Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên theo pháp luật tố ...

Tài liệu Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

.PDF
84
165
109

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI PHƯƠNG NAM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI PHƯƠNG NAM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học TS. VÕ THỊ KIM OANH HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ..................... 6 1.1 Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên .................................................................................................................... 6 1.2 Đặc điểm và nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên ............................................................................................... 12 1.3 Các bảo đảm thực hiện quyền bào chữa người bị buộc tội là người chưa thành niên ........................................................................................................ 18 Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.............................................................................................................. 29 2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên ................................................................... 29 2.2 Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên tại Quận Bình Tân ......................................................................... 41 Chương 3 GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................................................................ 62 3.1 Yêu cầu đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 ......................................................................................................... 62 3.2 Các giải pháp cụ thể .................................................................................. 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CCTP : Cải cách tư pháp CTN : Chưa thành niên CQĐT : Cơ quan điều tra CƯQT : Công ước quốc tế HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân NBC : Người bào chữa QCN : Quyền con người TAND : Toà án nhân dân THTT : Tiến hành tố tụng TNHS : Trách nhhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, là quyền hiến định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của nước Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã kế thừa các bản Hiến pháp trước đó đã quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn về quyền bào chữa của công dân. Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm bảo quyền bào chữa, không chỉ bị can, bị cáo mới có quyền bào chữa như các bản Hiến pháp trước đây, mà ngay từ khi một người bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa đối với họ và được đảm bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Người chưa thành niên phạm tội là một chủ thể đặc biệt của Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, việc xử lý, áp dụng các thủ tục tố tụng với người chưa thành niên phạm tội đòi hỏi phải có những quy định riêng biệt. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đã dành hẳn một chương riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người chưa thành niên. Đó là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, của người bào chữa... đối với những vụ án có người chưa thành niên phạm tội. Ghi nhận các quyền cũng như đảm bảo quyền tố tụng của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của họ, mà một trong những quyền đó là quyền bào chữa. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII nước ta thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 27/11/2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, có nhiều quy định được điều chỉnh, sửa đổi đã đảm bảo hơn 1 quyền con người, quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và của người bị buộc tội là người chưa thành niên nói riêng. Do vậy, đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện về lý luận và thực tiễn trong tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với chưa thành niên phạm tội để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, một trong những quyền đó là quyền bào chữa. Vì vậy, người viết chọn đề tài “Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự đã được công bố như: - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS.Đỗ Thị Phượng, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007. - Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, của TS.Lại Văn Trình, Đại học Luật TP.HCM năm 2011. - Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ, của TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, NXB Chính trị Quốc gia năm 2013. - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS.Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa học xã hội, năm 2014. - Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, của TS.Nguyễn Hữu Thế Trạch, Đại học Luật TP.HCM năm 2014. Các công trình này chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề như: Bảo vệ quyền và lợi ích của bị can, bị cáo là người chưa thành niên; vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội; bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người 2 chưa thành niên; đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên v.v… Tuy nhiên, vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho đối tượng là bị can, bị cáo là người chưa thành niên bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam - đối tượng được hưởng quyền bào chữa mới được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, mang tính nguyên tắc của việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự; những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa cho người chưa thành niên hiện nay. Qua đó, đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2 Nhiệm vụ của đề tài Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về bảo đảm quyền bào chữa nói chung, của người bị buộc tội là người chưa thành niên nói riêng; - Phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa ở Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Nhà nước ta ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; - Làm rõ khái niệm chủ thể: người bị buộc tội là người chưa thành niên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; - Làm rõ phạm vi và mối liên hệ giữa người dưới 18 tuổi và người chưa thành niên theo quy định của pháp luật; 3 - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền bào chữa đối với người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên từ thực tiễn Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh 4.2 Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên. Nghiên cứu thực tiễn quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trên địa bàn Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh thông qua các số liệu, các báo cáo công tác của VKSND, TAND Quận Bình Tân, Tp.Hồ Chí Minh và các bản án trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, về quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu phương pháp phân tích, thống kê so sánh đã được sử dụng khi phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế, bất cập của chúng và so sánh với yêu cầu của cải cách tư pháp để xác định những định hướng hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Phương pháp tổng họp được sử dụng khi đưa ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến quyền bào chữa của người chưa thành niên phạm tội khi tham gia hoạt động tố tụng hình sự . 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 4 Đề tài nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng về việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự. Từ đó, đề xuất phương hướng và các giải pháp để bảo đảm quyền bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về bào chữa và đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật về đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự; qua đó khắc phục được những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa cũng như xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên. - Chương 2: Quy định pháp luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng tại Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh . - Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1 Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên 1.1.1 Khái niệm về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Quyền con người luôn là vấn đề được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm. Để đảm bảo QCN trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp của nước ta đều đã ghi nhận và có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong đó không thể không kể đến QBC và những đảm bảo cần thiết để quyền đó được thực hiện. Việc Hiến pháp ghi nhận QBC càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của chế định này. Điều 34 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng quy định và ghi nhận QBC của bị can, bị cáo nhằm không để bất kì người nào có thể bị hạn chế hay tước quyền cơ bản mà pháp luật đã dành cho họ. Quyền bào chữa là một trong những chế định pháp lý quan trọng và phức tạp, vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, QBC đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái niệm, nội dung, bản chất chủ thể... của quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, xác định khái niệm QBC trên cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với quy định của pháp luật là cần thiết nhằm không ngừng phát huy dân chủ, củng cố cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong pháp luật vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC. Quyền bào chữa là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn cần được làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo QBC cho người bị buộc tội. Hiện nay xung quanh khái niệm về QBC có nhiều quan điểm khác nhau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can [38, tr.33] 6 - Quan điểm thứ hai cho rằng, QBC được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án [25, tr.89]. - Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội, người bị kết án, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ [25, tr.89] - Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền bào chữa trong hộ luật tố tụng hình sự là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ; bị can, bị cảo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phủ hợp với quy định của pháp ỉuậi nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm gỉảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự [9, tr29]. - Quan điểm thứ 5, là quan điểm trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003: quyền bào chữa thuộc về người bị tam giữ, bị can, bị cáo. Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm về QBC trong TTHS đã được hiểu rất khác nhau. Dù sao, ta cũng thấy rằng, nhu cầu bào chữa có thể xuất hiện, tồn tại ở tất cả các giai đoạn TTHS, kể cả giai đoạn tiền khởi tố và giai đoạn thi hành án. Các luật gia Việt Nam và thế giới đều khẳng định, việc buộc tội và truy cứu TNHS đối với một người phải do cơ quan THTT thực hiện theo những thủ tục luật định và phải dựa trên những chứng cứ đúng đắn, hợp pháp và có căn cứ, nhằm mục đích không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Việc buộc tội đối với một người tất yếu dẫn đến sự hạn chế đối với một số quyền tự do về thân thể, đi lại và các quyền cơ bản khác của người đó. Vì vậy, nếu buộc tội đối với người mà thực tế là người đó vô tội thì cũng có nghĩa là cơ quan THTT đã vi phạm QCN. Tuy nhiên, dù cơ quan THTT buộc tội một người nào đó dựa trên các chứng cứ hợp pháp thì vẫn phải có nghĩa vụ đảm bảo các quyền mà pháp luật quy định cho họ (ví dụ: cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can được bày tỏ thái độ của mình đối với lời buộc tội, được chứng minh là mình vô tội, đưa ra những căn cứ để minh oan 7 hoặc làm giảm nhẹ tội...), tức là phải bảo đảm cho người bị buộc tội có quyền được bào chữa. Như vậy, chúng ta thấy rằng ngoài bị can, bị cáo thì người bị bắt, bị tạm giữ cũng là đối tượng bị buộc tội. Chỉ trên cơ sở coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam là đối tượng bị buộc tội thì cơ quan THTT mới có quyền ra quyết định tạm giữ, tạm giam một con người - xâm phạm quyền tự do về thân thể của họ, một trong những quyền Hiến định của công dân và áp dụng các biện pháp điều tra với họ như lấy lời khai, thu thập chứng cứ. Vì vậy quy định cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam có QBC để bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của mình là hoàn toàn hợp lý khi mà họ đã và đang bị áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS. Nói cách khác, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam là chủ thể bị buộc tội. Đối với bị can, bị cáo thì sự buộc tội đối với họ đã được khẳng định bằng quyết định khởi tố và bản cáo trạng nên đương nhiên pháp luật phải quy định cho họ QBC. Như vậy QBC thông thường xuất hiện khi một người bị cơ quan THTT ra quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thì QBC xuất hiện sớm hơn khi họ bị cơ quan THTT ra quyết định tạm giữ, tạm giam và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Từ sự tổng hợp và phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về QBC trong TTHS như sau: Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng tố tụng hình sự của người bị buộc tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự. 1.1.2 Khái niệm người chưa thành niên và người bị buộc tội là người chưa thành niên Điều 1 phần 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 quy định “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định độ tuổi thành niên sớm hơn”. Theo Công ước, trẻ em bao gồm tất cả những ai chưa phải là người lớn, nghĩa là những ai dưới 18 tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi được ghi 8 nhận trong Công ước. Bên cạnh Công ước quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên họp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người CTN, hay còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985. Quy tắc Bắc Kinh không nêu rõ người CTN là người dưới 18 tuổi mà chỉ đưa ra khái niệm trẻ em hoặc người ít tuổi. Theo quy tắc này thì “Người chưa thành niên phạm pháp là trẻ em hay người ít tuổi bị cho là hay bị phát hiện là phạm pháp”. Quy tắc cũng định nghĩa người chưa thành niên và phạm pháp là những nhân tố của người chưa thành niên phạm tội. Nhưng giới hạn độ tuổi phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên. Do đó, có thể thấy rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người CTN trong pháp luật quốc tế không dựa vào các đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần ... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái niệm trẻ em và khái niệm người CTN đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền thống của mình có thể quy định độ tuổi sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần tư pháp người CTN, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý những người CTN vi phạm pháp luật. Người CTN trong pháp luật Việt Nam được xác định tương đối thống nhất trong các đạo luật: Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 1999, Bộ luật TTHS năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật xử lý vi phạm Hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Các văn bản pháp luật này đều quy định độ tuổi của người CTN là người dưới 18 tuổi và trong từng lĩnh vực cụ thể đều có những chế định pháp luật hoặc các quy định riêng cho người CTN. Chúng ta cũng cần chú ý phân biệt khái niệm người CTN khác với khái niệm trẻ em theo Luật trẻ em năm 2016: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” Như vậy, về độ tuổi thì người CTN là người chưa đủ 18 tuổi. Ở độ tuổi này, những đặc điểm về tâm sinh lý của người CTN có những biểu hiện khá phức tạp và mang những đặc trưng riêng tùy theo giai đoạn phát triển. 9 Cho dù còn có những cách đặt vấn đề khác nhau, song nhìn chung quan niệm về người CTN được hiểu là: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên” [30, tr38]. Người bị buộc tội là khái niệm mới của luật TTHS Việt Nam, nhiều văn bản pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định đối tượng này là chủ thể của TTHS. Công ước Châu Âu về QCN cũng đã đề cập đến đối tượng này. Để làm rõ khái niệm người bị buộc tội thì phải xuất phát từ khái niệm “Sự buộc tội” theo đó sự buộc tội chỉ xuất hiện khi một người bị cáo buộc là đã thực hiện một hành vi mà BLHS coi là tội phạm. Sự buộc tội được coi là hình thành từ thời điểm một người được thông báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về những chứng cứ rõ ràng cho rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, và kể từ thời điểm đó một người bị coi là người bị buộc tội trong VAHS. Sự buộc tội sẽ tồn tại và kéo dài trong suốt quá trình tố tụng chứng minh hành vi của người bị cáo buộc có tội hay không có tội và kết thúc bằng một quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của cơ quan THTT. Như vậy: Người bị buộc tội là người bị cơ quan có thẩm quyền cáo buộc đã thực hiện một hành vi tội phạm bằng thông báo chính thức. Với quan điểm, buộc tội và bào chữa song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, thì ở đó có bào chữa mới thể hiện tính dân chủ, đảm bảo QCN trong TTHS. Với quá trình xây dựng, sửa đổi Bộ luật TTHS, để nhằm đảm bảo quyền cho những đối tượng này, chủ thể bị buộc tội ngày càng mở rộng, mặc đù trong các Bộ luật TTHS năm 1988 và Bộ luật TTHS năm 2003 chưa ghi nhận cụ thể đối tượng người bị buộc tội, nhưng đã quy định bị can, bị cáo có quyền bào chữa. Bộ luật TTHS năm 2003, ngoài bị can, bị cáo còn quy định thêm đối tượng là người bị tạm giữ có QBC hoặc nhờ người khác bào chữa. Hay nói một cách gián tiếp đã xem người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị buộc tội. Để thống nhất trong hoạt động tố tụng cũng như phù hợp với các quy định của CƯQT, luật pháp của các nước tiên tiến trên thế giới, Bộ luật TTHS năm 2015 10 của Việt Nam đã quy định: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ; bị can, bị cáo ”. Vậy có thể hiểu, người bị buộc tội là người CTN là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dưới 18 tuổi. Tuy nhiên không phải tất cả người dưới 18 tuổi là người CTN khi thực hiện một hành vi phạm tội đều bị buộc tội hay phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” Do đó, có thể đưa ra khái niệm người bị buộc tội là người CTN chính xác như sau: Người bị buộc tội là người CTN là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. 1.1.3 Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng tố tụng hình sự của người bị buộc tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự. Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi - là tổng hợp các quyền năng tố tụng hình sự của họ có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với họ của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ trong vụ án hình sự. Có thể thấy quyền bào chữa của người bị buộc tội là người CTN cũng giống như quyền bào chữa của người đã thành niên. Nhưng đặc biệt hơn, ngoài các quyền bào chữa như người đã thành niên, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003, khi người bị buộc tội là người CTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ. Điều này thể hiện tính nhân văn trong chính sách hình sự và mang ý nghĩa chính trị sâu sắc: quyền công 11 dân được tôn trọng và bảo đảm, hay nói một cách khác quyền dân chủ của công dân và cơ chế tự do dân chủ ở nước ta ngày càng phát triền và mở rộng trong thời kỳ mở cửa và hội nhập quốc tế. 1.2 Đặc điểm và nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên 1.2.1 Đặc điểm quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên Qua xem xét lịch sử của TTHS thế giới trước đây, hầu như không có sự phân biệt đáng kể của nhà nước và xã hội đối với người bị buộc tội là người thành niên và người bị buộc tội là người CTN trong các VAHS. Người ta chỉ quan niệm đơn giải rằng người bị buộc tội là người chưa thành niên chỉ là người bị buộc tuổi còn nhỏ. Đến cuối thế kỷ 19, mới hình thành thái độ của nhà nước về người bị buộc tội là người CTN trong VAHS. Thay đổi cách nhìn đối với họ và xem họ là đối tượng cần bảo vệ đặc biệt và hình thành nên tư tưởng lập pháp về TTHS đối với người bị buộc tội là người CTN. Tư tưởng này trở thành xu hướng chung ngày càng mang tính nhân văn, hình thành những chuẩn mực chung về thái độ của nhà nước đối với người bị buộc tội là người CTN cho đến nay. Bộ luật TTHS năm 2003 đã bắt kịp xu hướng chung này của TTHS thế giới khi nhìn nhận thủ tục TTHS đối với người CTN là một trong những thủ tục tố tụng đặc biệt quy định tại Chương XXXII (Chương XXVIII thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, Bộ luật TTHS năm 2015). Tính chất đặc biệt của thủ tục này thể hiện ở chỗ chúng được áp dụng đối với người CTN đồng thời đối với những quy định khác của Bộ luật TTHS nếu các quy định này không trái với những quy định đặc thù. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về chính sách hình sự đối với người CTN phạm tội tại Điều 69 chủ yếu liên quan đến năng lực chịu TNHS, mục đích áp dụng TNHS nặng về giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội chứ không nặng về trừng phạt. Còn chính sách hình sự trong TTHS đối với người bị buộc tội là người CTN có những quy định nhằm bảo đảm một cách tốt nhất QBC cho đối tượng này, 12 hạn chế một cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách thấp nhất những tác động không thể ừánh khỏi về tâm lý đối với người bị buộc tội là người CTN do hoạt động TTHS gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc làm rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ để Tòa án có thể xét xử và tuyên bản án có tác động tích cực nhất đến tâm lý của đối tượng này. Để thống nhất với tư tưởng chủ đạo trong CƯQT về quyền trẻ em đã nêu ở trên, về lý thuyết chính sách hình sự trong lĩnh vực TTHS đối với người bị buộc tội là người CTN cần bao gồm hai nội dung sau đây: Mở rộng QCN tức là quyền tố tụng của người CTN so với người thành niên. Người bị buộc tội là người CTN có đầy đủ các quyền tố tụng như người bị buộc tội là người thành niên. Bên cạnh đó, họ còn được thừa nhận những quyền tố tụng đặc thù để có thể bảo vệ một cách tốt nhất, thuận lợi nhất quyền và lợi ích chính đáng của mình. Mở rộng những bảo đảm QCN của người bị buộc tội là người CTN trong hoạt động TTHS. Một trong những bảo đảm quan trọng QCN của đối tượng này là những quy định, trình tự, điều kiện riêng hoặc có tính chất bổ sung khi thực hiện những hành vi tố tụng đối với họ. Trong hoạt động TTHS, QBC là quyền quan trọng nhất của người vi phạm pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng do người bị buộc tội thực hiện nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ TNHS của mình trong VAHS. Thông thường sự tham gia của NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Họ có thể trực tiếp mời hoặc ủy quyền cho người thân của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt luật quy định sự tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Đó là các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003 khi những chủ thể này hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì các cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử NBC cho họ. Đó là những trường hợp liên 13 quan đến các bị can, bị cáo là người CTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình. Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định mang đầy tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam. Quy định về sự tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội mà là làm tăng thêm tính bảo đảm QBC cho họ. QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho người bị buộc tội là người CTN mà còn cần thiết, có ích cho hoạt động tố tụng của chính các cơ quan THTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động bào chữa đối với hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội CQĐT, VKS chính là yếu tố hạn chế sai lầm, hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này đồng thời buộc những cơ quan này phải không ngừng hoàn thiện năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN trong TTHS. 1.2.2 Nội dung quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa thành niên Trong lịch sử pháp luật TTHS trước đây, địa vị pháp lý của người bị buộc tội chưa được xác định rõ ràng nên họ thường bị coi là có tội và một khi đã bị coi là có tội, mặc nhiên số phận của họ là số phận của kẻ bị tước phần lớn các quyền công dân. Hiện nay, với nguyên tắc coi người bị buộc tội là những người chưa có tội nên pháp luật TTHS đã đành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố tụng. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng mình theo trình tự luật định và cỏ bản án kết tội của Tòa án đã cỏ hiệu lực pháp luật”. Mục đích của những quy định chủ yếu là đặt ra những yêu cầu đối với các cơ quan và những người THTT phải có sự thận trọng, vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm làm rố các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội. Việc nâng cao hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật không thể thiếu sự củng cố và tăng cường nguyên tắc bảo đảm QBC của người bị buộc tội. Nếu như QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những quyền và 14 lợi ích hợp pháp thì biện pháp bào chữa là các hành động cụ thể để thực hiện quyền ấy như làm đơn khiếu nại, kháng cáo.v.v. Nói cách khác, đảm bảo QBC chính là cơ chế thực hiện QBC. ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người THTT, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp người bị buộc tội thực hiện QBC. Tại điểm d khoản 3 Điều 14 của CƯQT về các quyền chính trị, dân sự quy định khi bị khởi tố về hình sự, bất cứ ai (bao gồm cả trẻ em) cũng có quyền: “Tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý của người khác theo sự lựa chọn của mình; được thông tin về quyền trên nếu họ không có người bào chữa; và trong trường hợp cần thiết được cử người bào chữa mà không phải trả tiền nếu họ không có đủ tiền để trả” Theo quy định tại Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc bảo đảm QBC của người bị buộc tội, trong đó nêu rõ: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Tại Điều này tuy không quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chửa của người CTN nhưng với quy định chung về quyền này của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì đương nhiên người CTN trong trường hợp là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng sẽ có đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Còn các cơ quan THTT có trách nhiệm bảo đảm để cho người bị buộc tội là người CTN thực hiện QBC của mình. 1.2.2.1 Về quyền tự bào chữa. Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép người bị buộc tội tự thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm minh oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS của mình. Tự bào chữa là một trong những hình thức thực hiện QBC của người bị buộc tội và là nội dung quan trọng của QBC trong TTHS. Pháp luật cho phép họ được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng, như đùng lý lẽ đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố tụng mà không nhất thiết phải có sự tham gia của NBC. 15 Đối với bị can, bị cáo là người CTN, người bị nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc bị truy tố về một tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS mà bị can, bị cáo hoặc người đại diện họp pháp của họ không mời NBC thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử NBC cho họ hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình. Từ những phân tích trên đây, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm tự bào chữa cho người bị buộc tội là người CTN như sau: “Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép người bị buộc tội là người CTN tự mình có thể thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình ” [30, tr51]. Để thực hiện quyền tự bảo vệ mình trước sự buộc tội của các cơ quan THTT, Bộ luật TTHS quy định cho người bị buộc tội được biết mình bị khởi tố về tội gì; được nhận quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chĩ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật TTHS; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Tuy được pháp luật quy định cho các quyền nêu trên nhưng trong thực tế vì trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, sự hạn chế về mặt nhận thức hay vì những lý đo khác nhau mà người bị buộc tội là người CTN thường không thể vận dụng có hiệu quả quyền tự bào chữa. Do đó, để bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội là người CTN đòi hỏi CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho họ biết những biện pháp do luật định và tạo mọi điều kiện để họ có thể vận dụng các quyền nêu trên. Nếu các cơ quan THTT không đảm bảo cho người bị buộc tội là người CTN thực hiện QBC có nghĩa là vi phạm quy định của pháp luật TTHS. 1.2.2.2 Về quyền nhờ người khác bào chữa Quyền nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư hay những người khác theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho người bị buộc tội 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan