa thành niên gây ra”, Trong sách: Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; ThS. Trịnh Đình Thể, Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; TS. Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến, Đỗ Văn Hán, TS. Trần Phàn, Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1987; 8) ThS. Trần Đức Châm, Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002... 2.3. Các bài báo khoa học: Võ Khánh Vinh (Tạp chí Luật học số 4/1986) “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”; Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội,ThS. Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề quyền của người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí điện tử ngày 20/8/2009 (Http://hvcsnd.edu.vn/); TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, 8/2010... 2.4. Những điểm kế thừa và phát triển 4 Luận văn là một công trình nghiên cứu dưới góc độ Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự, có sự tiếp thu tri thức của các công trình khoa học đã được công bố trước đây về vấn đề hình phạt và quyết định hình phạt người dưới 18 tuổi phạm tội, đi sâu phân tích, luận giải một cách có hệ thống và khoa học về những vấn đề khác nhau có liên quan đến lý luận và thực tiễn quyết định hình phạt người dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay, từ đó kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung, trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một cách tổng thể về lý luận, căn cứ pháp lý và thực tiễn Tòa án áp dụng quy định của BLHS Việt Nam khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định; luận văn chỉ ra những vướng mắt, hạn chế và một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau: - Tìm hiểu lý luận quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: khái niệm về quyết định hình phạt và quyết định người dưới 18 phạm tội; các căn cứ quyết định hình phạt và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp tư pháp; hình phạt và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 5 - Khái quát lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015. - Quy định về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. - Phân tích thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, qua đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại TAND huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định và nguyên nhân. - Luận văn đã chỉ ra yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự hiện hành về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua các báo cáo, các số liệu và các bản án của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ nghiên cứu và đánh giá thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự 6 đối với NCTN làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của mình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, như: Phương pháp phân tích; phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp so sánh; phương pháp giải quyết các vụ án điển hình để phân tích các căn cứ khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ đánh giá được thực trạng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thông qua kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và sử dụng trong thực tiễn quyết định hình phạt, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án khi giải quyết các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử phát triển quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 7 Chương 2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Chương 3. Những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm và các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em (The United Nation Convention on the Rights of the Child - CRC) đã định nghĩa “trẻ em” là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia có quy định khác. BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” để thay thế cho thuật ngữ “người chưa thành niên” được sử dụng trong BLHS năm 1999. Như vậy, theo quy định của BLHS năm 2015 thì tất cả những người chưa thành niên đều được gọi là người dưới 18 tuổi, người từ đủ 18 tuổi trở nên được tham gia vào mọi quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi mà mình đã thực hiện. Dựa trên đặc điểm về tâm lý của người chưa thành niên, cho thấy người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, còn hạn chế về nhận thức và kỹ năng sống, dễ bị kích động, lôi kéo vào các hoạt động mang tính thiếu suy nghĩ dẫn đến vi phạm pháp luật. Do vậy, việc chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên là trách nhiệm của Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Trong quá trình xây dựng pháp luật, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắn, từng bước hoàn thiện chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, đáp ứng với nội dung của Công ước năm 1989“Trẻ em do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” và Quy tắc của Liên hiệp quốc thông qua ngày 14-12-1990. 9 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục..”(Điều 37). Luật trẻ em năm 2016 quy định: “...Không phân biệt đối xử với trẻ em. Bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...”. Hiến pháp và pháp luật nước ta luôn coi trẻ em, người dưới 18 tuổi là đối tượng cần bảo vệ, chăm sóc và quan tâm đặc biệt đối với cả hai trường hợp, khi họ là chủ thể của tội phạm cũng như khi họ là nạn nhân của tội phạm. Nhận thức này đã được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự cũng như pháp luật về phòng ngừa tội phạm, là cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Như vậy, người chưa thành niên phạm tội nói chung là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự chưa đến tuổi trưởng thành nhưng có năng lực trách nhiệm hình sự và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Vận dụng vào các điều kiện cụ thể trong pháp luật thực định của Việt Nam thì khái niệm này được định nghĩa như sau: Người chưa thành niên phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ 14 nhưng chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Bộ luật hình sự quy định là loại tội phạm mà người đó phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm phải. 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Trong thực tiễn có rất nhiều khái niệm khác nhau về vấn đề này, như: TS. Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: Quyết định hình phạt“Là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Toà án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để 10 quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) mức hình hạt cụ thể áp dụng cho các nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức đọ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự”. TS. Nguyễn Văn Hiện đưa ra định nghĩa Quyết định hình phạt là: “Kết quả pháp lý của quá trình điều tra, truy tố, xét xử, là kết quả mang tính Nhà nước về áp dụng loại và hình phạt đối với người phạm tội”. Theo TS. Phạm Minh Tuyên thì khái niệm này được hiểu là: “Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án trong việc cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao hồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội”. Như vậy, có thể khẳng định: Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử, để việc quyết định hình phạt phải đảm bảo tính chính xác thì không thể tách rời với việc định tội danh chính xác. Ngoài việc định tội danh chính xác làm tiền đề cho hoạt động quyết định hình phạt thì Tòa án còn phải xem xét cân nhắc đến các yếu tố khác như tình hình kinh tế - xã hội của từng địa phương nơi có tội phạm xảy ra cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm và các yếu tố khác được quy định trong BLHS để làm căn cứ quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội là trường hợp đặc biệt; tính chất này thể hiện khi quyết định hình phạt phải nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Lý do người người dưới 18 tuổi được hưởng chính sách hình sự đặc biệt của Nhà nước khi 11 họ có hành vi phạm tội, vì người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường thiếu chín chắn, họ dễ bị kích động, lôi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục tốt, người người dưới 18 tuổi dễ bị ảnh hưởng dẫn đến vi phạm pháp luật. Cho nên, người dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự khác với người trên 18 tuổi. Chính vì thế, khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên. Như vậy, có thể xem: “Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là việc Hội đồng xét xử lựa chọn và đưa ra chế tài hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, theo quy định pháp luật hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các đặc điểm nhân thân của người dưới 18 tuổi và những chính sách hình sự đặc biệt đối với họ”. 1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Luật Hình sự là một hệ thống các nguyên tắc để chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Vì vậy, hoạt động quyết định hình phạt nhất định phải chịu sự tác động bởi các nguyên tắc chung của Luật Hình sự. Tuy nhiên, để quyết định hình phạt một các chính xác đối với người phạm tội, các nguyên tắc chung của luật hình sự phải được cụ thể hóa thành các nguyên tắc riêng trong hoạt động quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử nhằm đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách đúng đắn đối với người phạm tội bị kết án. Khi quyết định hình phạt, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc cá thể hóa hình phạt [16, tr.237]. Tuy nhiên, cũng có một số nhà khoa học bổ sung 12 thêm nguyên tắc công bằng. Tác giả tán thành với quan điểm cho rằng trong quyết định hình phạt phải có nguyên tắc công bằng vì, “quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề, điều kiện để đạt được các mục đích của hình phạt... Nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt đòi hỏi Tòa án phải tuyên hình phạt phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội chúng ta… định hướng để Tòa án quyết định hình phạt dựa trên cơ sở pháp luật và công bằng”. Ngoài những nguyên tắc chung, Tòa án còn phải tuân thủ các nguyên tắc riêng khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể như sau: - Nguyên tắc giảm nhẹ hình phạt: Như đã nêu trên, người dưới 18 tuổi phạm tội là những người chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, khả năng nhận thức hạn chế, hành vi bồng bột, dễ bị rủ rê, tác động nên việc trừng phạt họ cần khoan hồng hơn so với người đã thành niên. Do đó, hình phạt phải được quyết định đối với người dưới 18 tuổi theo hướng giảm nhẹ; tuy nhiên, mức độ giảm nhẹ hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi được xác định trong khuôn khổ luật định chứ không phải giảm nhẹ một cách tùy tiện dẫn đến không tương xứng với hành vi phạm tội. * Nguyên tắc coi trọng và đề cao mục tiêu giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội: Việc quyết định hình phạt nói chung đều nhằm đến kết quả đạt được các mục đích của hình phạt là: trừng trị, cải tạo, phòng ngừa nhưng trong quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên thì mục tiêu giáo dục, cải tạo cần đặc biệt coi trọng hơn. Bản chất của con người không phải sẵn có khi người đó sinh ra, điều đó thể hiện trong câu thơ của Hồ Chủ tịch: “Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Do không phải bản chất sẵn có của tất cả người phạm tội nên dù có phạm lỗi đến đâu đều có khả năng giáo dục để trở thành một công dân có ích. Người dưới 18 tuổi lại càng có khả năng phục thiện cao hơn vì tâm sinh lý của họ đang trong 13 quá trình hình thành, dễ cải tạo nếu nhận được sự giáo dục, giúp đỡ, khi hoàn lương họ cũng có nhiều cơ hội đóng góp cho xã hội hơn so với người đã thành niên. Vì vậy, khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội phải đặt mục tiêu giáo dục lên hàng. - Nguyên tắc không áp dụng các hình phạt đặc biệt nghiêm khắc: Xuất phát từ nguyên tắc giảm nhẹ và coi trọng mục tiêu giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội, nên những hình phạt nghiêm khắc cần cần phải được loại bỏ. Bởi vậy, trong hệ thống hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không có loại hình phạt loại bỏ hoàn toàn người phạm tội ra khỏi xã hội như hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. Hình phạt tù có thời hạn cũng được hạn chế áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Nguyên tắc hạn chế việc cách ly người dưới 18 tuổi phạm tội khỏi đời sống xã hội: Người dưới 18 tuổi hầu hết là những người chưa có khả năng sinh sống độc lập mà còn lệ thuộc vào sự nuôi dưỡng, quan tâm, chăm sóc, giáo dục của gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội nơi họ sinh sống. Đó cũng là môi trường cần thiết cho sự phát triển nhân cách bình thường của người chưa thành niên. Do vậy, khi lựa chọn biện pháp xử lý chưa thành niên phạm tội cần hạn chế tối đa việc áp dụng hình phạt cách ly họ khỏi môi trường sống bình thường, bảo đảm cho họ có thể cải tạo, giáo dục trong môi trường ngoài xã hội. 1.2. Khái quát lịch sử phát triển quy định của pháp luật về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 Từ năm 1945 đến trước năm 1985, Nhà nước ta đã nỗ lực ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự, nhưng trong giai đoạn này vấn đề quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chưa được đề cập đến một cách chính thức trong các văn bản luật 14 mà chủ yếu thể hiện qua các hướng dẫn áp dụng pháp luật của ngành Tòa án, nguyên nhân là do điều kiện chiến tranh, hạn chế về công tác lập pháp…Chỉ thị số 46-TH ngày 14/01/1969 của TANDTC về việc tăng cường và phát huy hơn nữa tác dụng của Tòa án trong công tác bảo vệ trật tự, trị an, bảo vệ tài sản của nhà nước và quản lý thị trường ở thành phố Hà Nội đã lần đầu tiên đề cập đến NCTN, trong đó có quy định: Đối với trẻ em hư dưới 14 tuổi thì không đưa ra Tòa án xét xử; từ 14 đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần thiết phải đưa xét xử thì châm trước đến tuổi còn non trẻ của chúng; riêng đối với loại từ 14 đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Chỉ thị này đã quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và phân hóa mức độ chịu TNHS của NCTN, theo đó người từ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng nếu chưa đến 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Hơn nữa, Chỉ thị bước đầu đề ra yêu cầu của việc xem xét TNHS (là nền tảng của nguyên tắc quyết định hình phạt) đối với NCTN phạm tội. Sau Chỉ thị số 46-TH, Báo cáo tổng kết của TANDTC tiếp tục hướng dẫn đường lối xử lý NCTN phạm tội: Về nguyên tắc, từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu TNHS. Đối với độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi, nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhưng so với người lớn cần xử nhẹ hơn. Hướng dẫn này có một bước tiến trong quy định về tuổi chịu TNHS, phải là tuổi đủ - “đủ 14 tuổi tròn trở lên” chứ không phải là đến 14 tuổi. Mức độ chịu TNHS tương ứng với tuổi của NCTN phạm tội cũng được phân hóa rõ ràng hơn. Mặc khác, Báo cáo đã đặt ra những yêu cầu của quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội: xử nhẹ hơn người lớn và nhằm mục đích giáo dục là chủ yếu. Báo cáo tổng kết cũng đề xuất việc ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp thay vì hình phạt tù đối với NCTN phạm tội. Xử phạt tù giam, nhất là những án phạt tù ngắn hạn hoàn toàn không thích hợp với lứa tuổi đó và cũng không đạt được một tác 15 dụng thiết thực nào. Quan điểm nhận thức được thống nhất ở đây là hình phạt tù không thích hợp và hiệu quả để cải tạo NCTN phạm tội nên khi xét xử đối tượng này, các tòa án phải ưu tiên áp dụng các biện pháp như: giao cho gia đình bảo lãnh và giáo dục hoặc cho hưởng án treo. Do chưa có một Bộ luật thống nhất, nên ở giai đoạn này quy định về quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội cũng nằm rải rác trong cả các văn bản hướng dẫn về tội phạm cụ thể. Chẳng hạn như về các tội phạm tình dục, Hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/2/1967 của Tòa án nhân dân tối cao đã đề ra yêu cầu áp dụng biện pháp tư pháp thay thế hình phạt nhằm mục đích giáo dục NCTN phạm tội: Riêng đối với các can phạm còn ít tuổi (phạm tội hiếp dâm), cần phân biệt đối với những can phạm trong lứa tuổi, từ khoảng 14 đến 16, chủ yếu dùng những biện pháp giáo dục như: giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục; giữ trong các trại giáo dưỡng vị thành niên; chỉ trong một số ít trường hợp có tình tiết thực sự nghiêm trọng mới cần xét xử. Những biện pháp tư pháp được đề xuất ở đây cho đến hiện nay vẫn còn nguyên giá trị sử dụng (được quy định chính thức trong BLHS hiện hành bằng biện pháp - Đưa vào trường giáo dưỡng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn). Không chỉ đề xuất áp dụng biện pháp tư pháp, Hướng dẫn 329-HS2 còn nêu căn cứ quyết định hình phạt và xác định mức hình phạt giảm nhẹ cụ thể trong trường hợp cần áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội: Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ cải tạo, giáo dục, đến việc NCTN nhận thức chưa đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi…. Vấn đề loại trừ hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội cũng đã được đặt ra trong hoạt động quyết định hình phạt bởi Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người: Vì tội giết người là một tội hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan