Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ là người khuyết tật ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ là người khuyết tật ở việt nam hiện nay

.PDF
92
3
59

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯU THỊ HỒNG MƠ QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2021 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯU THỊ HỒNG MƠ QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: 8380101.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Giáo viên hướng dẫn: TS. Ngô Thị Minh Hương Hà Nội – 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lưu Thị Hồng Mơ MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT ...................................................................... 7 1.1 Phụ nữ khuyết tật ................................................................................................................. 7 1.1.1 Nhận diện phụ nữ khuyết tật ................................................................ 7 1.1.2 Đặc điểm của phụ nữ khuyết tật ........................................................... 9 1.1.3. Quyền của phụ nữ khuyết tật ............................................................13 1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý ............................................................................................ 18 1.3. Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ................................................ 22 1.4. Pháp luật quốc tế về đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ... 27 1.5. Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật của một số nước trên thế giới .. 29 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..............................................................................37 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM .....................................................................................................38 2.1 Thực trạng về phụ nữ khuyết tật tại Việt Nam ................................................................ 38 2.2. Pháp luật về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam ................... 40 2.2.1. Hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật..................................................................................................................40 2.2.2 Điều kiện, hình thức TGPL cho phụ nữ khuyết tật theo quy định của pháp luật Việt Nam ......................................................................................43 2.3. Thực tiễn thực thi quyền trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam ................... 47 2.4. Hạn chế trong việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam .................................................................................................................................... 52 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..............................................................................60 Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM ....................................61 3.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam .............................................................................................................. 61 3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý, đảm bộ tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam và tương thích với pháp luật quốc tế ...................................................61 3.1.2 Sửa đổi các quy định luật pháp chính sách liên quan đến bảo vệ phụ nữ khuyết tật theo hướng tiếp cận dựa trên quyền con người và tương thích với pháp luật quốc tế ....................................................................................63 3.1.3 Quy định về điều kiện người thực hiện TGPL cho phụ nữ khuyết tật và đơn giản hóa trình tự, thủ tục thực hiện TGPL. ......................................64 3.2. Nhóm các giải pháp đảm bảo các điều kiện để thực hiện hiệu quả quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật .............................................................................................................. 67 3.2.1 Tăng cường năng lực của hệ thống hành pháp, tư pháp và đội ngũ cán bộ người thực hiện TGPL cho người khuyết tật. .........................................67 3.2.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý ..................................70 3.2.3. Đổi mới hoạt động truyền thông trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức cho người khuyết tật ....................................................................................71 3.2.4 Xã hội hóa hoạt động TGPL, xây dựng các mô hình dịch vụ bảo vệ, TGPL cho phụ nữ khuyết tật phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam. .............73 3.2.5 Tăng cường phối hợp giữa các tổ chức TGPL và các cơ quan, tổ chức liên quan. ......................................................................................................75 3.2.6 Đảm bảo nguồn lực tài chính và các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý ...............76 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ..............................................................................78 KẾT LUẬN.....................................................................................................79 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CTV : Cộng tác viên PNKT : Phụ nữ khuyết tật TGPL : Trợ giúp pháp lý TGVPL : Trợ giúp viên pháp lý TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trợ giúp pháp lý (TGPL) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho các nhóm đối tượng nhất định, đặc biệt là nhóm yếu thế nhằm hỗ trợ họ tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đây là một bộ phận của tổng thể các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, chính sách dân tộc và ưu đãi xã hội. Do đặc điểm giới tính dễ bị tổn thương (phụ nữ gắn với việc sinh con, nuôi con, bận rộn công việc gia đình, ngại tham gia các cuộc họp cộng đồng v.v), phụ nữ thường ít có cơ hội tiếp cận với pháp luật. Trong khi trên thực tế, nhu cầu của phụ nữ trong tiếp cận pháp luật, TGPL lại khá lớn. Theo Báo cáo lồng ghép bình đẳng giới trong dự thảo luật TGPL (sửa đổi) của Bộ Tư pháp trình Quốc hội năm 2016 cho thấy, trung bình mỗi năm số phụ nữ được TGPL chiếm khoảng từ 40%50% tổng số người được TGPL. Thực tế trong 4 nhóm đối tượng được TGPL thì phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới trong số người nghèo, người già cô đơn và tương đương với nam giới ở nhóm người dân tộc thiểu số, tuy nhiên số phụ nữ được trợ giúp pháp lý chưa quá bán cho thấy còn khoảng cách giới trong việc tiếp cận trợ giúp pháp lý cần có biện pháp thúc đẩy thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng giới. Bên cạnh đó, hiện nay, tại Việt Nam tình trạng phụ nữ khuyết tật bị xâm hại, bạo lực có chiều hướng gia tăng. Theo Báo cáo tại phiên họp Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội khóa XIV ngày 6/8/2020 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hiện nay, cả nước có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật, trong đó có khoảng 3,5 triệu phụ nữ. Đây là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, khả năng tiếp cận với các hoạt động giáo dục, y tế, việc làm, pháp lý cũng như các dịch vụ xã hội khác vẫn còn nhiều hạn chế. Phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật là những đối tượng phải chịu sự phân biệt đối xử “kép”, vì lý do khuyết tật và lý do về giới tính. Do đó, họ cần được bảo vệ và hỗ trợ kịp thời nhằm đảm bảo các quyền con người cơ bản. Đặc biệt, phụ nữ 1 khuyết tật thường gặp nhiều rủi ro, dễ bị lạm dụng lao động và tình dục hơn so với những phụ nữ bình thường. Tiếp cận dịch vụ TGPL là một điều kiện để đảm bảo công lý và bình đẳng giới. Khi người phụ nữ khuyết tật tiếp cận được dịch vụ pháp lý, họ sẽ hiểu rõ hơn về các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của bản thân, được tư vấn, hướng dẫn hay hỗ trợ để yêu cầu các quyền hay thực thi trách nhiệm. Tại hướng dẫn 09 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc trong bản quy tắc và hướng dẫn tiếp cận TGPL trong tư pháp hình sự thông qua ngày 20/12/2014, trong đó quy định: Thực hiện quyền tiếp cận TGPL của phụ nữ. Các Quốc gia cần có các biện pháp khả thi và thích hợp để đảm bảo quyền tiếp cận TGPL của phụ nữ. Tuy nhiên, qua rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cho thấy, việc đảm bảo quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật còn nhiều bất cập. Các quy định pháp luật hiện hành về TGPL còn hạn chế quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật, cần được sửa đổi để bảo đảm khả năng tiếp cận các dịch vụ pháp lý của nhóm đối tượng phụ nữ khuyết tật, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Bảo đảm hoạt động trợ giúp pháp lý hướng tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới một cách hữu hiệu nhất. Với những đòi hỏi cả về mặt lý luận và thực tiễn như đã nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay" là cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về quyền của người khuyết tật ở các góc độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách cụ thể, toàn diện về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Liên quan đến vấn đề quyền của người khuyết tật, có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: - Đề tài “Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” TS. Nguyễn Thị Báo, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2011, cung cấp những thông tin về lý luận và thực tiễn pháp luật về quyền của người khuyết tật, cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền của người khuyết tật. - Đề tài “Bảo vệ một số quyền cơ bản của người khuyết tật, so sánh pháp 2 luật Việt Nam với Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền của người khuyết tật” ThS Đinh Thị Cẩm Hà, NXb Đại học quốc gia TP.HCM-2011 cung cấp những thông tin mang tính tổng hợp về những quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến các quyền cơ bản của người khuyết tật được khuyến nghị trong Công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật. - Đề tài “Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam-nghiên cứu so sánh” - Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Bảy-khoa Luật ĐHQG Hà Nội, năm 2013. Luận văn cung cấp tổng quan về Quyền của người khuyết tật, so sánh pháp luật Việt Nam về quyền của người khuyết tật với các chuẩn mực quốc tế - Đề tài “Quyền của Người khuyết tật, nhìn từ góc độ lịch sử, văn hóa, pháp lý và thực tiễn” - Luận văn thạc sĩ của Phan Thanh Minh khoa Luật ĐHQG Hà Nội, năm 2011 cung cấp những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật nhìn từ gốc độ lịch sử, văn hóa, pháp lý và thực tiễn và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo các quyền nói chung của người khuyết tật. - Đề tài “Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay” Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Việt Khoa, Học Viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, năm 2019. Luận án đã hệ thống hóa các quan điểm nghiên cứu về hoạt động TGPL theo pháp luật, phát hiện những vấn đề lý luận, thực tiễn về hoạt động TGPL cần tiếp tục nghiên cứu, các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay. Có thể thấy những công trình nghiên cứu trên đã đưa ra một cách nhìn tổng quát về quyền của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam và các công ước của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ nêu các quyền của người khuyết tật nói chung, chưa nghiên cứu sâu về các quyền cụ thể. Đặc biệt, đối với quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật, chưa có công trình nghiên cứu nào đi từ lý luận đến thực tiễn về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Do đó, việc nghiên cứu về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật sẽ có nhiều đóng 3 góp cho việc hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này theo hướng tiếp cận trên cơ sở quyền con người, đảm bảo tương thích hơn nữa với pháp luật quốc tế, đồng thời đảm bảo đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu, phân tích, so sánh các chính sách, luật pháp liên quan đến quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. Đánh giá thực trạng việc đảm bảo quyền TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam để chỉ ra những ưu điểm và những bất cập, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thực tiễn đất nước. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền TGPL của phụ nữ khuyết tật giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. - Đánh giá thực trạng pháp luật về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Nhận diện những vấn đề pháp lý và thực tiễn đang đặt ra đối với vấn đề đảm bảo quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân. - Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn pháp lý quốc tế, phù hợp với yêu cầu đảm bảo quyền con người, chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước và tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật dưới góc độ quyền con người và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền. Theo đó, Luận văn tập trung đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 4 5. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế và kinh nghiệm một số quốc gia về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Luận văn cũng giới hạn nghiên cứu về thực tiễn pháp luật hiện hành và thực tiễn thực thi pháp luật ở Việt Nam có liên quan trực tiếp đến quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận của triết học Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm của Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ, đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo đoàn kết dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước; những quan điểm của Đảng về TGPL... Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp logic, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh để nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học, hoàn thiện hệ thống lý luận pháp lý. Các phương pháp được sử dụng một cách linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu. 7. Ý nghĩa của đề tài - Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống, toàn diện về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. - Luận văn phân tích, đánh giá khái quát và đưa ra khái niệm cũng như nội hàm quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. - Luận văn hệ thống và đánh giá các quy định pháp luật và thực trạng thực thi về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật, có minh chứng thực tiễn để đánh giá thực trạng, tính phù hợp của quy định. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp pháp luật liên quan quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 03 chương: 5 Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam hiện nay 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT 1.1 Phụ nữ khuyết tật 1.1.1 Nhận diện phụ nữ khuyết tật Người khuyết tật được coi là một trong những nhóm người dễ tổn thương nhất. Tình trạng khuyết tật khiến họ phải chịu những thiệt thòi trên các phương diện của đời sống xã hội, trong đó có học tập, việc làm, hôn nhân, kỳ thị... trong gia đình, nhà trường, xã hội và cộng đồng, người khuyết tật thường bị khinh miệt và bị phân biệt đối xử ở các mức độ khác nhau. Hình ảnh của người khuyết tật trên những phương tiện thông tin đại chúng thường bị “méo mó”, thiên về hướng là đối tượng của hoạt động từ thiện, thương hại hơn là đề cập đến các quyền của họ [2, tr.13]. Người khuyết tật không đơn thuần chỉ là sức khỏe mà là một vấn đề của quyền con người. Khái niệm “khuyết tật” đã được định nghĩa theo nhiều cách tiếp cận. - Tại Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của Người khuyết tật (CRPD 2007 tại đoạn 2 Điều 1) định nghĩa “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. - Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, có ba mức độ suy giảm là: khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Khiếm khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc/và sinh lý. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ (WHO, 1999). 7 - Theo quan điểm của Tổ chức Quốc tế người khuyết tật, người khuyết tật trở thành tàn tật là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống giống như thành viên khác (DPI, 1982). Do vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật sống [37]. - Khái niệm theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Người khuyết tật là những người mà triển vọng tìm giữ được 1 việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về mặt nghề nghiệp đều bị giảm sút một cách rõ rệt sau khi bị một trở ngại về thể chất hoặc tinh thần và trở ngại đó được cộng nhận đúng mức. Quan niệm về vấn đề khuyết tật và người khuyết tật cũng khác nhau giữa các nước trên thế giới theo những hoàn cảnh xã hội, văn hóa, kinh tế và lịch sử khác nhau. - Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) [37]. - Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành - Disability Discrimination Act, “người khuyết tật” được định nghĩa là một người bị khiếm khuyết về thể chất, tinh thần, giác quan với tác động xấu lâu dài đến khả năng thực hiện các sinh hoạt hàng ngày… và khi xét về mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình thường không được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật, cả khi họ sẽ được phục hồi hoàn toàn. - Theo Luật Bảo vệ Người khuyết tật năm 1990 của nước Công hòa nhân dân Trung Hoa định nghĩa “người khuyết tật là người bị mất khả năng nhìn, nghe, nói 8 hoặc về thể chất, mất khả năng về trí não, rối loạn tâm thần, khuyết tật bị đa tật và/hoặc các dạng khuyết tật khác”. - Bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa người khuyết tật là "người bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát triển trong nghề nghiệp. - Tại Việt Nam, đã có sự thay đổi từ khái niệm “người tàn tật” tại Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 chuyển sang khái niệm “người khuyết tật” tại Luật Người khuyết tật năm 2010 và cụm từ “người khuyết tật” được sử dụng trong các văn bản pháp luật liên quan. Theo quy định tại Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010 “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Trên cơ sở khái niệm người khuyết tật, “Phụ nữ khuyết tật” được hiểu là người khuyết tật mang giới tính nữ. 1.1.2 Đặc điểm của phụ nữ khuyết tật Bên cạnh những đặc điểm chung của người khuyết tật như hạn chế về sức khỏe, khó khăn về di chuyển, vận động… phụ nữ khuyết tật còn có một số đặc điểm mang tính chất đặc thù đó là: - Phụ nữ khuyết tật thường phải chịu sự phân biệt đối xử dưới nhiều hình thức. Trong trường hợp này, phụ nữ khuyết tật bị phân biệt đối xử trên hai phương diện đó là tình trạng khuyết tật và giới tính. Ví dụ, ở khu vực nông thôn, phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật thường bị hạn chế tiếp cận giáo dục cũng như tiếp cận với các cơ hội việc làm. Trong khi bản thân khuyết tật đã là một rào cản đối với con người khi thụ hưởng các quyền về giáo dục, sự phân biệt dựa trên cơ sở giới trong cộng đồng cũng có thể góp phần làm vô hiệu hóa quyền được giáo dục của trẻ em gái bị khuyết tật. - Phụ nữ khuyết tật thường chịu thiệt thòi về hôn nhân: Trên thực tế, phụ nữ khuyết tật gặp khó khăn gấp 3-4 lần so với người bình thường. Khó khăn 9 về sinh hoạt, không việc làm, mặc cảm giới tính và khuyết tật đã khiến nhiều phụ nữ khuyết tật gần như bị quên lãng ngay trong gia đình mình. Nhiều gia đình cho rằng, chỉ cần cho người khuyết tật được ăn uống đủ, ở sạch sẽ là được, không cần phải đầu tư học hành... Ra ngoài xã hội, phụ nữ khuyết tật bị nhìn ngó, dè bỉu vì thế họ rất mặc cảm. Nhiều người tốt nghiệp đại học nhưng không tìm được việc làm. Trong lĩnh vực tình yêu, hôn nhân, gia đình, phụ nữ khuyết tật cũng chịu nhiều thiệt thòi. Cứ 10 nam khuyết tật thì 9 người có gia đình. Nhưng phải 100 nữ khuyết tật mới có 1 chị có gia đình. Nhiều người hy sinh hạnh phúc riêng vì e ngại sự kỳ thị của cộng đồng, mong ước có gia đình đã khó, có con còn khó hơn [38]. Theo Báo cáo về Người khuyết tật Việt Nam do Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội tiến hành tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và Đồng Nai năm 2006 cho thấy, có đến 70% người khuyết tật nam ở Thái Bình kết hôn, trong khi tỷ lệ này ở nữ chỉ khoảng 20%, tính ra mức chênh lệch là hơn 3 lần. Tại Quảng Nam, Đà Nẵng cũng có mức chênh lệch về tỷ lệ người khuyết tật không kết hôn khá lớn (59% là nữ, 33% là nam); Đồng Nai (nữ 66%, nam 51%). Khoảng một nửa số người khuyết tật ở Thái Bình và Đồng Nai được hỏi cho rằng, họ không thể kết hôn được là do sức khỏe. Còn lại là do cộng đồng không thông cảm với tình trạng khuyết tật của họ (32 – 50%); gia đình không ủng hộ (8,2 – 21,4%) [36]. Theo kết quả Điều tra quốc gia về Bạo lực đối với Phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 [4] cho thấy, phụ nữ khuyết tật khó kết hôn hoặc khó duy trì mối quan hệ lâu dài hơn so với nam giới khuyết tật. Phụ nữ khuyết tật thường kết hôn với nam giới khuyết tật trong khi đó nam giới khuyết tật lại thường kết hôn với người không khuyết tật. Phụ nữ khuyết tật có thể ở vị trí yếu thế hơn so với nam giới khuyết tật, bất kể hình thức và mức độ khuyết tật. - Phụ nữ khuyết tật thường là đối tượng chịu nhiều tác động nhất của nghèo đói do các rào cản về giới. Tỷ lệ nghèo đói, thiếu việc làm… của người khuyết tật cao hơn rất nhiều so với người bình thường, trong đó những khó khăn mà phụ nữ 10 khuyết tật gặp phải cao ít nhất 3 lần so với nam giới. Họ ít được tiếp cận với những cơ hội phát triển cá nhân, có những hạn chế trong tiếp xúc xã hội, kinh tế, các dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông… - Phụ nữ khuyết tật thường gặp nhiều rủi ro, dễ bị lạm dụng lao động và tình dục hơn so với những phụ nữ bình thường, các quyền về sức khoẻ sinh sản của họ ít được quan tâm và đảm bảo. Những khó khăn này cản trở phụ nữ khuyết tật trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng. Tại Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ, 1993 được thông qua theo Nghị quyết 48/104 ngày 20/12/1993 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đã nêu “Lo ngại rằng, một số nhóm phụ nữ, chẳng hạn như phụ nữ thuộc các nhóm thiểu số, phụ nữ bản xứ, phụ nữ tỵ nạn, phụ nữ nhập cư, phụ nữ đang sống trong những cộng đồng nông thôn xa xôi, phụ nữ trong hoàn cảnh bần hàn, phụ nữ trong các cơ sở hoặc trong nhà giam, trẻ em gái, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ cao tuổi và phụ nữ trong những hoàn cảnh có xung đột vũ trang, là những người đặc biệt dễ có nguy cơ phải chịu bạo lực”. Theo một nghiên cứu của nước Anh, người khuyết tật có nhiều khả năng là nạn nhân của bạo hành hoặc hãm hiếp, và ít có khả năng hơn được cảnh sát can thiệp, bảo vệ pháp lý hoặc chăm sóc phòng ngừa. Nghiên cứu khác cho thấy rằng bạo hành đối với trẻ em khuyết tật xảy ra hàng năm cao hơn ít nhất là 1,7 lần so với những trẻ có cùng vị thế nhưng không khuyết tật. Phụ nữ và các trẻ gái khuyết tật đặc biệt dễ bị tổn thương, lạm dụng. Một cuộc khảo sát nhỏ trong năm 2004 tại Orissa, Ấn Độ, cho thấy rằng hầu như tất cả phụ nữ và các trẻ gái khuyết tật từng bị đánh ở nhà, 25% phụ nữ khuyết tật trí tuệ bị hiếp dâm và 6% bị buộc làm mất khả năng sinh đẻ bằng vũ lực. Như vậy người khuyết tật nói chung dễ trở thành đối tượng của bạo lực hơn, cả về mặt thể xác lẫn tinh thần [39]. Ở nước ta, cả nước hiện có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật, trong đó khoảng 3,5 triệu phụ nữ [5]. Quỹ dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) ước tính: Người khuyết tật gặp khó khăn cao gấp ba lần so với người không khuyết tật, phụ nữ khuyết tật gặp khó khăn và có nguy cơ trở thành nạn nhân của bạo lực giới cao gấp ba lần so 11 nam giới khuyết tật. Ðây là những đối tượng phải chịu sự phân biệt đối xử "kép" vì lý do khuyết tật và lý do về giới. Do đó, họ cần được bảo vệ và hỗ trợ kịp thời nhằm bảo đảm các quyền con người cơ bản. Nghiên cứu thực tế của Trung tâm hành động vì sự phát triển cộng đồng cho thấy, cứ 10 phụ nữ khuyết tật thì có 4 người từng bị ít nhất một hình thức bạo lực tình dục. Ðộ tuổi lần đầu bị các hành vi bạo lực tình dục trung bình trong khoảng từ 24 đến 33 tuổi. Trong đó có những phụ nữ khuyết tật bị bạo lực tình dục lần đầu từ năm chín tuổi, cao nhất là hơn 50 tuổi. Nhóm khuyết tật vận động, thần kinh/tâm thần và khuyết tật trí tuệ có tỷ lệ bị quấy rối, lạm dụng và bạo lực tình dục tương đối cao, chiếm hơn 35% [24]. Nạn nhân bị xâm hại tình dục là phụ nữ, trẻ em gái khuyết tật thường rơi vào nhóm khiếm thính, khuyết tật trí tuệ. Thông thường, hậu quả với nạn nhân sẽ trở nên rất nặng nề và tạo tâm lý hoang mang, lo lắng về môi trường sống không an toàn cho phụ nữ, trẻ em gái khuyết tật, ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng sống của họ. Phụ nữ bị bạo lực thường dễ bị cô lập và bị tách khỏi các nhóm cộng đồng. Khuyết tật chức năng có thể làm sự cô lập này trầm trọng thêm và khiến cho người phụ nữ khuyết tật có nguy cơ cao bị tổn hại cao hơn. - Về di chuyển/đi lại: Ở nước ta cũng chưa có cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông công cộng hỗ trợ người khuyết tật có thể đi lại mà không cần nhiều đến sự trợ giúp của người khác. Hiện có nhiều công trình xây dựng thiếu phương tiện và trang thiết bị để người khuyết tật có thể sử dụng. Ðây cũng là rào cản hạn chế phụ nữ khuyết tật hòa nhập cộng đồng. - Về tâm lý: Phần lớn phụ nữ khuyết tật đều có mặc cảm tự ti, sống bi quan, cô lập với mọi người và thế giới xung quanh, họ thường mang tâm lý trốn tránh và sợ hãi khi thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng như giao lưu gặp gỡ chỗ đông người, cảm thấy mình là người thừa, không có ích cho xã hội, thậm chí cảm thấy bị Nhà nước bỏ rơi. - Về hoạt động xã hội: Xuất phát từ đặc thù về tâm lý như đã nói trên, phụ nữ khuyết tật tham gia hoạt động xã hội rất hạn chế. 12 - Về việc làm: So với nam giới, nữ giới thường bị yếu thế, chịu nhiều thiệt thòi hơn trong việc hoà nhập xã hội và bị phân biệt đối xử, bất kế năng lực làm việc của họ là như thế nào. Điều này cũng xảy ra đúng như vậy với người khuyết tật trên thế giới. Phụ nữ khuyết tật còn bị phân biệt đối xử nặng nề hơn vì họ là phụ nữ và lại bị khuyết tật, đây chính là “tổn thương kép” mà họ phải gánh chịu. Khi phụ nữ khuyết tật làm việc, họ thường phải đối mặt với những bất công trong tuyển dụng và khả năng thăng tiến, bất công trong đào tạo và đào tạo lại, bị trả lương thấp trong khi phải làm như mọi người và bị tách biệt với những người khác. Ở khắp nơi trên thế giới, họ ít được tham gia hơn vào các chương trình đào tạo nghề và tái thích ứng nghề nghiệp, và ngay cả khi đã qua đào tạo họ vẫn có nhiều khả năng bị thất nghiệp hơn hoặc chỉ được nhận làm một phần thời gian. - Về nhận thức pháp luật: Phụ nữ khuyết tật ít được tiếp cận pháp luật, nhận thức pháp luật của họ cũng hạn chế. Một số phụ nữ khuyết tật là dân tộc thiểu số không biết chữ, không nói được tiếng phổ thông, mặc cảm và cản trở về giao thông cũng là những rào cản khiến họ khó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ pháp lý. 1.1.3. Quyền của phụ nữ khuyết tật Quyền của phụ nữ khuyết tật đó trước hết là quyền con người, đồng thời đảm bảo quyền của nhóm người dễ bị tổn thương. Quyền con người (Human rights) theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy liên hợp quốc: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omission) làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.” Bên cạnh đó, nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người. Nói tới quyền con người, bao giờ chúng ta cũng nói tới các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Có thể nói, đây là hai nhóm quyền có vai trò hết sức quan trọng của quyền con người, việc đảm bảo tốt hai 13 nhóm quyền này thể hiện cho việc đảm bảo cho một nền dân chủ thực sự. Các quyền dân sự, chính trị bao gồm các quyền và tự do cá nhân, tiêu biểu như: quyền sống, quyền tự do tự tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền được bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng. Các quyền này gắn liền với tự do cá nhân - một phạm trù mà ở góc độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù quyền lực của Nhà nước. Mục đích của thế hệ quyền này về cơ bản là để hạn chế, ngăn chặn sự lạm quyền và sự tuỳ tiện xâm hại đến cuộc sống tự do của cá nhân con người từ phía các quan chức và cơ quan nhà nước. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa bao gồm các quyền như: Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng; Quyền lao động; Quyền được hưởng an sinh xã hội; Quyền được hỗ trợ về gia đình; Quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thần; Quyền giáo dục; Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học. Người khuyết tật cũng là con người, bởi vậy quyền của Người khuyết tật cũng không nằm ngoài các quyền đó. Quyền của Người khuyết tật bao gồm các quyền tự do cơ bản của con người, là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người – với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại và được chăm sóc, bảo vệ đặc biệt với tư cách là “nhóm người đặc thù dễ bị tổn thương” bởi sự khuyết tật, được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Khái niệm các nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable group) được sử dụng rất phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên cứu, thực tiễn về quyền con người trên thế giới. Mặc dù không có định nghĩa chính thức chung nào được đưa ra về các nhóm người dễ bị tổn thương, tuy nhiên, từ các nguồn tài liệu và thực tiễn về quyền con người, có thể hiểu rằng khái niệm này chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, hoặc từ khiếm khuyết cơ thể, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương trong luật quốc tế về quyền con người bao gồm: phụ nữ, người khuyết tật, người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người lao 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan