GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
LỜI MỞ ĐẦU
Để xây dựng đất nước giàu mạnh và phát triển trong bối cảnh toàn
cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta không thể
xem nhẹ hoạt động ngoại thương vì nó đảm bảo sự giao lưu hàng
hoá, thông thương với các nước bè bạn năm châu, giúp chúng ta
khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của cả nguồn lực bên
trong và bên ngoài trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn
hoá quốc tế.
Nhưng nhắc đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá chúng ta
không thể không nói đến dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá quốc
tế. Đây là hai hoạt động không tách rời nhau, chúng có tác động
qua lại thống nhất với nhau. Qui mô của hoạt động xuất nhập khẩu
tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây là nguyên nhân
trực tiếp khiến cho giao nhận vận tải nói chung và giao nhận vận
tải biển nói riêng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và bề sâu.
Bên cạnh đó, với hơn 3000 km bờ biển cùng rất nhiều cảng lớn
nhỏ rải khắp chiều dài đất nước, ngành giao nhận vận tải biển Việt
Nam thực sự đã có những bước tiến rất đáng kể, chứng minh được
tính ưu việt của nó so với các phương thức giao nhận vận tải khác.
Khối lượng và giá trị giao nhận qua các cảng biển luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng giá trị giao nhận hàng hóa quốc tế của Việt
Nam. Điều này có ý nghĩa rất lớn, nó không chỉ nối liền sản xuất
với tiêu thụ, giúp đưa hàng hoá Việt Nam đến với bạn bè quốc tế
mà còn góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước
ta trên thị trường thế giới.
Vì thế, chúng em muốn tìm hiểu và phân tích để làm rõ hơn về
Quy trình xuất nhập khẩu hàng hóa bằng đường biển và
đường hàng không
Bài báo cáo gồm ba chương:
NHÓM 7B
Trang 0
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIAO NHẬN HÀNG
HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
CHƯƠNG 2: QUY TRÌNH GIAO NHẬN HÀNG HÓA
XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH GIAO NHẬN HÀNG HÓA
XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
NHÓM 7B
Trang 1
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP
KHẨU
1. Khái quát chung về giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường
biển:
1.1. Khái niệm Giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Đặc điểm nổi bật của buôn bán quốc tế là người mua và người bán
ở các quốc gia khác nhau. Để hàng hóa từ tay người bán đến được
tay người mua phải thông qua vận tải hàng hóa quốc tế. Giao nhận
là một khâu quan trọng trong vận tải hàng hóa quốc tế. Vậy giao
nhận là gì?
Có rất nhiều định nghĩa về giao nhận.
Theo Quy tắc mẫu của Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế
(FIATA): Dịch vụ giao nhận (Freight forwarding service) là bất cứ
loại dich vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc
xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ hoặc
có liên quan đến các dịch vụ trên kể cả các vấn đề hải quan, tài
chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến
hàng hóa (theo Giáo trình vận tải giao nhận hàng hóa xuất nhập
khẩu - PGS. TS Hoàng Văn Châu)
Theo điều 163 Luật Thương mại Việt Nam: Dịch vụ giao nhận
hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao
nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu
kho, lưu bãi, làm thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan
để giao hàng cho người nhận theo ủy thác của chủ hàng, của người
vận tải hoặc người làm dịch vụ giao nhân khác (gọi chung là khách
hàng).
Như vậy, về cơ bản: giao nhận hàng hóa là tập hợp những công
việc có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di
NHÓM 7B
Trang 2
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận
hàng (người nhận hàng).
1.2 Phân loại giao nhận:
a/. Căn cứ vào phạm vi hoạt động:
Giao nhận quốc tế.
Giao nhận nội địa.
b/. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh:
Giao nhận thuần túy là hoạt động chỉ bao gồm thuần túy việc gửi
hàng đi hoặc nhận hàng đến.
Giao nhận tổng hợp là hoạt động giao nhận bao gồm tất cả các hoạt
động như xếp, dỡ, bảo quản, vận chuyển,….
c/. Căn cứ vào phương thức vận tải:
Giao nhận hàng bằng đường biển.
Giao nhận hàng không.
Giao nhận đường thủy.
Giao nhận đường sắt.
Giao nhận ô tô.
Giao nhận bưu điện.
Giao nhận đường ống.
Giao nhận vận tải liên hợp, vận tải đa phương thức.
d/. Căn cứ vào tính chất giao nhận:
Giao nhận riêng là hoạt động do người kinh doanh xuất nhập khẩu
tự tổ chức, không sử dụng lao vụ của Freight Forwarder ( giao
nhận dịch vụ).
Giao nhận chuyên nghiệp là hoạt động giao nhận của các tổ chức
công ty chuyên kinh doanh dịch vụ giao nhận (chuyên nghiệp –
Freight Forwarding) theo sự ủy thác của khách hàng (dịch vụ giao
nhận).
NHÓM 7B
Trang 3
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
1.3 Đặc điểm
Không tạo ra sản phẩm vật chất: chỉ tác động làm cho đối tượng
thay đổi vị trí về mặt không gian chứ không thay đổi đối tượng đó.
Mang tính thụ động: do phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng,
các quy định của người vận chuyển, các ràng buộc về pháp luật,
tập quán của nước người xuất khẩu, nhập khẩu, nước thứ ba...
Mang tính thời vụ: hoạt động giao nhận phụ thuộc vào hoạt động
xuất nhập khẩu. Mà hoạt động xuất nhập khẩu mang tính thời vụ
nên hoạt động giao nhận mang tính thời vụ.
Phụ thuộc vào cơ sở vật chất và trình độ của người giao nhận.
1.4. Vai trò:
Vai trò quan trọng của giao nhận ngày càng được thể hiện rõ trong
xu thế toàn cầu hóa như hiện nay. Thông qua:
Giao nhận tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông nhanh chóng, an
toàn và tiết kiệm mà không cần có sự tham gia của người gửi cũng
như người nhận tác nghiệp
Giao nhận giúp cho người chuyên chở đẩy nhanh tốc độ quay vòng
của phương tiện vận tải tận dụng tối đa và hiệu quả sử dụng của
các phương tiện vận tải cũng như các phương tiện hỗ trợ khác
Giao nhận giúp giảm giá thành các hàng hóa xuất nhập khẩu do
giúp các nhà xuất nhập khẩu giảm bớt chi phí như: chi phí đi lại,
chi phí đào tạo nhân công, chi phí cơ hội,...
2. Người Giao Nhận
2.1 Khái niệm và địa vị pháp lý của người giao nhận:
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về người giao nhận nhưng chưa
có một định nghĩa thống nhất nào về người giao nhận được quốc tế
chấp nhận.
Theo Quy tắc mẫu của FIATA (Giáo trình vận tải giao nhận hàng
hóa xuất nhập khẩu - PGS. TS Hoàng Văn Châu): người giao nhận
là người lo toan để hàng hóa được chuyên chở theo hợp đồng ủy
NHÓM 7B
Trang 4
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
thác và hành động vì lợi ích của người ủy thác mà bản thân anh ta
không phải là người chuyên chở. Người giao nhận cũng đảm nhận
thực hiện mọi công việc liên quan đến hợp đồng giao nhận như:
bảo quản, luu kho, trung chuyển, làm thủ tục hải quan, kiểm hóa...
Theo điều 164 Luật Thương mại Việt Nam: Người giao nhận là
thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về dịch vụ
giao nhận hàng hóa.
Người giao nhận có thể là:
Chủ hàng: khi chủ hàng tự đứng ra đảm nhận công việc giao nhận
hàng hóa của mình
Chủ tàu: Khi chủ tàu thay mặt người chủ hàng thực hiện dịch vụ
giao nhận
Đại lý hàng hóa, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận
chuyên nghiệp hay bất kỳ người nào khác có đăng ký kinh doanh
dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Vậy, Người giao nhận là người:
Hoạt động theo hợp đồng ủy thác với chủ hàng, bảo vệ lợi ích của
chủ hàng.
Lo việc vận tải nhưng chưa hẳn là người vận tải. Anh ta có thể là
người có hoặc không có phương tiện vận tải, có thể sử dụng, thuê
mướn người vận tải hoặc trực tiếp tham gia vận tải. Nhưng anh ta
ký hợp đồng ủy thác giao nhận với chủ hàng là người giao nhận
chứ không phải là người vận tải.
Làm một số việc khác trong phạm vi uỷ thác của chủ hàng.
Ở nước khác nhau tên gọi của người giao nhận có khác nhau
(Forwarder, Freight forwarder, Forwarding Agent) nhưng đều có
chung một tên giao dịch quốc tế là: người giao nhận hàng hóa quốc
tế (International freight forwarder) và cùng làm dịch vụ giao nhận
Do chưa có luật lệ quốc tế quy định về địa vi pháp lý của người
giao nhận nên ở các nước khác nhau thì địa vị pháp lý của người
giao nhận có khác nhau.
NHÓM 7B
Trang 5
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Theo các nước sử dụng luật Common law: Người giao nhận có thể
lấy danh nghĩa của người ủy thác ( người gửi hàng hay người nhận
hàng) thì địa vị người giao nhận dựa trên khái niệm về đại lý.
Hay có thể đảm nhận vai trò của người ủy thác (nhân danh và
hành động bằng lợi ích của chính mình). Tự mình chịu trách nhiệm
trong quyền hạn của chính mình.
Theo các nước sử dụng luật Civil law: Có quy định khác nhau
nhưng thông thường người giao nhận lấy danh nghĩa của mình giao
dịch cho công việc của người ủy thác họ vừa là người ủy thác và
vừa là đại lý
2.2. Phạm vi dịch vụ của người giao nhận:
- Chuẩn bị hàng hóa để chuyên chở, gom hàng, lựa chọn tuyến
đường vận tải, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp.
- Tổ chức xếp dỡ, chuyên chở hàng hóa trong phạm vi ga, cảng
- Tư vấn, nhận và kiểm tra các chứng từ cần thiết liên quan đến
hàng hóa
- Ký k
cước
ết hợp đồng vận tải với người chuyên chở, thuê tàu, lưu
- Làm thủ tục nhận, gửi hàng, thủ tục hải quan, kiểm nghiệm, kiểm
dịch
- Mua bảo hiểm cho hàng hóa, thanh toán thu đổi ngoại tệ
- Lập các chứng từ cần thiết trong quá trình gửi hàng, nhận hàng,
thanh toán
- Nhận hàng từ chủ hàng, giao cho người chuyên chở và giao cho
người nhận hàng; nhận hàng từ người chuyên chở và giao cho
người nhận hàng
- Thu xếp chuyển tải hàng hóa. Thông báo tổn thất với người
chuyên chở
- Đóng gói bao bì, phân loại, tái chế hàng hóa, lưu kho, bảo quản
hàng hóa
NHÓM 7B
Trang 6
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
- Thanh toán cước phí, chi phí xếp dỡ, lưu kho, lưu bái...
- Thông báo tình hình đi và đến của phương tiện vận tải, giúp chủ
hàng trong việc khiếu nại đòi bồi thường.
- Ngoài ra, người giao nhận còn cung cấp các dịch vụ đặc biệt theo
yêu cầu của chủ hàng như: vận chuyển máy móc thiết bị cho các
công trình xây dựng lớn (giao nhận công trình), vận chuyển hàng
triển lãm...
Thêm vào đó người giao nhận còn đóng vai trong MTO và phát
hành cả chứng từ vận tải
2.3. Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế:
Ngày nay cùng với sự mở rộng trong thương mại quốc tế thì các
phương thức vận tải ngày càng phát triển: vận tải container,
VTĐPT, người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác
mà còn cung cấp dịch vụ vận tải và đóng vai trò như một vai chính
(Principal) – người chuyên chở (Carrier). Người giao nhận đã đóng
vai trò:
“Môi giới hải quan”:
Người giao nhận thay mặt người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu
làm thủ tục hải quan như một môi giới hải quan
Người giao nhận tại biên giới (Frontier Forwarder):
Họ chỉ hoạt động ở trong nước với nhiệm vụ là làm thủ tục hải
quan đối với hàng nhập khẩu, như một môi giới hải quan. Sau đó,
mở rộng phạm vi hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu và dành
chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu
theo sự ủy thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tùy
thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán.
Đại lý:
Người giao nhận đóng vai trò như một đại lý của người chuyên
chở để thực hiện các hoạt động khác nhau như: nhận hàng, giao
hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho... trên cơ sở hợp
đồng ủy thác.
NHÓM 7B
Trang 7
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Lo liệu chuyển tải và tiếp gửi hàng hóa (Transhipment
and on carriage):
Khi hàng hóa phải chuyển tải hoặc quá cảnh qua nước thứ ba,
người giao nhận sẽ làm thủ tục quá cảnh, hoặc tổ chức chuyển tải
hàng hóa từ phương tiện vận tải này sang phương tiện vận tải khác,
hoặc giao hàng đến tay người nhận.
Lưu kho hàng hóa (Warehousing):
Trong trường hợp phải lưu kho hàng hóa trước khi xuất khẩu hoặc
sau khi nhập khẩu, người giao nhận sẽ thu xếp việc đó bằng
phương tiện của mình hoặc thuê của người khác và phân phối hàng
hóa nếu có yêu cầu.
Người gom hàng:
Người chuyên chở đóng vai trò là đại lý hoặc người chuyên chở.
Đặc biệt là không thể thiếu trong vận tải container nhằm thu gom
hàng lẻ thành hàng nguyên để tận dụng sức chở của container và
giảm cước phí vận tải.
Người chuyên chở (Carrier):
Trong nhiều trường hợp, người giao nhận đóng vai trò là người ký
chuyên chở, tức là trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng và
chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi
nhận hàng. Người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở theo
hợp đồng (Contracting Carrier), nếu họ ký hợp đồng mà không
trực tiếp chuyên chở. Trường hợp Người giao nhận trực tiếp
chuyên chở thì họ là người chuyên chở thực tế (Performing
Carrier).
Dù là chuyên chở kiểu gì đi nữa thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm
về hàng hóa.
Người kinh doanh vận tải đa phương thức(MTO):
NHÓM 7B
Trang 8
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt
hay còn gọi là “Vận tải từ cửa tới cửa” thì người giao nhận đã đóng
vai trò là người kinh doanh vận tải liên hợp (CTO/MTO).MTO
cũng là người chuyên chở và phải chịu trách nhiệm đối với hàng
hóa.
2.4. Quyền hạn và nghĩa vụ của người giao nhận :
Ðiều 167 Luật thương mại quy đinh: người giao nhận có những
quyền và nghĩa vụ sau đây:
Nguời giao nhận được hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp
lý khác.
Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo hợp đồng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi
ích của khách hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách
hàng, nhưng phải thông báo ngay cho khách hàng.
Sau khi ký kết hợp đồng, nếu thấy không thể thực hiện được chỉ
dẫn của khách hàng thì phải thông báo cho khách hàng để xin chỉ
dẫn thêm.
Phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời gian hợp lý nếu trong
hợp đồng không thoả thuận về thời gian thực hiện nghĩa vụ với
khách hàng.
2.5. Trách nhiệm của người giao nhận :
a. Khi là đại lý của chủ hàng :
Tuỳ theo chức năng của người giao nhận, người giao nhận phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã ký kết
và phải chịu trách nhiệm về:
+ Giao hàng không đúng chỉ dẫn
+ Thiếu sót trong việc mua bảo hiểm cho hàng hoá mặc dù đã có
hướng dẫn.
+ Thiếu sót trong khi làm thủ tục hải quan
+ Chở hàng đến sai nơi quy định
NHÓM 7B
Trang 9
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
+ Giao hàng cho người không phải là người nhận
+ Giao hàng mà không thu tiền từ người nhận hàng
+ Tái xuất không theo những thủ tục cần thiết hoặc không hoàn lại
thuế
+ Những thiệt hại về tài sản và người của người thứ ba mà anh ta
gây nên.
Tuy nhiên, chứng ta cũng cần chú ý người giao nhận không chịu
trách nhiệm về hành vi lỗi lầm của người thứ ba như người chuyên
chở hoặc người giao nhận khác... nếu anh ta chứng minh được là
đã lựa chọn cần thiết.
Khi làm đại lý người giao nhận phải tuân thủ “điều kiện kinh
doanh tiêu chuẩn” (Standard Trading Conditions) của mình.
b. Khi là người chuyên chở (principal) :
Khi là một người chuyên chở, người giao nhận đóng vai trò là một
nhà thầu độc lập, nhân danh mình chịu trách nhiệm cung cấp các
dịch vụ mà khách hàng yêu cầu. Anh ta phải chịu trách nhiệm về
những hành vi và lỗi lầm của người chuyên chở, của người giao
nhận khác mà anh ta thuê để thực hiện hợp đồng vận tải như thể là
hành vi và thiếu sót của mình. Quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
của anh ta như thế nào là do luật lệ của các phương thức vận tải
quy định. Người chuyên chở thu ở khách hàng khoản tiền theo giá
cả của dịch vụ mà anh ta cung cấp chứ không phải là tiền hoa
hồng.
Người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở không chỉ trong
trường hợp anh ta tự vận chuyển hàng hoá bằng các phương tiện
vận tải của chính mình (perfoming carrier) mà còn trong trường
hợp anh ta, bằng việc phát hành chứng từ vận tải của mình hay
cách khác, cam kết đảm nhận trách nhiệm của người chuyên chở
(người thầu chuyên chở - contracting carrier). Khi người giao nhận
cung cấp các dịch vụ liên quan đến vận tải như đóng gói, lưu kho,
bố xếp hay phân phối ..... thì người giao nhận sẽ chịu trách nhiệm
như người chuyên chở nếu người giao nhận thực hiện các dịch vụ
NHÓM 7B
Trang 10
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
trên bằng phương tiện của mình hoặc người giao nhận đã cam kết
một cách rõ ràng hay ngụ ý là họ chịu trách nhiệm như một người
chuyên chở
Khi đóng vai trò là người chuyên chở thì các điều kiện kinh doanh
tiêu chuẩn thường không áp dụng mà áp dụng các công ước quốc
tế hoặc các quy tắc do Phòng thương mại quốc tế ban hành. Tuy
nhiên, người giao nhận không chịu trách nhiệm về những mất mát,
hư hỏng của hàng hoá phát sinh từ những trường hợp sau đây:
- Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ thác
- Khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu không phù hợp
- Do nội tỳ hoặc bản chất của hàng hoá
- Do chiến tranh, đình công
- Do các trường hợp bất khả kháng
Ngoài ra, người giao nhận không chịu trách nhiệm về mất khoản
lợi đáng lẽ khách hàng được hưởng về sự chậm chễ hoặc giao nhận
sai địa chỉ mà không phải do lỗi của mình.
3. Cơ Sở Pháp Lý Của Hoạt Động Giao Nhận Hàng Hóa Tại
Việt Nam:
3.1. Cơ sở pháp lý, nguyên tắc giao nhận hàng hoá XNK tại
cảng:
a. Cơ sở pháp lý:
Việc giao nhận hàng hoá XNK phải dựa trên cơ sở pháp lý như các
quy phạm pháp luật quốc tế, Việt nam....
Các Công ước về vận đơn, vận tải; Công ước quốc tế về hợp đồng
mua bán hàng hoá ....
Ví dụ: Công ước Vienne 1980 về buôn bán quốc tế
Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt nam về giao
nhận vận tải; Các loại hợp đồng và L/C mới đảm bảo quyền lợi của
chủ hàng XNK
Ví dụ: Luật, bộ luật, nghị định, thông tư
NHÓM 7B
Trang 11
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
+ Bộ luật hàng hải 1990
+ Luật thương mại 1997
+ Nghị định 25CP, 200CP,330CP
+ Quyết dịnh của bộ trưởng bộ giao thông vận tải: quyết định số
2106 (23/8/1997) liên quan đến việc xếp dỡ, giao nhận và vận
chuyển
hàng
hoá
tại
cảng
biển
Việt
nam.
+ ...........
b. Nguyên tắc:
Các văn bản hiện hành đã quy định những nguyên tắc giao nhận
hàng hoá XNK tại các cảng biển Việt nam như sau:
Việc giao nhận hàng hoá XNK tại các cảng biển là do cảng tiến
hành trên cơ sở hợp đồng giữa chủ hàng và người được chủ hàng
uỷ thác với cảng.
Ðối với những hàng hoá không qua cảng (không lưu kho tại cảng)
thì có thể do các chủ hàng hoặc người được chủ hàng uỷ thác giao
nhận trực tiếp với người vận tải (tàu) (quy định mới từ 1991).
Trong trường hợp đó, chủ hàng hoặc người được chủ hàng uỷ thác
phải kết toán trực tiếp với người vận tải và chỉ thoả thuận với cảng
về địa điểm xếp dỡ, thanh toán các chi phí có liên quan.
Việc xếp dỡ hàng hóa trong phạm vi cảng là do cảng tổ chức thực
hiện. Trường hợp chủ hàng muốn đưa phương tiện vào xếp dỡ thì
phải thoả thuận với cảng và phải trả các lệ phí, chi phí liên quan
cho cảng.
Khi được uỷ thác giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu với tầu, cảng
nhận hàng bằng phương thức nào thì phải giao hàng bằng phương
thức đó.
Cảng không chịu trách nhiệm về hàng hoá khi hàng đã ra khỏi kho
bãi, cảng.
Khi nhận hàng tại cảng thì chủ hàng hoặc người được uỷ thác phải
xuất trình những chứng từ hợp lệ xác định quyền được nhận hàng
NHÓM 7B
Trang 12
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
và phải nhận được một cách liên tục trong một thời gian nhất định
những hàng hoá ghi trên chứng từ.
Ví dụ: vận đơn gốc, giấy giới thiệu của cơ quan....
Việc giao nhận có thể do cảng làm theo uỷ thác hoặc chủ hàng trực
tiếp làm.
3.2. Cơ sở pháp lý của vận tải hàng không quốc tế :
3.2.1. Các điều ước quốc tế về vận tải hàng không :
Công ước Vác-sa-va 1929
Vận tảỉ hàng không quốc tế được điều chỉnh chủ yếu bởi Công ước
quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận tảỉ hàng không quốc tế
được ký tại Vác-sa-va ngày 12/10/1929 gọi tắt là Công ước Vácsa-va 1929.
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-sa-va. Nghị định thư này ký
tại Hague 28/91955, nên gọi tắt là Nghị định thư Hague 1955.
Công ước bổ sung cho công ước Vác-sa-va được ký kết tại
Guadalazala ngày 18/9/1961, nên gọi tắt là Công ước Guadalazala
1961.
Hiệp định liên quan tới giới hạn của Công ước Vac-sa-va và nghị
định thư Hague. Hiệp định này được thông qua tại Montreal
13/5/1966, nên gọi tắt là Hiệp định Montreal 1966.
Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-sa-va 12/10/1929 được sửa
đổi bởi nghị định thư Hague 28/9/1995. Nghị định này ký tại thành
phố Guatemala 8/3/1971, nên gọi tắt là Nghị định thư Guatemala
1971.
Nghị định thư bổ sung số 1
Nghị dịnh thư sửa đổi công ước Vac-sa-va 1929. Nghị định thư
này được kết tại Montreal ngày 25 tháng 9 năm 1975 nên gọi tắt là
Nghị định thư Montreal 1975 số 1.
Nghị định thư bổ sung số 2
Nghị định thư sửa đổi công ước Vac-sa-va 1929 đã được sửa đỏi
bằng Nghị định thư Hague 1955. Nghị định thư này được ký kết tại
NHÓM 7B
Trang 13
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Montreal ngày 25/9/1975, nên gọi tắt là Nghị định thư Montreal
1975, bản số 2.
Nghị định thư bổ sung thứ 3
Nghị định thư sửa dổi công ước Vac-sa-va 12/10/1929 đã được sửa
đổi bởi các nghị định thư tại Hague ngày 28/9/1955 và tại thành
phố Guatemala ngày 8/3/1971. Nghị định thư này được ký kết tại
Montreal 25/9/1975, nên gọi tắt là Nghị định thư Montreal năm
1975, bản số 3.
Nghị định thư bổ sung số 4:
Nghị định thư sửa đổi công ước Warsaw 12/10/1929 đã được sửa
đổi bởi nghị định thư Hague ngày 28/9/1955. Nghị định thư này ký
kết tại Montreal, nên goil tắt là Nghị định thư Montreal năm 1975,
bản số 4.
Các công ước, hiệp định, nghị định thư... chủ yếu sửa đổi bổ sung
giới hạn trách nhiệm bồi thường của người chuyên chở hàng không
đối với tai nạn về hỔnh khỏch, thiệt hại về hàng hoá, hành lý và
thời hạn thông báo tổn thất, khiếu nại người chuyên chở...
3.2.2. Trách nhiệm của người chuyên chở hàng không:
a. Trách nhiệm của người chuyên chở hàng không theo công
ước Vác-sa-va 1929:
Khi nói tới trách nhiệm của người chuyên chở hàng không , công
ước Vác-sa-va 1929 đề cập tới 3 nội dung : thời hạn trách nhiệm ,
cơ sở trách nhiệm , giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
Thời hạn trách nhiệm:
Thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở là điều khoản quy
định trách nhiệm của người chuyên chở về mặt thời gian và không
gian đối với hàng hoá .
Theo công ước Vác-sa-va, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm
đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển bằng máy bay. Vận
chuyển bằng máy bay bao gồm giai đoạn mà hàng hoá nằm trong
sự bảo quản của người chuyên chở hàng không ở cảng hàng không,
NHÓM 7B
Trang 14
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
ở trong máy bay, hoặc ở bất cứ nơi nào nếu máy bay phải hạ cánh
ngoài cảng hàng không .
Vận chuyển bằng máy bay không mở rộng tới bất kỳ việc vận
chuyển nào bằng đường bộ , đường biển hoặc đường sông tiến
hành ngoài cảng hàng không. Tuy nhiên , nếu việc vận chuyển như
vậy xảy ra trong khi thực hiện hợp đồng vận chuyển bằng máy bay
nhằm mục đích lấy hàng , giao hoặc chuyển tải hàng thì thiệt hại
được coi là kết quả của sự kiện xảy ra trong quá trình vận chuyển
bằng máy bay.
Cơ sở trách nhiệm của người chuyên chở hàng không:
Theo công ước Vac-sa-va 1929 , người chuyên chở phải chịu trách
nhiệm về thiệt hại trong trường hợp mất mát, thiếu hụt, hư hỏng
hàng hoá trong quá trình vận chuyển hàng không .
Người chuyên chở cũng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra
do chậm trong quá trình vận chuyênr hàng hoá bằng máy bay .
Tuy nhiên , người chuyên chở không phải chịu trách nhiệm nếu
anh ta chứng minh được rằng anh ta và đại lý của anh ta đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết để tránh thiệt hại hoặc đã không thể
áp dụng được những biện pháp như vậy trong khả năng của mình .
Người chuyên chở cũng không phải chịu trách nhiệm bồi thường
nếu anh ta chứng minh được rằng thiệt hại xảy ra do lỗi trong việc
hoa tiêu , chỉ huy hoặc vận hành máy bay hoặc trong mọi phương
tiện khác mà anh ta và đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết nhưng thiệt hại vẫn xảy ra .
Như vậy theo công ước Vác-sa-va , người chuyên chở hàng không
phải chịu trách nhiệm bồi thường trong hai trường hợp sau : hàng
hoá bị mất mát hư hại và hàng hoá bị giao chậm trong thời hạn
trách nhiệm của người chuyên chở .
Nhưng, theo công ước thì người chuyên chở được hưởng miễn
trách nhiệm không phải bồi thường khi tổn thất của hàng hoá là do
lỗi trong việc hoa tiêu , chỉ huy vận hành máy bay hoặc trong
trường hợp người chuyên chở hay người thay mặt họ cố gắng hết
sức trong khả năng có thể nhưng tổn thất về hàng hoá vẫn xảy ra.
NHÓM 7B
Trang 15
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở hàng không:
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở là điều khoản quy
định số tiền lớn nhất mà người chuyên chở phải bồi thường cho
một đơn vị hàng hoá trong trường hợp tính chất và trị giá không
được kê khai trên vận đơn hàng không.
Theo công ước Vác-sa-va 1929, trách nhiệm của người chuyên chở
được giới hạn ở một khoản 250 Frăng/kg trừ phi người gửi hàng đã
có tờ kê khai đặc biệt trị giá ở nơi giao hàng, vào lúc hàng hoá
được giao cho người chuyên chở và một khoản phí bổ sung nếu
người chuyên chở yêu cầu.
Trong trường hợp trị giá hàng hoá đã được kê khai trên vận đơn thì
giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở là trị giá kê khai trên
vận đơn .
Nếu trị giá hàng hoá mà người gửi hàng kê khai trên vận đơn lớn
hơn giá trị thực tế của hàng hoá lúc giao hàng thì người chuyên
chở chỉ phải bồi thường tới giá trị của hàng hoá lúc giao hàng nếu
họ chứng minh được như vậy .
Ðồng Frăng nói ở đây là đồng Frăng Pháp có hàm lượng vàng là
65,5 mg vàng, độ tinh khiết 900/1000 . Khoản tiền này có thể đổi
ra bất kỳ đồng tiền quốc gia nào theo số tròn .
Trong trường hợp người chuyên chở cố ý gây tổn thất cho hàng
hoá thì họ không được hưởng giới hạn trách nhiệm nói trên.
b. Những sửa đổi , bổ sung Công ước Vác-sa-va về trách nhiệm
của người chuyên chở:
Theo nghị định thư Hague 1955 thì người chuyên chở không được
miễn trách đối với những tổn thất về hàng hoá do lỗi trong việc
hoa tiêu , chỉ huy và điều hành máy bay.
Nhưng theo Hague thì người chuyên chở được miễn tránh nhiệm
khi mất mát, hư hại hàng hoá là do kết quả của nội tỳ, ẩn tỳ và
phẩm chất của hàng hoá chuyên chở (Mục XII , nghị định thư
Hague).
NHÓM 7B
Trang 16
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Công ước Guadalazara 1961 đã đề cập đến trách nhiệm của người
chuyên chở theo hợp đồng và ngươì chuyên chở thực sự mà Công
ước Vác-sa-va chưa đề cập tới.
Theo Công ước Guadalazara thì người chuyên chở theo hợp đồng
là người ký một hợp đồng vận chuyển được điều chỉnh bẵng Công
ước Vac-sa-va 1929 với người gửi hàng hay với người thay mặt
người gửi hàng (mục I , khoản b ).
Người chuyên chở thực sự là một người khác, không phải là người
chuyên chở theo hợp đồng, thực hiện toàn bộ hay một phần hợp
đồng vận chuyển (mục I khoản c ).
Công ước Guadalazara quy định rằng, cả người chuyên chở thực
sự và người chuyên chở theo hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm
thực hiện hợp đồng. Nhưng khi bao gồm cả vận chuyển kế tiếp thì
người chuyên chở theo hợp đồng có trách nhiệm đối với toàn bộ
quá trình vận tải, người chuyên chở thực sự chỉ có trách nhiệm đối
với phần thực hiện của anh ta.
Khi khiếu nại , người nhận hàng có thể lựa chọn khiếu nại từng
người chuyên chở thực sự hoặc khiếu nại người chuyên chở theo
hợp đồng.
Nghị định thư Guatemala 1971 đã quy dịnh chi tiết hơn cách tính
trọng lượng hàng hoá để xét bồi thường.
Theo nghị định thư Guatemala, trong trường hợp hàng hoá bị mất
mát, hư hại hoặc giao chậm một phần thì trọng lượng được xem
xét để tính số tiền mà người chuyên chở phải chịu trách nhiệm bồi
thường là trọng lượng của một hay nhiều kiện bị tổn thất.
Nhưng nếu phần hàng hoá bị mất mát, hư hại hay giao chậm lại
ảnh hưởng đến giá trị của kiện khác ghi trong cùng một vận đơn
hàng không thì toàn bộ trọng lượng của một kiện hay nhiều kiện
khác ấy cùng dược xem xét và giới hạn trách nhiệm của người
chuyên chở (mục VIII, khoản 2b). Ðiều này không được quy định
trong Công ước Vác-sa-va cũng như nghị định thư và công ước
trước nghị định thư Guatemala.
NHÓM 7B
Trang 17
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
Các nghị định thư Montreal 1975, số 1,2,3,4 quy định một số điểm
khác sau đây:
Giới hạn trách nhiệm được thể hiện bằng đồng SDR chứ không
phải đồng Frăng như công ước Vác-sa-va 1929. Giới hạn trách
nhiệm của người chuyên chở theo nghị định thư số 1 đối với hàng
hoá là 17SDR/kg.
Với những nước không phải thành viên của Quỹ tiền tệ quốc tế thì
có thể đổi đồng SDR ra tiền tệ quốc gia khi bồi thường. Néu luật
quốc gia không cho phép như vậy thì có thể sử dụng giới hạn trách
nhiệm là 250 Făng vàng/kg như đã nói ở trên.
Tăng thêm những miễn trách sau đây cho người chuyên chở hàng
không khi hàng hoá mất mát, hư hại do:
Thiếu xót trong đóng gói hàng hoá do người chuyên chở, người
phục vụ hay người đại lý của họ thực hiện.
Hành động chiến tranh hoặc xung đột vũ trang.
Hành động do chính quyền nhân dân thực hiện có liên quan đến
xuất nhập khẩu quá cảnh.
NHÓM 7B
Trang 18
GIAO NHẬN HÀNG HÓA XNK BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
CHƯƠNG 2
QUY TRÌNH GIAO NHẬN HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Các Chứng Từ Liên Quan Đến Giao Nhận Hàng Hóa Xuất Nhập
Khẩu.
1.1 Vận tải đơn (Bill of lading)
Đây là một chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Chức
năng của Bill of lading là:
Chứng từ gửi hàng được giao cho hãng tàu cùng hàng hóa.
Bằng chứng duy nhất chứng minh hàng đã được giao.
Chứng từ vận chuyển hàng hóa, xác thực trước đó đã có một hợp
đồng ký kết.
Cơ sở tính thuế, làm thủ tục hải quan và thanh toán cước phí.
Là hồ sơ bổ sung trong bộ chứng từ bảo hiểm.
Là hướng dẫn đối với nhân viên hàng không.
Bill of lading có hai loại: Master Bill và House Bill
Trong đó Master Bill do hãng tàu ký phát cho đại lý giao nhận, House
Bill do đại lý giao nhận ký phát cho khách hàng của mình.
1.2 Bản lược khai hàng hóa (Cargo Manifest)
Đây là bản kê khai chi tiết hàng hóa được gửi đi tương ứng với một
vận đơn chủ (Master Bill). Bản lược khai này được gửi chung với bộ
chứng từ qua nước nhập khẩu cùng với hàng hóa. Dựa vào bản lược
khai hàng hóa này khi hàng đến nơi, đặc biệt là trong trương hợp gom
hàng, đại lý giao nhận ở nước đến sẽ dựa vào chi tiết cụ thể trong bản
lược khai để phân phát hàng đúng và hiệu quả nhất.
1.3 Hóa đơn thương mại (Commercial Invoice)
NHÓM 7B
Trang 19
- Xem thêm -