Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam...

Tài liệu Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam

.PDF
119
7
146

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THÙY LINH QUYÒN §¦îC XÐT Xö C¤NG B»NG TRONG PH¸P LUËT QUèC TÕ Vµ PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THÙY LINH QUYÒN §¦îC XÐT Xö C¤NG B»NG TRONG PH¸P LUËT QUèC TÕ Vµ PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8380101.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS HOÀNG HÙNG HẢI HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phan Thị Thùy Linh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG ..... 8 1.1. Khái niệm quyền được xét xử công bằng ......................................... 8 1.2. Đặc điểm của quyền được xét xử công bằng ................................. 14 1.2.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền tuyệt đối ............................. 14 1.2.2. Quyền được xét xử công bằng là quyền tổng hợp ............................. 15 1.2.3. Quyền được xét xử công bằng có mối liên hệ mật thiết với các quyền con người trong tố tụng ........................................................... 16 1.2.4. Quyền được xét xử công bằng được áp dụng cho mọi đối tượng (mọi chủ thể) trong tố tụng................................................................. 16 1.3. Vai trò của quyền được xét xử công bằng...................................... 17 1.3.1. Xét xử công bằng là phương thức để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người ................................................................................. 17 1.3.2. Xét xử công bằng góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền ........... 18 1.3.3. Xét xử công bằng củng cố niềm tin của nhân dân vào Tòa án .......... 20 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 22 Chương 2: NỘI DUNG QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM ...24 2.1. Nội dung của quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế................................................................................................ 24 2.1.1. Về sự bình đẳng trước phiên tòa ........................................................ 24 2.1.2. Về xét xử công khai bởi Tòa án độc lập, không thiên vị ................... 28 2.1.3. Về suy đoán vô tội .............................................................................. 31 2.1.4. Về xét xử không chậm trễ, trong thời hạn hợp lý .............................. 32 2.1.5. Về bào chữa ........................................................................................ 34 2.1.6. Không buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại mình hoặc nhận mình có tội .......................................................................................... 37 2.1.7. Về tranh luận tại phiên tòa ................................................................. 39 2.1.8. Về không bị áp dụng hồi tố và không bị kết án hai lần vì một tội phạm ............................................................................................. 40 2.1.9. Về kháng cáo ...................................................................................... 42 2.1.10. Về bồi thường thiệt hại trong trường hợp oan sai .............................. 43 2.1.11. Quyền được xét xử công bằng trong một số trường hợp đặc biệt......... 44 2.2. Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật Việt Nam............ 45 2.2.1. Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật TTHS Việt Nam trước năm 2015................................................................................... 45 2.2.2. Quyền được xét xử công bằng trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013...... 49 2.2.3. Quyền được xét xử công bằng trong Bộ luật TTHS năm 2015 ......... 51 2.3. Sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng ................................................. 71 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 85 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG .......... 87 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền được xét xử công bằng .......................................................................................... 87 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền được xét xử công bằng góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân .............................................................................. 87 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền được xét xử công bằng nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp ........................................................... 89 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quyền được xét xử công bằng phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế về quyền con người ............................... 90 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền được xét xử công bằng ... 92 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về thủ tục xét xử ......................................... 92 3.2.2. Tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong đảm bảo thực hiện quyền được xét xử công bằng........................................................... 100 3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về chức năng của Tòa án ............................... 101 3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về bào chữa trong TTHS................................ 102 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.............................................................................. 104 KẾT LUẬN .................................................................................................. 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng Hình sự UDHR: The Universal Declaration of Human Rights - Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử nhân loại đã ghi dấu những cuộc đấu tranh không biết mệt mỏi để khẳng định những giá trị bất khả xâm phạm của quyền con người. Sống trong xã hội, dưới sự cai trị của Nhà nước, mỗi công dân đều mong muốn có được công lý, công bằng, lẽ phải, chính nghĩa, tự do, bình đẳng. Bởi lẽ, người dân luôn lo sợ Nhà nước hoặc những người mạnh hơn họ có thể tước đoạt tính mạng, tự do và tài sản (hay nói cách khác là tước đoạt một quyền nào đó) của họ. Do đó, họ đòi hỏi phải áp dụng trình tự công bằng trong các quan hệ pháp luật giữa Nhà nước và người dân và giữa người dân với nhau. Đây cũng là khát vọng, mục tiêu mà mỗi xã hội, mỗi con người từ phương Đông sang phương Tây, từ lịch sử tới hiện tại mong muốn đạt được. Trong những câu chuyện thần thoại Hy Lạp về hình tượng nữ thần công lý, bộ luật Hamurabi cổ đại, những quan điểm của các triết gia như Aristotle, Socrate, Plato, Montesquieu, Locke, tư tưởng của Hồ Chí Minh đều chứa đựng những giá trị về sự cai trị công bằng, bình đẳng dựa trên pháp luật để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người dân, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền. Sự ra đời của tổ chức Liên Hợp quốc vào năm 1945 đã đánh dấu mốc quan trọng nhất của cuộc đấu tranh vì sự phát triển của quyền con người. Đây là sự kiện trọng đại của thế kỷ XX với việc nhiều quyền con người đã được ghi nhận một cách cụ thể, chính thống trong các văn kiện có ý nghĩa và giá trị toàn cầu. Trong số đó không thể không nhắc tới quyền được xét xử công bằng. Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (ICCPR), và nhiều điều ước quốc tế, khu vực khác đều dành một số điều khoản quy định riêng về quyền xét xử công bằng. Quyền được xét xử công bằng ngày nay không chỉ là xu 1 hướng chung trong thế giới đương đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá mức độ phát triển bền vững của một xã hội, là biểu tượng của văn minh và tiến bộ xã hội, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn và khoa học. Tại Việt Nam, nhiều năm qua, hoạt động xét xử của các Tòa án đã góp phần đảm bảo tính thượng tôn pháp luật, mang lại lẽ phải, công bằng cho người dân. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp, giúp ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, hóa giải các mâu thuẫn là không thể phủ nhận. Song, nhiều quyền con người trong giai đoạn xét xử, đặc biệt là quyền được xét xử công bằng vẫn chưa được quy định một cách đầy đủ và toàn diện; các thể chế để thực hiện và bảo đảm quyền được xét xử công bằng còn thiếu hiệu quả và thực chất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vẫn còn đâu đó những vụ án oan sai, án bị hủy, sửa do vi phạm thủ tục tố tụng hoặc do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Điều này dấy lên lo ngại của các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp và người dân về tính công bằng, công minh trong phán quyết của Tòa án hay Tòa án đã không tuân thủ trình tự, thủ tục xét xử mà xét xử công bằng yêu cầu. Là một thành viên tích cực trong các Công ước, điều ước quốc tế, Việt Nam rất quan tâm tới quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tố tụng nói riêng. Rất nhiều các văn bản pháp luật đã được ban hành để thể chế hóa các chuẩn mực quốc tế về quyền được xét xử công bằng. Tuy nhiên, việc nhận thức về bản chất, vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng còn chưa được toàn diện, việc áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất. Hiến pháp Việt Nam và các quy định tố tụng qua nhiều thời kỳ đã bổ sung thêm các điều luật có tính nguyên tắc để nâng cao quyền được xét xử công bằng, nhưng vẫn còn những hạn chế trong việc xét xử, giải quyết vụ án của các Tòa án cũng như phát huy vai trò bảo vệ 2 quyền con người theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, xác định Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm cũng như nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Chính vì lẽ đó, đề tài “Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”vẫn còn chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn để nghiên cứu, tìm hiểu nhằm làm rõ nội hàm của quyền được xét xử công bằng, sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế, cũng như chỉ ra được những điểm còn hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện trong quy định hiện hành. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung Quyền con người và bảo đảm quyền con người đã được nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những mức độ và giác độ khác nhau. Có thể kể đến như: “Quyền con người (tập tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc)”, ấn phẩm được xuất bản theo chương trình hợp tác giữa Khoa Luật ĐHQGHN, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân trực thuộc Khoa Luật (CRIGHTS) và Trung tâm quyền con người quốc gia Na Uy (NCHR), Nxb. Công an nhân dân, năm 2010; “Quyền con người (tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc)”, ấn phẩm được xuất bản theo chương trình hợp tác giữa Khoa Luật ĐHQGHN, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân trực thuộc Khoa Luật (CRIGHTS) và Trung tâm quyền con người quốc gia Na Uy (NCHR), Nxb. Công an nhân dân, năm 2010; “Thực hiện các quyền Hiến định trong Hiến pháp năm 2013”, do PGS.TS Trịnh Quốc Toản và PGS.TS Vũ Công Giao đồng chủ biên, Nxb. Hồng Đức, năm 2015. 3 2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền được xét xử công bằng Vấn đề quyền được xét xử công bằng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học và toàn xã hội. Các tác giả đã có nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ, các ấn phẩm có liên quan đến quyền được xét xử công bằng trong TTHS. Điển hình như: “Quyền con người trong thi hành công lý, Sổ tay về quyền con người dành cho Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư” do Vụ Hợp tác quốc tế Tòa án nhân dân tối cao thực hiện, NXB Lao động xã hội, năm 2010; Luận án Tiến sỹ “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của Lại Văn Trình, trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, năm 2011; GS.TSKH. Đào Trí Úc với bài nghiên cứu “Tố tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và hoàn thiện theo hướng nào?”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 (200), tháng 8/2011; bài viết của tác giả Đỗ Thị Phượng“Quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, trong cuốn sách Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền - Nhà xuất bản khoa học xã hội 2012; Luận văn Thạc sỹ “Quyền xét xử công bằng và vấn đề bảo đảm quyền xét xử công bằng ở Việt Nam” của tác gia Đỗ Thị Kiều, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Luận văn Thạc sỹ “Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Liên Hương, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2015; cuốn sách của GS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, “Quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp Hình sự”, Nxb. Hồng Đức, năm 2015; GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, ThS. Đặng Phương Hả với bài viết “Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2015; T.S. Bùi Tiến Đạt với bài nghiên cứu “Học thuyết trình tự công bằng và việc bảo vệ quyền con người – Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2015; cuốn sách “Công lý và quyền tiếp cận công lý – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” 4 của nhóm tác giả do GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Vũ Công Giao đồng chủ biên, Nxb. Hồng Đức, năm 2018; Tập hợp các bài viết trong kỷ yếu hội thảo về “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng” do Vũ Công Giao – Đinh Ngọc Thắng đồng chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2019. Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra được cơ sở lý luận, những nội dung cơ bản của quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Phần lớn các công trình chỉ tập trung nghiên cứu quyền được xét xử công bằng bằng việc phân tích các nguyên tắc TTHS mà chưa chỉ rõ, phân tích một cách có hệ thống về nội dung của quyền xét xử công bằng được thể hiện trong các quy định tố tụng cụ thể, chưa có nhiều sự nghiên cứu để đánh giá tính tương thích của pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Song các công trình nghiên cứu trên là những nguồn tài liệu tham khảo rất quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ nội dung quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam thông qua các quy định của tố tụng hình sự. Qua đó, đánh giá được sự tương thích, mức độ thể hiện giữa pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế để đề ra một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quyền được xét xử công bằng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Phân tích làm rõ nội dung quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế. - Làm rõ nội dung pháp luật thực định Việt Nam về quyền được xét xử công bằng. - Chỉ ra những điểm hạn chế, thiếu sót để trên cơ sở đó kiến nghị giải 5 pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng cho phù hợp với pháp luật quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận và thực trạng quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, các Công ước, điều ước cơ bản của quốc tế và khu vực về quyền con người; các quy định trong Hiến pháp, các đạo luật về Hình sự và tố tụng hình sự của Việt Nam về quyền được xét xử công bằng nhằm kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ, để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu, học viên giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình trong thủ tục tố tụng hình sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Bởi lẽ tố tụng hình sự là lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền con người, tiềm ẩn nhiều rủi ro xâm phạm quyền được xét xử công bằng và cũng là lĩnh vực chứa đựng những nội dung khái quát, quan trọng nhất của quyền được xét xử công bằng và trong tố tụng hình sự cũng phát sinh vấn đề quyền được xét xử công bằng với các đối tượng có liên quan đến vấn đề dân sự, trách nhiệm bồi thường trong vụ án. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Về cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của các tổ chức quốc tế, của Đảng và Nhà nước Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người. 5.2. Về phương pháp nghiên cứu Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp 6 nghiên cứu cụ thể là phân tích, tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên cứu; thống kê, so sánh. Ngoài ra, xuyên suốt luận văn là phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người. 6. Tính mới và đóng góp của luận văn Thứ nhất, Luận văn làm rõ cơ sở lý luận của quyền được xét xử công bằng. Thứ hai, Luận văn đánh giá được sự tương thích trong các quy định, quy trình tố tụng của pháp luật Việt Nam có liên quan đến thực hiện quyền được xét xử công bằng so với pháp luật quốc tế. Thứ ba, Luận văn chỉ ra được sự phát triển nội dung của quyền được xét xử công bằng trong pháp luật Việt Nam. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật thực hiện và bảo vệ quyền được xét xử công bằng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1. Cơ sở lý luận về quyền được xét xử công bằng. Chương 2. Nội dung quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chương 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG 1.1. Khái niệm quyền được xét xử công bằng “Xét xử” là hoạt động đặc trưng riêng của Tòa án, thể hiện rõ nét quyền tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà nước. Tòa án là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp, một trong ba chức năng độc lập của quyền lực nhà nước. Tòa án có nhiệm vụ nhân danh công lý để thực hiện hoạt động tài phán đối về hiến pháp, hành chính, hình sự, dân sự và kinh tế để xét xử, cũng như giải quyết những xung đột giữa các quan hệ xã hội và đưa ra phán quyết cuối cùng về mặt pháp lý nhằm bảo vệ công lý, các quyền và tự do của con người và của công dân, góp phần đưa các nguyên tắc chung được nhân loại thừa nhận vào đời sống thực tế [6, tr.57]. Thông qua việc phán xét về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi của các chủ thể pháp luật, Thẩm phán duy trì công lý trong xã hội, kiểm soát xã hội trong vòng trật tự, bảo đảm cuộc sống bình yên cho người dân. Có thể nói, trong xã hội văn minh, trật tự xã hội phải được thiết lập trên cơ sở pháp luật và sự công bằng. Sự xuất hiện của hệ thống xét xử mà trung tâm là các Tòa án đã giúp cho công lý và quyền con người được đảm bảo. Về quyền được xét xử công bằng, ở nhiều khía cạnh khác nhau đã được ghi nhận là một trong những đảm bảo cơ bản trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, được thông qua năm 1948, nền tảng của hệ thống nhân quyền quốc tế. Quyền này được tái khẳng định và bổ sung thêm nhiều chuẩn mực quan trọng trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), mà Việt Nam đã gia nhập từ năm 1982, đây là văn kiện quốc tế có giá trị cao trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Theo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), 8 Quyền về xét xử công bằng (the right to a fair trial) thực chất là một tập hợp các bảo đảm tố tụng nhằm bảo đảm quá trình xét xử được công bằng. Trong đó tập trung nhấn mạnh một số yếu tố như được bình đẳng trước Tòa án; suy đoán vô tội; không bị áp dụng hồi tố; không bị hình sự hóa quan hệ dân sự. Mỗi bảo đảm này có thể được coi là một quyền con người cụ thể và trên cơ sở đó, xây dựng các nguyên tắc tố tụng để bổ sung. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) ngoài việc đề cập việc bảo vệ các quyền căn bản như quyền sống, quyền tự do biểu đạt, tư tưởng, lương tri, tín ngưỡng, lập hội; quyền không bị giam giữ sai trái; quyền không bị tra tấn và đối xử tàn ác còn đề cập tới quyền được có một phiên tòa công bằng. Trong Điều 14/1 của Công ước có nêu rằng: Tất cả mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và các cơ quan xét xử và khi quyết định áp dụng hình phạt đối với bị cáo trong các vụ án hình sự hoặc quyết định quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự, mọi người đều có quyền được hưởng một phiên tòa bình đẳng và công khai do một cơ quan xét xử độc lập và công bằng được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành. Điều 7/1 Hiến chương quyền con người và nhân dân Châu Phi quy định rằng: Mọi người đều có quyền đề nghị Tòa án xem xét lời khai, chứng cứ do mình đưa ra, và quyền này bao gồm quyền được coi là vô tội cho đến khi bị kết tội bởi một tòa án hoặc cơ quan xét xử có thẩm quyền, cũng như quyền được một Tòa án hoặc cơ quan xét xử công bằng xét xử trong một thời gian hợp lý. Điều 8/1 Công ước quyền con người Châu Mỹ quy định rằng: Mọi người có quyền được xét xử bằng một phiên tòa với đầy đủ các quyền tố tụng và trong một thời hạn hợp lý, do một cơ quan xét xử 9 có thẩm quyền, độc lập, công bằng, được thành lập theo quy định của pháp luật tiến hành, nhằm xem xét cáo buộc về hành vi phạm tội của mình hoặc nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý trong lĩnh vực dân sự, lao động, tài chính hoặc các lĩnh vực khác. Điều 6 Công ước quyền con người Châu Âu quy định rằng: Khi xem xét quyền và nghĩa vụ dân sự cũng như trách nhiệm hình sự của mình, mọi người đều có quyền được có một phiên tòa bình đẳng và công khai trong một thời hạn hợp lý và do một cơ quan xét xử độc lập, công bằng. Năm 1985, Hội nghị lần thứ 7 của Liên hợp quốc về phòng ngừa và xử lý người phạm tội đã ban hành các nguyên tắc cơ bản về độc lập của hệ thống tòa án và các nguyên tắc này sau đó đã được Đại hội đồng nhất trí thông qua. Nguyên tắc thứ hai các nguyên tắc cơ bản về độc lập tư pháp chỉ ra rằng: Tòa án phải giải quyết vụ việc công bằng trên cơ sở các tình tiết của vụ việc và phù hợp với các quy định của pháp luật mà không bị giới hạn, bị ảnh hưởng một cách bất hợp lý, bị mua chuộc, bị áp lực, đe dọa hoặc can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp từ bất kỳ ai hoặc bất kỳ lý do nào. Mặc dù các văn kiện quốc tế không đưa ra khái niệm thế nào là xét xử công bằng nhưng qua các quy định mang tính nguyên tắc hoặc giải thích, bổ sung nội hàm của quyền được xét xử công bằng cũng đã phần nào giúp làm sáng tỏ khái niệm này. Những sự bổ khuyết liên tục được đưa ra ở những văn kiện quốc tế ban hành sau UDHR để minh chứng thế nào là một phiên tòa công bằng. Yêu cầu về sự công bằng được đề cập trong Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền chính trị và dân sự; Điều 7 Hiến chương quyền con người và nhân dân Châu Phi, Điều 8 Công ước quyền con người Châu Mỹ và Điều 6 Công ước quyền con người Châu Âu. Tuy nhiên, thay vì đưa ra một 10 định nghĩa thì Điều 14 ICCPR cụ thể hóa các yêu cầu của đương sự về phiên tòa công bằng thông qua một loạt các đảm bảo tố tụng gồm có: - Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự. - Xét xử và tuyên án công khai trừ một số trường hợp đặc biệt vì lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ hoặc vì lợi ích cuộc sống riêng tư của các bên tham gia tố tụng hoặc trong những chừng mực cần thiết. - Người bị cáo buộc phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật. - Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý; được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua trợ sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả; - Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tòa và thẩm vấn họ tại tòa án với những điều kiện tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình. - Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu được hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên tòa. 11 - Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. - Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định pháp luật. - Quyền được yêu cầu bồi thường oan sai. - Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật về thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước. Ngoài ra, thông qua các phán quyết, Ủy ban quyền con người, Tòa án quyền con người khu vực cũng đưa ra các giải thích về sự công bằng trong xét xử [59]. Tòa án quyền con người Châu Âu đã đưa ra phán quyết thể hiện hai yêu cầu rõ ràng, đó là yêu cầu chủ quan và yêu cầu khách quan. Theo đó, Tòa án phải công bằng về chủ quan, nghĩa là không có thành viên nào của Hội đồng xét xử được có định kiến hoặc thiên vị cá nhân và luôn giả định là cá nhân Thẩm phán công bằng, trừ khi có chứng cứ ngược lại. Thứ hai, Tòa án phải công bằng từ quan điểm khách quan, tức là Tòa án phải bảo đảm loại bỏ bất kỳ sự nghi ngờ hợp pháp nào về vấn đề này, thậm chí là bề ngoài của Thẩm phán hoặc thành phần của hội đồng xét xử cũng có ý nghĩa quan trọng trong tạo dựng lòng tin của công chúng và các bên tham gia tố tụng [61]. Khái niệm về sự công bằng của Tòa án là yếu tố cốt yếu để bảo đảm quyền có được phiên tòa công bằng. Điều này có nghĩa là tất cả các Thẩm phán phải hành động khách quan và đưa ra quyết định dựa trên các tình tiết liên quan và luật áp dụng mà không có bất cứ sự thiên vị mang tính cá nhân hoặc những định kiến về nội dung vụ án, đương sự trong vụ án và không thiên vị lợi ích của bất cứ bên nào. Tiếp cận khái niệm này từ phía Tòa án thì chỉ thấy “xét xử công bằng” là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án, của Thẩm phán chứ không phải từ phía các đương sự trong vụ án. Quyền 12 được xét xử công bằng là đòi hỏi từ chính các bên tham gia tố tụng tại Tòa án, đòi hỏi phải có được sự công bằng và Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện các yêu cầu về phiên tòa công bằng cho họ mà không có ngoại lệ. Học giả Stefan Trechel khẳng định rằng, quyền xét xử công bằng bao hàm một thủ tục công bằng. Công bằng đi liền với sự độc lập của Tòa án [67, p.83]. Quan điểm này dựa trên logic bảo đảm quyền con người trong tố tụng phải gắn với thủ tục pháp lý chặt chẽ (due process of law) và tố tụng công bằng (fair trial). Còn học giả Richard Claton thì cho rằng, quyền được xét xử công bằng bao gồm nhiều yếu tố tập trung chủ yếu vào những dấu hiệu: phiên tòa độc lập và công bằng, bản án phải là kết quả dựa trên sự xem xét công khai với những lý lẽ thuyết phục [66, p.26]. Theo định nghĩa của Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người của Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội thì: Xét xử công bằng thực chất là một tập hợp các bảo đảm tố tụng nhằm đảm bảo quá trình xét xử được công bằng, trong đó bao gồm các khía cạnh như được bình đẳng trước tòa án (equality before a court), được suy đoán vô tội (assumption of innocence); không bị áp dụng hồi tố (prohibition of ex post facto laws); và không bị bỏ tù chỉ vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (prohibition of imprisonment for debt). Trong một số tài liệu, mỗi bảo đảm này được coi như là một quyền con người cụ thể [12, tr.168]. Những phân tích nêu trên về cơ sở lý luận của khái niệm quyền được xét xử công bằng cho thấy, khi nói hay viết về quyền được xét xử công bằng thì mọi người đều cố đưa ra khái niệm rồi sau đó liệt kê những đặc điểm, hoặc những nội dung của quyền. Sở dĩ có hiện tượng như vậy bởi vì quyền được xét xử công bằng là một vấn đề lý thuyết rất đa dạng. Không ai có thể đưa ra một khái niệm chuẩn cũng như những đặc điểm thống nhất về quyền được xét xử công bằng. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan