ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ TỰ
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ TỰ
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Tự
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
UBND: Ủy ban nhân dân
QPPL: Quy phạm pháp luật
TCN: Trước công nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1: .................................................................................................................. 7
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN ........................................................... 7
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân ................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân ............................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân ..................................................................... 13
1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân ......................................................................... 15
1.2. Khái quát chung về quyền với họ, tên ............................................................. 19
1.2.1. Nguồn gốc và khái niệm họ, tên .................................................................... 19
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm về quyền đối với họ, tên .......................................... 35
1.2.3. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và một số quyền nhân thân có liên quan .. 44
1.3. Quá trình phát tri n của quyền đối với họ, tên trên thế giới và ở Việt Nam ... 45
1.3.1. Quá trình phát triển của quyền đối với họ, tên ở Việt Nam.......................... 45
1.3.2. Quyền đối với họ, tên của một số quốc gia trên thế giới .............................. 47
1.4. Nội dung và hình thức thực hiện quyền đối với họ, tên .................................. 48
1.4.1. Nội dung pháp luật về quyền đối với họ, tên ................................................ 48
1.4.2. Các hình thức thực hiện quyền đối với họ, tên ............................................. 51
Chương 2: ................................................................................................................ 54
THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........................................................................ 54
2.1. Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về quyền đối với họ, tên
................................................................................................................................. 54
2.1.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về quyền đối với họ, tên ............................ 54
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định họ của cá nhân ............................ 58
Về xác định tên của cá nhân ................................................................................... 62
2.2. Thực trạng và thực tiễn pháp luật về quyền thay đổi họ, tên .......................... 68
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về quyền thay đổi họ, tên của cá nhân............. 74
2.3. Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về xâm phạm quyền họ tên của cá
nhân và hệ quả pháp lý ........................................................................................... 76
2.4. Nhận xét ........................................................................................................... 80
Chương 3: ................................................................................................................ 87
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN ........................................ 87
3.1. Quan đi m cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về quyền đối với họ, tên .......................................................................... 87
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên phải phù hợp với sự phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội.......................................................................... 87
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên bảo đảm mối liên hệ với
những quyền nhân thân khác .................................................................................. 87
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên ................................ 88
3.2.1. Ban hành thêm các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền đối với họ, tên .. 88
3.2.2. Kiến nghị về thẩm quyền đăng ký khai sinh và thay đổi họ tên .................... 90
3.2.3. Kiến nghị về đăng ký họ tên khai sinh có yếu tố nước ngoài ....................... 90
3.2.4. Kiến nghị về ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch .............. 91
3.2.5. Hoàn thiện pháp luật và bảo vệ quyền đối với họ, tên ................................. 96
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền đối với họ, tên .... 100
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 104
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, chính sách mở rộng hội nhập kinh tế của Đảng và
nhà nước ta đã làm cho đời sống nhân dân được cải thiện đáng k . Xã hội càng phát
tri n, nhu cầu của con người càng tăng lên, không chỉ dừng lại ở những nhu cầu vật
chất mà còn là những nhu cầu cao hơn về tinh thần.
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích của
công dân. Điều này đã được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta là
Hiến pháp năm 1946, tại thời đi m này Hiến pháp đã khẳng định quyền làm chủ và
các quyền cơ bản của nhân dân ta. Sau này trong các bản Hiến pháp tiếp theo lần
lượt là hiến pháp 1959, hiến pháp năm 1980, hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ
sung năm 2001 cho đến Hiến pháp 2013. Các quyền này cũng được cụ th hóa trong
Bộ luật Dân sự 2015 và hàng loạt các văn bản, nghị định hướng dẫn liên quan. Việc
Nhà nước ban hành và quy định các quyền nhân thân của cá nhân th hiện tầm quan
trọng của việc bảo vệ các giá trị tinh thần liên quan tới con người trong xã hội.
Cá nhân khi sinh ra đã có những quyền cơ bản mà pháp luật công nhận ngay từ
khi chào đời, một trong các quyền đó là quyền đối với họ, tên. Pháp luật Việt Nam
đã cụ th hóa: “Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định
theo họ, tên khai sinh của người đó”. Như vậy, pháp luật đã công nhận rằng cá nhân
khi sinh ra đều phải có họ, tên, mọi cá nhân đều bình đẳng như nhau đối với quyền
này. Ngoài ra, điều luật này cũng chỉ ra rằng, họ, tên của một cá nhân được xác định
theo họ, tên khai sinh của người đó. Thực tế, một đứa trẻ sinh ra có th có rất nhiều
tên gọi: tên khai sinh, tên gọi ở nhà, tên thường dùng… Trong đó, họ và tên được
ghi nhận trong giấy khai sinh được xác định là họ và tên có giá trị pháp lý. Cá nhân
có quyền đối với họ, tên tức là cá nhân có quyền được có họ và có tên. Quyền đối
với họ, tên là quyền nhân thân được quy định cho mỗi cá nhân, gắn với mỗi cá nhân
1
và không th chuy n giao. Họ, tên là yếu tố cơ bản đ phân biệt người này và người
khác sau khi nhận diện được hình dáng bên ngoài, là một trong những dấu hiệu
nhận dạng của cá nhân, do đó quyền của cá nhân đối với họ, tên được công nhận
như là một quyền cá biệt hóa cá nhân. Việc cá biệt hóa cá nhân thông qua họ, tên
cũng mang những ý nghĩa pháp lý nhất định. Trên thực tế, mọi hoạt động pháp lý,
mọi văn bản, giấy tờ pháp lý đều cần có ghi rõ họ, tên, chữ ký xác nhận của cá nhân
tham gia. Việc ghi nhận họ, tên, chữ ký trong mỗi văn bản mang tính pháp lý đảm
bảo trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân.
Với mục đích làm rõ hơn nội dung nghiên cứu về quyền đối với họ, tên, tôi lựa
chọn đề tài: “Quyền đối với họ, tên theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn làm rõ thêm về quyền đối với họ, tên,
cũng như việc thực thi quyền năng này trong xu thế phát tri n hội nhập ở Việt Nam
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay trong khoa học pháp lý, có rất ít công trình nghiên cứu về quyền đối
với họ, tên một cách có hệ thống. Có th k đến một số công trình sau đây:
Tác giả Hoàng Ngọc Hưng (2012), “Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, luận văn thạc sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội. Trong
luận văn của mình tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quyền đối
với họ, tên, luận văn đã phân tích và đưa ra quan đi m khoa học đối với một số vấn
đề mang tính khoa học lý luận về quyền đối với họ, tên. Luận văn cũng đã đề cập
tới quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành,
thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện, đồng thời đưa ra những nhận xét đánh
giá về quy định pháp luật hiện hành cũng như những bất cập tồn tại đ từ đó đề xuất
một số phương hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên. Đây
là một trong số ít những luận văn có đi trực tiếp vào vấn đề quyền đối với họ, tên
2
nhưng luận văn này đã nghiên cứu được 5 năm (từ năm 2012) cho đến nay và còn
nhiều vấn đề cần chỉnh sửa, đặc biệt trong bối cảnh BLDS năm 2015 ra đời và có
hiệu lực.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường do Tác giả Lê Đình Nghị làm chủ
nhiệm đề tài: “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp
luật dân sự”, của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008;
Tác giả Nguyễn Minh Oanh với bài viết chuyên đề: “Quyền nhân thân liên
quan đến cá biệt hóa: quyền của cá nhân đối với họ, tên, dân tộc, hình ảnh” chính là
một trong số ít những bài nghiên cứu về quyền nhân thân dưới tư cách đề tài nghiên
cứu khoa học.
Ngoài ra còn một số bài đăng trên tạp chí, cụ th :
Bài viết của tác giả Hoàng Long về “Quyền thay đổi họ, tên từ pháp luật đến
thực tiễn” đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 3/2008;
Tác giả Vương Tất Đức và Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài viết “Quy định
về thay đổi họ, tên của một người cần được hướng dẫn cụ th ” đăng trên tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 4 năm 2010 đã đưa ra những bật cập, vướng mắc của thực
tế liên quan đến quyền thay đổi họ, tên.
Tác giả Nguyễn Đình Toàn với bài viết “Xác định họ đối với cá nhân” đăng
trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số 7 năm 2008;
Tác giả Thảo Linh với bài viết “Cần có hướng dẫn về đăng ký họ, tên khi đăng
ký khai sinh” đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số 3/2008 đã đưa
ra quan đi m trong việc xác định họ, tên khi khai sinh, quy định pháp luật và thực
tiễn áp dụng.
3. Phạm vi nghiên cứu
3
Pháp luật về quyền đối với họ, tên là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp
thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ luận
văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ được giới hạn trong các văn bản
pháp luật như: Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật Công chứng năm 2014, Luật Đất
Đai năm 2013, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch năm 2014… và
các văn bản có liên quan. Nội dung nghiên cứu trong đề tài luận văn này là chủ yếu
tiếp cập vấn đề nghiên cứu dưới góc độ nội dung về quyền đối với họ, tên, cũng như
thực trạng áp dụng các quy định tương ứng về quyền đối với họ tên. Trên cơ sở đó
nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về quyền đối với họ tên.
4. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài đ làm rõ quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên theo
BLDS năm 2015. Từ những quy định pháp luật đề tài tiến hành nghiên cứu và xem
xét quyền đối với họ, tên như thế nào, khi có kết quả nhất định về áp dụng thực tế
của đề tài nghiên cứu hướng đến tìm ra những bất cập trong quy định pháp luật và
thực tiễn thực hiện đ đề xuất giải pháp hoàn thiện.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đ có th đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn phải
giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích đánh giá những vấn đề lý luận chung về quyền đối với họ,
tên, nội dung và hình thức thực thi pháp luật về quyền đối với họ tên và tìm hi u
mối liên hệ giữa quyền đối với họ tên với những quyền nhân thân khác có liên quan;
khái quát nội dung về quyền nhân thân, quyền đối với họ, tên, nội dung và hình thức
4
thực thi pháp luật về quyền đối với họ, tên và khái quát quá trình phát tri n của
quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, phân tích, đánh giá, các quy định của pháp luật về quyền đối với họ,
tên. Đồng thời, chỉ ra thực tiễn thực hiện về quyền đối với họ tên trong giai đoạn
hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở đó những phân tích về nguyên nhân của thực trạng trên và
đưa ra các giải pháp, đề xuất đ đảm bảo tốt việc thực hiện những quy định về
quyền đối với họ, tên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đ đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử: Vật chất quyết định ý thức, đời sống kinh tế xã hội quyết định đời sống
chính trị, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và sự tác động ngược trở lại của
thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở. Pháp luật dân sự nói chung, chế định nhân
thân, và các quy định về quyền cá nhân đối với hình ảnh nói riêng thuộc phạm trù
của kiến trúc thượng tầng nên tất yếu chịu sự chi phối của đời sống kinh tế, văn hóa
xã hội. Do đó việc nghiên cứu đề tài sẽ không tách khỏi nguyên lý trên.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật với tình huống thực tế,
với các quy định của luật pháp các nước trên thế giới đ tìm ra những hợp lý, bất
cập trong quy định của pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích phản ánh các vụ việc trong thực tiễn xét xử
liên quan đến quy định của pháp luật hiện hành về quyền đối với họ, tên.
5
- Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng đ tri n khai có
hiệu quả các vấn đề liên quan đến các quy định về quyền đối với họ, tên, đặc biệt là
các kiến nghị hoàn thiện, trên cơ sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái quát,
xúc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch đ làm rõ nội dung của kiến nghị
đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Là một trong những nghiên cứu về các quy định của pháp luật về dân sự nói
chung về chế định về quyền đối với họ, tên theo pháp luật Việt Nam nói riêng, bằng
phương pháp phân tích, so sánh nói trên cùng với thực tiễn trong quá trình áp dụng
các quy định của luận văn sẽ hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền đối với họ, tên, ngoài ra luận văn còn nêu bật lên việc thực hiện pháp luật về
quyền đối với họ, tên. Từ đó, đưa ra các kiến nghị, giải pháp đ hoàn thiện các quy
định về quyền đối với họ, tên trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương, cụ th :
Chương 1: Lý luận về quyền đối với họ, tên
Chương 2: Thực trạng về quyền đối với họ, tên theo pháp luật Việt Nam và
thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về quyền đối với họ, tên
6
Chương 1:
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN
1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự không th thiếu của mỗi con
người. Quyền nhân thân được ghi nhận, phát tri n và thực thi gắn liền với từng chủ
th từ khi sinh ra cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại nữa, phản ánh nhiều hơn
quy trình phát tri n lịch sử mang tính quy luật của việc tăng cường những nền tảng
dân chủ trong những hình thái xã hội khác nhau.
“Quyền” là những xử sự được phép của các chủ th nói chung. Quyền của
chủ th có th là quyền tự nhiên, vốn có, không do ai quy định, cho phép và cũng có
th trên cơ sở quy định của pháp luật, trên cơ sở ủy quyền từ phía chủ th khác.
“Nhân thân” là tổng hợp các đặc đi m về xuất thân, giới tính, tuổi tác, sức khỏe,
tính cách, học vấn, quá trình giáo dục, nghề nghiệp, thành phần tôn giáo, hoàn cảnh
gia đình, địa vị xã hội của cá nhân… Mỗi người đều có nhân thân riêng, ảnh hưởng
đến nhận thức và hành vi của người đó [22].
Quyền nhân thân thuộc phạm trù của quyền con người, chỉ gắn với mỗi con
người cụ th . Ở mức độ cao nhất, quyền con người là những quyền tự nhiên vốn có
khi con người sinh ra, thiêng liêng và bất khả xâm phạm, như quyền sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Mỗi con người đều có đời sống riêng, tâm tư, tình
cảm, nhân cách, phẩm giá, uy tín riêng… làm nên những giá trị tinh thần cốt lõi của
người đó. Các quyền nhân thân luôn th hiện đời sống tinh thần của mỗi con người
cụ th . Pháp nhân, chủ th khác không th có tâm tư, tình cảm, phẩm giá… như một
con người.
Đối tượng của quyền nhân thân là giá trị tinh thần (phi vật chất), luôn gắn liền
với cá nhân và không th chuy n giao (trừ một số trường hợp đặc biệt theo quy định
7
của luật). Còn các yếu tố như danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ th khác là những
giá trị vô hình của pháp nhân, chủ th khác thông qua quá trình hoạt động, gắn liền
với lợi ích mà pháp nhân, chủ th khác hướng tới và mong muốn đạt được.
Một số quyền nhân thân được bảo vệ vô thời hạn mà không phụ thuộc là cá
nhân đó còn sống hay đã chết. Pháp nhân, chủ th khác xét về tư cách chủ th là do
được thành lập trên cơ sở quyết định hành chính hoặc đăng ký thông qua trình
tự, thủ tục hành chính, được phân biệt thông qua tên gọi, trụ sở, cơ cấu tổ chức, lĩnh
vực hoạt động, tài sản… và có th bị chấm dứt sự tồn tại trên cơ sở thủ tục hành
chính hoặc thủ tục tư pháp do pháp luật quy định. Danh dự, uy tín của pháp nhân,
chủ th khác được tích lũy do quá trình hoạt động của pháp nhân, chủ th khác và sẽ
mất đi khi pháp nhân, chủ th khác đó chấm dứt sự tồn tại.
Tuy quyền nhân thân thuộc phạm trù quyền con người (là những quyền tự
nhiên), nhưng gắn với những điều kiện lịch sử, chính trị – xã hội, cơ sở kinh tế của
mỗi quốc gia mà mức độ ghi nhận và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật có
những giới hạn nhất định.
Quyền nhân thân có lịch sử phát tri n từ lâu đời, từ thời La Mã, phạm trù
pháp lý về các quyền cá nhân đã được ghi nhận một cách gián tiếp thông qua hình
thức các đơn kiện vật quyền và đơn kiện cá nhân. Trong giai đoạn Nhà nước phong
kiến, với đặc trưng là nông dân phụ thuộc vào các lãnh chúa, cá nhân thường trong
tình trạng “vô quyền”, không phải là chủ th của pháp luật, cá nhân có nghĩa vụ
phải tuân thủ mệnh lệnh chứ không được chống lại sự lạm quyền của nhà nước.
Chính vì vậy trong giai đoạn này, tự do cá nhân không phát tri n. Đến giai đoạn tư
bản chủ nghĩa, cá nhân mới từng bước ý thức được giá trị nhân thân của mình đã bị
xâm phạm, tuyên ngôn về quyền con người và công dân của nước Pháp năm 1789
đã th hiện con người có quyền sống, tự do, bất khả xâm phạm về đời sống cá nhân,
hôn nhân, danh dự, uy tín, tự do lựa chọn nơi sinh sống,… đã được th hiện trong
tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, công ước quốc tế về các quyền kinh tế
8
xã hội và văn hóa 1966, công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và những tự
do cơ bản năm 1950 [24].
Trên thế giới, quyền nhân thân là chế định pháp lý mang tính chất đa ngành,
trong đó chứa đựng quy phạm pháp luật của nhiều ngành nghề khác nhau. Cơ sở
nền tảng điều chỉnh quan hệ nhân thân chính là Hiến pháp và pháp luật dân sự. Bởi
tuy việc ghi nhận mang tính hiến định của Hiến pháp sẽ không đủ cho việc thực thi
và bảo vệ các giá trị một cách hiệu quả trong trường hợp có hành vi xâm phạm
quyền nhân thân xảy ra. Luật dân sự là ngành luật đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ các giá trị nhân thân, bảo vệ đời sống cá nhân, tự do, danh dự, nhân
phẩm của mỗi con người. Các chủ th nắm giữ các giá trị nhân thân có th sử dụng
những biện pháp trách nhiệm dân sự đ bảo vệ quyền lợi của mình, trong đó việc áp
dụng những biện pháp này cần được tính đến những đặc trưng của quan hệ nhân
thân.
Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự là tổng hòa các mối quan hệ giữa
những chủ th xác định liên quan đến các giá trị nhân thân được điều chỉnh bởi quy
phạm pháp luật dân sự. Pháp luật thừa nhận và bảo vệ một số quyền nhân thân quan
trọng.
Về mặt tính chất, quyền nhân thân là quyền tuyệt đối. Người có quyền đối lập
với phạm vi không xác định các chủ th có nghĩa vụ tôn trọng những giá trị nhân
thân được bảo vệ. Cần phân biệt quyền nhân thân với tư cách là một quyền tuyệt
đối, một trong những đặc trưng cơ bản của quyền nhân thân là cấu trúc của nó khác
với các loại quyền tuyệt đối. Quyền nhân thân được chủ th thực hiện quyền bằng
những hành vi riêng của mình, trong những hành vi này nằm ngoài sự điều chỉnh cụ
th của pháp luật. Người có quyền nhân thân có quyền đòi hỏi một phạm vi không
xác định những người khác có nghĩa vụ không được xâm phạm quyền nhân thân của
chủ th , hoặc có quyền yêu cầu những biện pháp bảo vệ do pháp luật quy định trong
những trường hợp quyền nhân thân bị xâm phạm.
9
Về mặt thực thi, quyền nhân thân không đặt ra các giới hạn thực thi mà chỉ
đặt ra những ranh giới ngăn chặn sự can thiệp của người thứ ba đối với lĩnh vực cá
nhân của một người. Trong đó, những quy phạm đạo đức có ý nghĩa quan trọng đối
với những ranh giới được phép của chủ th quyền và chủ th nghĩa vụ. Bản chất bảo
vệ quyền nhân thân là sự bảo đảm tự do cho các cá nhân nằm trong việc xác định
hành vi của mình theo ý chí, theo nhìn nhận của bản thân, loại bỏ sự can thiệp của
chủ th khác vào đời sống cá nhân.
Trong khoa học pháp lý về dân sự, quyền nhân thân là những quan hệ được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật giữa các chủ th liên quan đến giá trị nhân
thân. Như vậy, quyền nhân thân trong pháp luật dân sự là quyền chủ th của cá nhân
xuất hiện do việc điều chỉnh các quy phạm pháp luật dân sự đối với các quan hệ liên
quan đến giá trị nhân thân của chủ th đó. Dưới góc độ khách quan, quyền nhân
thân trong pháp luật dân sự là những quan hệ được điều chỉnh bởi các quy phạm
pháp luật dân sự giữa các chủ th xác định liên quan đến các giá trị nhân thân. Về
mặt chủ quan, quyền nhân thân là các mức độ hành vi cho phép chủ th th hiện
quyền th hiện ở sự tự do lựa chọn hành xử trong đời sống cá nhân theo sự nhìn
nhận của mình, loại bỏ bất cứ sự can thiệp nào từ phía các chủ th khác, trừ những
trường hợp do pháp luật quy định. Do vậy, quyền nhân thân là quyền chủ th xuất
hiện do hệ quả của việc điều chỉnh các quan hệ thân nhân bởi các quy phạm pháp
luật.
Theo Từ đi n Luật học của Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tư pháp năm 2006
định nghĩa về quyền nhân thân là: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không
th chuy n giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Quyền
nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối
với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân th ; quyền
được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết
hôn, quyền ly hôn, quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự
10
do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối với tác
phẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp [31, tr. 653].
Một số nghiên cứu cũng đưa ra khái niệm quyền nhân thân như sau: Theo
nghĩa khách quan: "Quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù pháp lý bao gồm
tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy
định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là
cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình" [21]. Theo nghĩa chủ quan:"quyền
nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá nhân do Nhà nước quy định
cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác" [21].
Tại Hội thảo khoa học: “Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân bằng
pháp luật dân sự”, Giáo sư Ravanas đã phân tích khái niệm quyền nhân thân xuất
phát từ khái niệm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do dân sự và quyền
của cá nhân. Sau quá trình phân tích, Giáo sư đã đưa ra nhận định: “Quyền nhân
thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và nhằm bảo vệ nhân thân của mỗi
người không phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình, địa vị, tuổi tác của họ”; và nêu cụ
th các đặc đi m của quyền nhân thân, bao gồm: (i) từ khi sinh ra tất cả mọi người
đều có quyền nhân thân; (ii) quyền nhân thân không nằm trong tài sản của cá nhân;
(iii) quyền nhân thân không th bị định đoạt, có nghĩa là không th chuy n nhượng;
và (iv) quyền nhân thân không th chuy n giao cho người khác [9]. Quan đi m của
Giáo sư Ravanas về quyền nhân thân cũng xuất phát từ quan niệm “là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân”.
Trong khoa học pháp lý, công trình nghiên cứu của Tòa án nhân dân tối cao
[23] đã đề cập tới quyền nhân thân dưới hai giác độ: Dưới giác độ chủ th , quyền
nhân thân về dân sự được hi u là quyền con người về dân sự gắn liền với mỗi cá
nhân được thụ hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng k từ thời đi m người
đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý
11
của mình trong giao lưu dân sự, do đó mỗi cá nhân đều có quyền nhân thân riêng và
quyền này không th chuy n giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Dưới giác độ khách th , quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được
hi u là chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân đ đảm bảo địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp
lý đ cá nhân được thực hiện các quyền con người về dân sự trong sự bảo hộ của
Nhà nước và pháp luật. Theo đó, quyền nhân thân được nhìn nhận trên hai yếu tố cơ
bản là chủ th quyền (quyền con người) và khách th (chế định pháp luật) đều gắn
liền với mỗi cá nhân.
Theo tác giả Nguyễn Thị Quế Anh: “quyền nhân thân trong luật dân sự là
quyền chủ thể của các cá nhân xuất hiện do việc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật dân sự đối với các quan hệ liên quan đến các giá trị nhân thân của các chủ thể
đó” [24].
Ở Việt Nam, quyền nhân thân đã có những sự ghi nhận và bảo vệ khá toàn
diện, đặc biệt là k từ khi ban hành BLDS 2015. BLDS 2015 cũng đưa ra định nghĩa
về quyền nhân thân và thừa nhận quyền nhân thân chỉ thuộc về cá nhân, như
sau: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác
có quy định khác” (khoản 1 Điều 25). Xét về các đặc tính của quyền nhân thân, hầu
hết các định nghĩa đã nêu trên đều thừa nhận các đặc tính cơ bản của quyền nhân
thân gồm: (1) Đối tượng của quyền nhân thân là giá trị tinh thần (phi vật chất); (2)
gắn liền với cá nhân và không th chuy n giao; và (3) có tính cá biệt hóa cá nhân.
Đây là những đặc trưng khác biệt với các quyền dân sự khác.
Từ những lập luận và phân tích trên, tác giả xin đưa khái niệm về quyền nhân
thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể, không
định giá được bằng tài sản và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
12
1.1.2. Đặc điểm của quyền nhân thân
Quyền nhân thân là loại quyền tuyệt đối, chủ th quyền nhân thân được bảo
vệ các giá trị nhân thân của mình chống lại bất cứ chủ th nào có hành vi xâm
phạm, có th thấy quyền nhân thân có đặc đi m đặc trưng như sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân luôn mang tính cá nhân tuyệt đối. Quyền nhân
thân luôn gắn với một cá nhân cụ th và thuộc về người đó từ khi cá nhân đó được
sinh ra hoặc theo các căn cứ khác do pháp luật quy định. Hệ quả của tính cá nhân
tuyệt đối của quyền nhân thân chính là việc quyền này không th chuy n giao cho
người khác, trừ trường hợp khi có quy định của pháp luật. Ví dụ: các quyền nhân
thân thuộc về người đã chết có th được thực thi và bảo vệ bởi các chủ th khác,
trong đó có người thừa kế của chủ th đã chết; những người đại diện có th khởi
kiện đ bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người chưa thành nhiên, quyền công bố
hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm có chế độ pháp lý như quyền tài sản
(tức là có th chuy n giao cho người khác). Như vậy, bản chất không dịch chuy n
của quyền nhân thân không loại bỏ khả năng thực thi và bảo vệ quyền nhân thân
thông qua những người thứ ba.
Thứ hai, mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân. Mọi người
đều có quyền nhân thân k từ khi họ được sinh ra, không phân biệt giới tính, tôn
giáo, thành phần giai cấp... Chúng ta thấy quyền nhân thân có một sự khác biệt cơ
bản với quyền tài sản vì quyền bình đẳng về mặt dân sự không quy định tất cả mọi
người đều có khả năng hưởng những quyền như nhau. Nguyên tắc bình đẳng về
mặt dân sự có nghĩa là mọi cá nhân đều có những quyền như nhau, đó không phải
là một khả năng trừu tượng mà là một thực tế. Lợi ích của quyền nhân thân được
quy định như một thực tế chứ không phải là quy định mang tính hình thức.
Thứ ba, quyền nhân thân có tính chất phi tài sản. Quyền nhân thân hướng tới
việc bảo vệ và phát tri n các giá trị của từng cá nhân con người thông qua việc xác
định đặc thù của trình tự xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền. Hướng tới việc cá
13
th hóa cá nhân, đối tượng của quyền nhân thân chính là các giá trị nhân thân của
từng cá nhân. Những giá trị nhân thân này th hiện tình trạng xã hội của cá nhân –
chủ th mang giá trị nhân thân đó, là cho cá nhân đó trở nên “độc nhất vô nhị” và
không th lặp lại. Các giá trị nhân thân không th được định giá bằng tiền, do vậy
quyền nhân thân không mang nội dung tài sản. Ngay cả trường hợp bồi thường
thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền nhân thân thì khoản tiền này là khoản bồi đắp
những mất mát, tổn thương mà người này bị gây thiệt hại chứ không có nghĩa là
định giá giá trị nhân thân bị vi phạm. Có một thuật ngữ khác cần phân biệt ở đây là
chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hay không gắn với tài sản mà thôi. Vì không
phải là tài sản nên quyền nhân thân không bao giờ trị giá được thành tiền. Về mặt
pháp lý, chúng ta cần phân định rõ tính chất phi tài sản của quyền nhân thân. Sáng
chế hay giải pháp hữu ích do con người sáng tạo nên mang giá trị kinh tế, chứ bản
thân "Quyền tự do sáng tạo" không phải là tài sản, không mang giá trị kinh tế.
Thứ tư, quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không th chuy n giao
cho chủ th khác. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn
liền với mỗi cá nhân mà không th chuy n dịch cho chủ th khác. Các quyền dân
sự nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ th
dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do vậy về mặt nguyên tắc, cá nhân
không th chuy n dịch quyền nhân thân cho chủ th khác, nói cách khác thì quyền
nhân thân không th là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá nhân.
Thứ năm, quyền nhân thân là một quyền dân sự do Nhà nước quy định cho
cá nhân, Nhà nước không cho phép cá nhân hạn chế quyền nhân thân của mình
cũng như hạn chế quyền nhân thân của người khác.
Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp luật dân
sự của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân
là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ th được pháp luật thừa
nhận. Việc pháp luật quy định cho cá nhân có các quyền nhân thân khác nhau là
14
- Xem thêm -