Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền tư pháp theo hiến pháp năm 2013...

Tài liệu Quyền tư pháp theo hiến pháp năm 2013

.PDF
96
104
139

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM PHƢƠNG THẢO QUYỀN TƢ PHÁP THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM PHƢƠNG THẢO QUYỀN TƢ PHÁP THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013 Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các luận điểm, nội dung nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Phƣơng Thảo MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: QUYỀN TƢ PHÁP TRONG CHÍNH THỂ NHÀ NƢỚC HIỆN ĐẠI ............................................................................................ 8 1.1. Quyền tư pháp trong chính thể cộng hòa tổng thống .......................... 18 1.2. Quyền tư pháp trong các chính thể đại nghị ....................................... 21 1.3. Quyền tư pháp trong chính thể cộng hòa lưỡng tính .......................... 22 1.4. Quyền tư pháp trong chính thể các nhà nước xã hội chủ nghĩa .......... 23 Chƣơng 2: QUYỀN TƢ PHÁP THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013 ......................................................................................................28 2.1. Đặc điểm của quyền tư pháp ............................................................... 28 2.2. Nội dung của quyền tư pháp ............................................................... 32 2.3. Một số hạn chế trong các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tư pháp ...................................................................................... 38 Chƣơng 3: NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013 ............................ 43 3.1. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ............... 45 3.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân .................................................. 53 3.3. Vai trò của Thẩm phán ........................................................................ 59 3.4. Những vấn đề còn cần nghiên cứu ...................................................... 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1. CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 2. CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 3. HĐTP Hội đồng Thẩm phán 4. HTND Hội thẩm nhân dân 5. TAND Tòa án nhân dân 6. TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 7. TATC Tòa án tối cao 8. TCTAND Tổ chức Tòa án nhân dân 9. VKS Viện Kiểm sát 10. VKSND Viện Kiểm sát nhân dân 11. XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quyền lực nhà nước bao gồm 3 thứ quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp lần đầu tiên được xuất hiện trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật của Montesquieu” (xuất bản lần đầu vào năm 1748). Tại quyển XI của tác phẩm nổi tiếng này, Montesquieu đã giải thích quyền lập pháp là quyền “làm ra luật,… sửa đổi hay hủy bỏ luật (đã ban hành), còn quyền hành pháp là quyền “quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược”, còn quyền tƣ pháp là quyền “trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân”. Nếu coi việc trừng trị tội phạm chính là việc giải quyết một tranh chấp công giữa nhà nước và người phạm tội thì có thể nói gọn lại, trong quan niệm của Montesquieu, quyền tƣ pháp chính là quyền xét xử các tranh chấp giữa các chủ thể pháp lý trong xã hội. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ việc. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nói cách khác, một trong những “đầu vào” khi thực hiện quyền tƣ pháp chính là pháp luật sản phẩm của quyền lập pháp. Việc thực hiện quyền tư pháp chính là một trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và được tôn trọng về mặt thực tế. Quan niệm trên cũng được chia sẻ ở nhiều quốc gia trên thế giới, quyền tư pháp không chỉ đơn thuần được hiểu là quyền áp dụng các quy định của pháp luật vào các tranh chấp cụ thể để xác định sự đúng sai, hợp pháp hay bất hợp pháp trong hành vi của con người, từ đó, xác định biện pháp chế tài tương 1 ứng, mà còn bao gồm quyền giải thích pháp luật để phục vụ việc giải quyết vụ việc ấy. Ở một số quốc gia có thiết lập cơ chế bảo hiến theo mô hình Tòa Tối cao là cơ quan bảo hiến hoặc thành lập Tòa Hiến pháp, thì quyền tư pháp còn bao hàm cả quyền tuyên vi hiến các đạo luật, các hành vi của các nhánh quyền lực nhà nước. Thêm vào đó, ở các nước theo hệ thống luật án lệ (common law), quyền tư pháp còn được hiểu bao gồm cả quyền tạo ra án lệ. Như vậy, quan niệm về quyền tư pháp của Montesquieu cũng như ở các nước với quan niệm về quyền tư pháp mà các học giả Việt Nam sử dụng có thể có sự khác biệt nhất định, nhưng về cơ bản, các quan niệm này đều thống nhất với nhau rằng, quyền tƣ pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dƣạ trên các quy đinh ̣ của pháp luâ ̣t [15, tr. 105-106]. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa người dân hoă ̣c t ổ chức do người dân lập ra (như doanh nghiê ̣p, hơ ̣p tác xã , tổ chức xã hô ̣i v .v.) với nhau nhưng đó cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan nhà nước với người dân, tổ chức do người dân lập nên. Trong một thời gian dài trước khi thành lập các thiết chế tài phán hành chính, quyền tư pháp không bao hàm quyền xét xử các vụ án hành chính. Tuy nhiên, với việc tiếp thu ngày càng nhiều hơn những yếu tố hợp lý trong lý thuyết phân quyền vào thiết kế bộ máy nhà nước, quyền tư pháp ở nước ta đã từng bước mở rộng. Theo đó, tòa án không chỉ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, mà còn xét xử cả các vụ án hành chính. Mặc dù vậy, cho tới nay, tòa án Việt Nam vẫn chưa được chính thức trao cho thẩm quyền xét xử tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật. Tòa án Việt Nam cũng chưa được phép tiến hành việc xét xử các vụ khiếu kiện liên quan tới các quyết định hành chính do những người có thẩm quyền cao hơn cấp Bộ trưởng ban hành. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 về “Chiến 2 lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng chỉ rõ: các cơ quan tư pháp không chỉ là tòa án, mà còn bao gồm cả các viện kiểm sát, các cơ quan điều tra và cả các cơ quan thi hành án (dân sự hoặc hình sự). Theo đó, quyền tư pháp còn bao gồm cả việc hợp lý hóa lại thẩm quyền, chức năng, cơ cấu, tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ của hệ thống tòa án (dù coi tòa án là trung tâm của nền tư pháp), hệ thống viện kiểm sát, hệ thống cơ quan điều tra, hệ thống cơ quan thi hành án, hệ thống các thiết chế bổ trợ tư pháp. Có thể thấy rằng, cho tới hiện nay, quan niệm về “Quyền tư pháp” ở Việt Nam và ở các nước phát triển, tuy có chung điểm cốt lõi là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên quy định của pháp luật một cách độc lập nhưng đi vào chi tiết thì vẫn còn nhiều điểm khác biệt. Trong đợt sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, đã không ít ý kiến đề xuất mở rộng nội hàm quyền tư pháp ở Việt Nam, thậm chí có ý kiến còn đề xuất cho phép tòa án được quyền xét xử cả hành vi của những cơ quan công quyền ở cấp rất cao. Xu hướng mở rộng quyền tư pháp như vậy và cùng với nó là đảm bảo tốt hơn yêu cầu độc lập xét xử của tòa án là điều hoàn toàn có thể dự báo được, nhất là khi lý tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân mà Đảng ta chủ trương ngày càng có cơ sở xã hội và hiện thực để thực hiện. Chính vì vậy học viên đã lựa chọn đề tài “Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013” để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đều quan tâm tập trung theo một góc độ nhất định, giá trị mà các công trình nghiên cứu đó hướng tới là sự hoàn thiện tổng thể. Trong đó, học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học tiêu biểu có thể kể đến như sau: - GS.TS. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), "Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền", Hà Nội - Nhà xuất bản tư pháp, 2004; 3 - GS. TS. Nguyễn Đăng Dung (2010), "Cải cách tổ chức và hoạt động hệ thống toà án của Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền"; - TS. Trịnh Tiến Việt (2012), “Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí toà án nhân dân; - GS. TS. Võ Khánh Vinh (2003), “Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật; - Nguyễn Đức Minh –Đề tài khoa học cấp bộ (2009 – 2010), “Một số vấn đề cơ bản về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”; - Nguyễn Thị Hạnh (2001), “Quyền tư pháp trong mối quan hệ với các quyền lập pháp, hành pháp theo nguyên tắc phân chia quyền lực”. Bên cạnh đó, còn rất nhiều các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập đến Quyền tư pháp trên phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về Quyền tư pháp theo Hiến pháp năm 2013. Có thể khẳng định đây là một đề tài nghiên cứu riêng, không bị trùng lặp với những đề tài nghiên cứu trước đó. 3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát - Luận văn hướng tới mục tiêu nhằm tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chức năng thực thi quyền tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới đáp ứng những yêu cầu của Hiến pháp 2013 vừa được ban hành, hướng tới xây dựng một xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Luận văn sẽ góp phần nhỏ trong việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp ở nước ta, trở thành một trong những tài liệu tham khảo có ý nghĩa, phục vụ cho việc cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả thực thi quyền tư pháp trong thực tiễn. 4 3.2. Mục tiêu cụ thể Trên cơ sở những mục tiêu tổng quát kể trên, học viên xác định một số mục tiêu cụ thể cần phải thực hiện để đạt được mục tiêu tổng quát như sau: - Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về Quyền tư pháp. - Đánh giá thực trạng việc thực thi quyền tư pháp ở nước ta để thấy rõ được những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện chức năng tư pháp của mình. - Nghiên cứu đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền tư pháp. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Hiện nay số lượng công trình nghiên cứu về Quyền tư pháp ở Việt Nam và trên thế giới còn khá hạn chế. Đề tài mà học viên chọn làm đề tài luận văn lần đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề về Quyền tư pháp. Luận văn sẽ đưa được ra các điểm mới như: - Làm rõ khái niệm và các vấn đề lý luận về Quyền tư pháp. - Nghiên cứu xem xét các vấn đề về Quyền tư pháp của một số nước trên thế giới - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như những quy định mới về Quyền tư pháp theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 (có hiệu lực từ ngày 01-6-2015, sau đây gọi tắt là “Luật TCTAND”) từ đó có những sửa đổi các luật phù hợp với các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tư pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước, về quyền tư pháp của Tòa án quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND và đánh giá thực tiễn thực thi 5 quyền tư pháp của TAND trong những năm gần đây, đồng thời cũng mở rộng nghiên cứu quyền tư pháp của một số quốc gia khác trên thế giới. Qua đó thấy được những hạt nhân hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền tư pháp ở nước ta. 5.2 Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quyền tư pháp được thực thi bởi Tòa án - chủ thể chủ yếu thực thi quyền tư pháp mà không nghiên cứu việc thực thi quyền tư pháp của các chủ thể khác. Đồng thời, cũng để đánh giá được thực tiễn thực thi quyền tư pháp của Tòa án một cách chính xác và đầy đủ nhất. 6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu kể trên, nội dung nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tư pháp như: Khái niệm quyền tư pháp, đặc điểm, vị trí, vai trò quyền tư pháp của Tòa án, phân tích các quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định về quyền tư pháp của Tòa án… Trên cơ sở xác định được những vấn đề lý luận cơ bản, nội dung nghiên cứu tiếp theo luận văn đi vào đánh giá những quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực thi quyền tư pháp qua các giai đoạn để thấy được những kết quả đã đạt được, những kết quả còn hạn chế. Qua đó xác định nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại và đề ra các phương hướng giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền tư pháp. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn vận dụng trực tiếp những vấn đề phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, khảo sát thực tế.... 6 7. Kết cấu luận văn Luận văn sẽ được thực hiện với khối lượng phù hợp các yêu cầu trên cơ sở mục đích, phạm vi, nhiệm vụ và mức độ nghiên cứu của vấn đề. Trên cơ sở yêu cầu đó, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 Chương: Chương 1: Quyền tư pháp trong chính thể nhà nước hiện đại. Chương 2: Quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Chương 3: Những nội dung mới của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân theo Hiến pháp năm 2013. 7 Chƣơng 1 QUYỀN TƢ PHÁP TRONG CHÍNH THỂ NHÀ NƢỚC HIỆN ĐẠI Khái niệm quyền tư pháp Theo quan niệm phổ biến trong khoa học chính trị và khoa học pháp lý, quyền lực nhà nước là một chỉnh thể thống nhất của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền tư pháp là một nhánh quyền lực nhà nước. Nói đến “tư pháp” là “khái niệm dùng để chỉ các cơ quan tòa án, việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án”. Khái niệm tư pháp như vậy chưa thật chuẩn xác, bởi nó vừa chỉ chủ thể (các cơ quan tòa án), vừa chủ hoạt động xét xử của các cơ quan đó và hoạt động của các cơ quan khác như cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án. Theo nghĩa hẹp hơn nhận thức trên, thuật ngữ “tư pháp” trong cuốn từ điển Luật học được định nghĩa là công việc tổ chức, giữ gìn, bảo vệ pháp luật. Nói đến tư pháp là nói đến công lý, công bằng, là việc phân xử và phán xét các vi phạm pháp luật và tranh chấp trong xã hội phù hợp với pháp luật. Về mặt lý thuyết, trên thế giới cũng như ở Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về quyền tư pháp. Ở các quốc gia có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước theo học thuyết tam quyền phân lập, quyền tư pháp được xác định là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử (tài phán) do tòa án thực hiện. Ở các quốc gia có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc quyền lực thống nhất, quyền tư pháp được phân công cho tòa án và các cơ quan khác thực hiện. Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, nguyên tắc tập quyền XHCN được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy không ghi nhận trong các 8 văn kiện chính thức nhưng trên thực tế, tập quyền XHCN đã trở thành một nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước (và được coi như sự phủ định nguyên tắc phân chia quyền lực trong nhà nước tư sản). Khi công cuộc Đổi mới bắt đầu, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra nhiệm vụ “thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) khẳng định Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991). Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan tư pháp” được khẳng định. Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực, về sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một quan điểm chính trị - pháp lý khái quát, được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013, đặt cơ sở ở tầm hiến định cho việc xác định nội dung của quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, nguyên tắc này mới dừng lại trong phạm vi của một công thức tổng quát, chưa được cụ thể hóa trên các bình diện về chủ thể, phạm vi, nội dung, cách thức tổ chức thực hiện của quyền tư pháp. Quyền tƣ pháp (judicial power) là “thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy” [25]. Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền tư pháp được định nghĩa là “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính” [23, tr. 657], quyền tư pháp được định nghĩa là quyền “xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp, vi phạm pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước; bảo vệ pháp 9 luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an toàn xã hội” [17, tr.60]. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động “phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật” [8, tr.11]. Phạm vi, đặc điểm của quyền tư pháp Từ những kết quả nghiên cứu lý thuyết và xét từ phương diện chủ thể thực hiện, quyền tư pháp với tư cách là một bộ phận của quyền lực nhà nước được hiểu theo phạm vi và mức độ sau: Thứ nhất: Quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp gồm: cơ quan xét xử (tòa án nhân dân), cơ quan điều tra, cơ quan công tố, cơ quan thi hành án; các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định tư pháp…) Thứ hai: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Có thể thấy Quyền tư pháp theo cách hiểu trên được thực hiện không chỉ thông qua hoạt động xét xử mà cả các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử như hoạt động điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp. Trong các hoạt động trên của quyền tư pháp, quyền xét xử đóng vai trò trung tâm. Ở nhiều quốc gia, ngoài hoạt động xét xử, tòa án còn thực hiện nhiều hoạt động khác như kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của những người có chức vụ, quyền hạn; giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật. Nhận thức về quyền tư pháp theo phương diện chủ thể thực thi quyền 10 tư pháp dựa trên và phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển Macxit về phân công thực hiện quyền lực nhà nước nhưng nếu xếp các cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, Bộ Tư pháp và thanh tra vào các cơ quan tư pháp thì sẽ không phân biệt được rõ ràng chức năng hành pháp và chức năng tư pháp. Các cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, Bộ Tư pháp, thanh tra về bản chất là cơ quan hành pháp. Trong quan niệm nói trên về quyền tư pháp, không chỉ các cơ quan nhà nước mà cả các tổ chức không phải cơ quan nhà nước chẳng hạn như các tổ chức bổ trợ tư pháp hoạt động theo pháp luật cũng tham gia vào việc thực hiện quyền tư pháp. Nếu như vậy thì quyền tư pháp không còn được hiểu như là một loại quyền lực nguyên nghĩa trong quyền lực nhà nước, bởi trong quan niệm đang được đề cập ở đây có sự xã hội hóa trong thực hiện quyền lực nhà nước. Mục tiêu và mục đích hoạt động của chủ thể được xem như là tiêu chí chủ yếu để phân nhóm cơ quan tư pháp. Theo đó, các cơ quan, tổ chức nào thông qua hoạt động của nó trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà nước và xã hội được xem là cơ quan tư pháp. Thứ ba: Quyền tư pháp được hiểu là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng tư pháp, liên quan trực tiếp đến việc giải quyết các vụ án, các tranh chấp pháp luật và hướng tới mục đích giải quyết các vụ án, tranh chấp một cách đúng đắn, khách quan. Phù hợp với quan niệm này, hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra, hoạt động công tố của viện kiểm sát và hoạt động xét xử của tòa án. Tuy các cơ quan bổ trợ của tư pháp như cơ quan công chứng, giám định, bào chữa… tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp hoặc giải quyết vụ án nhưng hoạt động của các cơ quan này không mang tính tư pháp mà chỉ góp phần giúp cho việc giải quyết vụ án, giải quyết các tranh chấp pháp luật 11 được đúng đắn, khách quan khi có yêu cầu từ phía cơ quan tiến hành tố tụng hoặc từ phía người tham gia tố tụng. Quyền tư pháp được xác định là một loại quyền lực nhà nước, do vậy việc tổ chức thực thi loại quyền lực này phải được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước. Trong thực hiện quyền tư pháp là cơ quan được giao thẩm quyền xác định tính đúng pháp luật của một sự kiện pháp lý xảy ra. Quyền tư pháp phải luôn được thể hiện thông qua việc giải quyết vụ án, giải quyết các tranh chấp pháp luật. Quá trình thực thi quyền tư pháp là quá trình tìm kiếm và xác định xem sự kiện xảy ra có đúng pháp luật hay không. Khi phát hiện được hành vi không đúng pháp luật thì xác định trách nhiệm pháp lý áp dụng với chủ thể vi phạm. Như vậy tòa án được coi và trở thành biểu tượng cho người dân vào công lý của nhà nước. Xét xử là khâu trung tâm của quá trình thực thi quyền tư pháp. Không có cơ quan nào trong hệ thống quyền lực nhà nước có thể đảm nhiệm đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và khôi phục các quyền đã bị xâm phạm như tòa án. Song, để đảm bảo tính khách quan, bảo đảm sự độc lập của tòa án nên dù là tư pháp hình sự hay tư pháp dân sự, tòa án cũng không thể tự mình làm phát sinh chức năng tố tụng của mình. Để chức năng xét xử của tòa án vận hành được và thủ tục tố tụng tư pháp tại tòa án được tiến hành thì phải có các hoạt động tố tụng tư pháp được tiến hành trước đó (đó là hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra, hoạt động truy tố của viện kiểm sát). Trong các vụ án hình sự, các hoạt động điều tra, truy tố là tiền đề dẫn đến tố tụng tòa án. Tuy nhiên, trong các vụ án phi hình sự, nghĩa vụ chứng minh lại thuộc về đương sự nên cơ quan điều tra và cơ quan công tố dường như không có vai trò. Thứ tư: Quyền tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp được giới hạn trong hoạt động của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Thứ năm: Theo nghĩa hẹp nhất thì Quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực 12 nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật. Với cách hiểu này, chủ thể thực hiện quyền tư pháp chỉ là tòa án và hoạt động tư pháp chỉ là hoạt động xét xử. Nói đến tư pháp là nói đến hoạt động xét xử và được thực hiện chỉ bởi tòa án. Theo một số nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp khi tiếp cận quyền tư pháp từ phương diện chức năng và giới hạn quyền tư pháp chỉ trong hoạt động của tòa án thì có người xem quyền tư pháp như một nhánh quyền lực độc lập tương đối so với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền tư pháp kiểm soát và giới hạn hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, được xem như biểu tượng của công lý. Để đảm bảo yêu cầu này, cần thiết lập quyền giám sát tư pháp đối với nhánh lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, khác với quan niệm trên có ý kiến cho rằng quyền tư pháp chỉ được giới hạn trong hoạt động xét xử của tòa án. Quyền tư pháp do các tòa án thực hiện vì khi nói đến quyền này là liên tưởng tới hoạt động hay quyền xét xử của tòa án. Như vậy có thể thấy cho đến nay không có một khái niệm hay định nghĩa thống nhất nào về quyền tư pháp, sự khác nhau trong nhận thức về quyền tư pháp là do sự khác nhau trong góc độ và mức độ tiếp cận khi nghiên cứu về vấn đề này. Trong nghiên cứu về quyền tư pháp cần xem quyền tư pháp là một bộ phận, một nội dung của quyền lực nhà nước và đặt nó trong phạm vi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất và gắn với chủ quyền quốc gia được cấu thành và tổ chức theo các chức năng: xây dựng pháp luật để cai trị - lập pháp; tổ chức thực hiện pháp luật đó hành pháp; duy trì, bảo vệ trật tự pháp luật đó - tư pháp. Vì thế quyền tư 13 pháp là một loại quyền không thể thiếu được trong bất cứ nhà nước nào. Quyền tư pháp giám sát việc tuân thủ pháp luật, gắn với chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và ngoài việc phán xét tính hợp pháp của hành vi của những người tham gia các quan hệ xã hội còn phán xét cả tính hợp pháp của chính các đạo luật, của các văn bản quy phạm pháp luật khác. Quyền tư pháp mang tính giai cấp, bởi nó bảo vệ pháp luật, bảo vệ ý chí của giai cấp thống trị. Ở Nhà nước bóc lột, giai cấp thống trị là giai cấp có tiềm lực kinh tế, nắm giữ các phương tiện lao động chủ yếu và là giai cấp thống trị về kinh tế. Quyền tư pháp bảo vệ lợi ích của nhóm người đó. Còn trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, lực lượng chủ yếu chiếm số đông là những người lao động do giai cấp công nhân và lực lượng lao động hình thành tổ chức và cai trị. Quyền tư pháp phục vụ cho lợi ích số đông đó, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Việc bảo vệ lợi ích của nhân dân là tiêu chí đánh giá hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân có chức năng và nhiệm vụ chính là bảo vệ lợi ích nhân dân nên quyền tư pháp phải được tổ chức thành bộ máy với những cơ quan sao cho người dân được tiếp cận với những thủ tục tư pháp đơn giản, thuận tiện, ít tốn kém, cán bộ tư pháp phải chuyên nghiệp và có đạo đức nghề nghiệp. Khả năng đáp ứng được các yêu cầu này của nền tư pháp cũng chính là những tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả và vai trò của quyền tư pháp. Ngày nay, nhà nước pháp quyền không còn được đặc trưng bởi chức năng lập pháp như trước, mà bởi sự phát triển các thủ tục pháp lý nhằm bảo vệ pháp luật, trước sự tùy tiện của lập pháp và hành pháp [12, tr.126]. Quyền tư pháp giới hạn theo nghĩa hẹp là thông qua hoạt động của tòa án với chức năng xét xử, nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết đối với các 14 hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quyền, lợi ích của công dân, tổ chức; áp dụng pháp luật; phán xét hành vi hợp pháp của các cơ quan, công chức nhà nước. Quyền tư pháp theo nghĩa rộng được thực hiện qua hoạt động của hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan điều tra, cơ quan công tố và tòa án. Trong hệ thống các cơ quan đó, tòa án với chức năng xét xử có vai trò trung tâm và thể hiện rõ nhất tính tư pháp của quyền tư pháp. Hoạt động điều tra có thể được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp nhưng thực hiện chức năng tư pháp hoặc do cơ quan công tố hoặc cơ quan tòa án đảm nhiệm. Hoạt động thi hành án là giai đoạn sau của xét xử, thực thi phán quyết của tòa án. Vì vậy, không nên coi hoạt động thi hành án thuộc phạm vi của quyền tư pháp và cơ quan thi hành án không phải là cơ quan tư pháp. Ngoài ra, các hoạt động có tính chất bổ trợ như bào chữa, giám định, giám sát, tư vấn pháp luật, công chứng… không nên coi là hoạt động thực thi quyền tư pháp. Tòa án là một nhánh quyền lực có vị trí đặc biệt quan trong trong Nhà nước pháp quyền, nhưng đây lại là nhánh quyền lực yếu hơn so với hai nhánh quyền lực còn lại lập pháp và hành pháp. Lập pháp là cơ quan có chức năng làm luật. Lập pháp có quyền ấn định cách hành xử của cả xã hội. Hành pháp là cơ quan thi hành, thực hiện pháp luật hàng ngày, hàng giờ nên tác động vào đời sống của con người hay nói như Hegel là “hành pháp có quan hệ một cách trực tiếp hơn với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích phổ biến ở bên trong những mục đích đặc thù đó” [3]. Hamilton thì nhận xét rằng: Ngành hành pháp không những có quyền phân phối vinh dự mà lại có quyền sử dụng vũ lực. Ngành lập pháp không những kiểm soát tài chính mà lại có quyền quy định các luật lệ chi phối sự sinh hoạt của các công dân [27, tr.80]. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan