Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Quy trình sản xuất giấm

.DOC
27
445
51

Mô tả:

MỞ ĐẦU Giấm là loại thực phẩm được con người biết đến từ hàng ngàn năm nay và ngày nay đã trở thành văn hóa ẩm thực không thể thiếu trong mỗi bữa ăn của gia đình cũng như trong những dịp quan trọng như ngày lễ, tết của nhiều quốc gia. Sự chuyển từ rượu hay nước trái cây sang giấm là quá trình hóa học trong đó rượu etylic bị oxy hóa tạo acid acetic. Trong công nghiệp thường gọi là lên men giấm, đây là môt quá trình áp dụng vi sinh vật vào chế biến thực phẩm đã có từ lâu đời. Giấm ăn là một chất lỏng có vị chua chứa 3% axit acetic, được hình thành từ sự lên men của ethanol(C2H5OH). Từ xưa, dấm đã là một nhân tố quan trọng và được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, nội trợ và ngày nay dấm còn được sử dụng như là một loại dầu, kem làm trắng da, mượt tóc cho phái đẹp và được sử dụng rộng rãi hơn phát triển theo nhu cầu ngày càng cao của con người. Giấm gạo hay còn gọi là giấm cất, dùng lương thực, ngủ quả, đường làm nguyên liệu chính nhờ quá trình lên men của vi khuẩn acetic. Thành phần dinh dưỡng bao gồm đường, axit acetic, axit hữu cơ, vitamin và muối vô cơ… rất tốt cho việc tiêu hóa của cơ thể. Tùy theo vùng nguyên liệu ở mỗi nước khác nhau sẽ cho ra các loại dấm mang hương vị đặc trưng từng vùng miền.[3] Giấm pha chế hay còn gọi là giấm hóa học được sản xuất dựa trên nguyên liệu chính là axit axetic tinh luyện, pha thêm nước mà thành, không có thêm thành phần dinh dưỡng khác loại này thường dùng trong công nghiệp luyện kim hoặc sát khuẩn…[3]. Tùy theo nhu cầu sử dụng giấm khác nhau mà người ta chia : - Giấm dùng để nấu nướng: chứa axit axetic 4- 5% có vị nồng, thơm dịu, tẩy mùi tanh của cá, giúp tươi thịt, các hải sản.[3]. 1 - Giấm ăn với cơm và rau trộn: Độ axit axetic 3- 4%, vị ngọt, thơm thích hợp cho trộn rau, nước chấm, ăn với phở, mì quảng, điểm tâm…[3] - Loại bảo vệ sứ khỏe: Axit axetic khoảng 1- 2%, khẩu vị khá ngon, mỗi khi làm về mệt hoặc học hành mệt mỏi thì pha giấm với đường, thêm đá lạnh vào uống sảng khoái, giải khát, rất tốt cho sức khỏe.[3] I. Thành phần dinh dưỡng của giấm. 1.1. Các thành phần dinh dưỡng có trong giấm. - Số axit amin phong phú: Gồm18 loại a.a mà cơ thể không tổng hợp được thì đều có trong giấm, có 8 loại a.a thực vật cung cấp, còn lại là sinh ra trong quá trình lên men.[3]. - Do giấm có vị ngọt thanh nên giấm trở nên đều hợp ngủ vị giúp cơ thể hấp thụ dể tiêu hóa thức ăn, kích thích hệ men đường ruột hoạt động tốt hơn.[3] - Trong giấm còn có các vitamin B1, B2, C… bắt nguồn từ kết quả trao đổi chất vi sinh vật trong quá trình lên men thức ăn và nguyên liệu. Một số sinh tố dinh dưỡng loại này tạo thành men phụ của một số men trong quá trình trao đổi chất của cơ thể. [3] Hình 1.1. Con Giấm [3] - Thành phần muối vô cơ có trong giấm rất phong phú như Na, K, Ca, Fe, Cu, Zn…một số khoáng chất lấy từ nguyên liệu giấm, đồ chứa thức ăn trong quá trình 2 trao đổi chất hay tăng thêm do người da công thêm vào. Những nguyên tố đó giúp cho giấm tăng thêm hương vị, cân bằng môi trường kiềm, axit trong cơ thể.[3]. - Các nguyên tố vi lượng Ca, Fe, Cu, P… giúp quá trình lão hóa, già yếu giảm, là thành phần không thể thiếu trong quá trình trao đổi chất, vận chuyển O 2 vào máu đi nuôi cơ thể.[3] 1.2. Chức năng của giấm đối với cơ thể người. 1.2.1. Đẩy lùi bệnh tật: Có axit hữu cơ nhiều xúc tiến thay thế đường và làm cho axit acetic và axit lactic tồn trữ trong cơ bắp gây nên việc phân giải các chất ứ đọng gây mệt mỏi nên hết bệnh.[3] 1.2.2. Điều tiết, ổn định môi trường axit, kiềm trong cơ thể: Theo các nhà dinh dưỡng học phân tích giấm là loại thực phẩm có tính kiềm sinh lý, qua sự thay thế trao đổi chất trong cơ thể sản sinh phản ứng kiềm . Do cơ thể hàng ngày hấp thụ một lượng lớn thức ăn có tính axit cao như: thịt, cá, trứng… uống hoặc bổ sung chút giấm vào thức ăn có thể trung hòa môi trường axit, từ đó duy trì sự cân đối axit kiềm trong cơ thể.[3] 1.2.3. Giúp hệ tiêu hóa tốt hơn. Các chất có trong giấm như các axit amin… có thể kích thích trung khu thần kinh não của người làm cho bộ máy tiêu hoá tiết ra dịch men làm cho cơ thể tiêu hóa thức ăn tốt hơn.[3]. 3 1.2.4. Diệt khuẩn kháng độc. Giấm có tính diệt khuẩn mạnh, ức chế khả năng phát triển của vi trùng, ví dụ như vi trùng que bệnh thương hàn, đại tràng…[3] 1.2.5. Phòng già yếu. Giấm có khả năng chống lão hóa, trì hoãn cơ thể già yếu, ức chế , hạ thấp khả năng hình thành loại mỡ oxi hóa.[3] 1.2.6. Phòng trị cao huyết áp, sơ cứng động mạch. - Giấm làm tàn huyết, máu chảy lưu thông bình thường, huyết áp ổn định. - Bài tiết ion Na+, ức chế lượng muối dư thừa trong cơ thể, từ đó ổn định huyết áp.[3] 1.2.7. Tăng cường chức năng bài tiết của thận, phòng ngừa sỏi thận trong cơ thể. Nước tiểu chúng ta thường mang tính axit, dễ dàng làm muối trong nước tiểu kết tinh thành sỏi, giấm có khả năng làm nước tiểu chuyển sang dạng kiềm tính, trung hòa axit và kiềm có trong nước tiểu phòng chống hình thành sỏi thận. [3]. 1.2.8. Phòng trị bệnh béo phì. Theo nghiên cứu giấm chứa axit amoni, ngoài ra giấm còn thúc đẩy chuyển hóa mở trong cơ thể thành dạng năng lượng tiêu hao, thúc đẩy quá trình hấp thụ protit, đường… dễ dàng hơn, do đó có tác dụng làm giảm béo phì, kháng ung thư. [3]. 4 1.2.9. Làm đẹp da, mượt tóc. - Không những ức chế sắc tố da, giảm vết nhăn ở người già mà có thể tăng tuần hoàn máu cho da thay thế tế bào già, làm co rút lỗ chân lông lại làm cho da vừa mịn, vừa láng bóng. Giấm còn chứa một lượng các chất như canxi, axít amin, vitamin B, glycerin, axít succinic, đường… rất phong phú và một số loại muối, các chất này rất có lợi cho da. Dùng nước có pha thêm giấm để rửa có thể giúp da hấp thụ được một số chất dinh dưỡng vô cùng quan trọng, từ đó làm cho da trở nên mềm mại, tăng cường sức sống cho da. [1] Hình 1.2. . Làm đẹp da từ Giấm [1] - Có thể dùng giấm để thay cho loại dầu xả dưỡng tóc thông thường vì nó có tác dụng làm cho tóc đen hơn, bóng mượt và loại trừ gàu. Muốn tạo cho tóc hương thơm quyến rũ tự nhiên, lại kích thích tóc mọc nhanh thì dùng nước hoa hồng pha với giấm để xả lại tóc.[1] 1.2.10. Làm tỉnh rượu. Các chất axit trong giấm có thể cùng hấp thụ axit axetic cồn trong cơ thể người, làm giảm độc tố cồn có trong máu nhờ đó làm tỉnh rượu.[3] 1.2.11. Công dụng trong nội trợ. - Xoong nồi nấu bị cháy khê, thức ăn nấu bị dính nồi, rửa nhanh và sạch hơn nếu ta rắc lên đáy một ít muối và rót một ít giấm rồi để 10-15 phút. 5 - Ðáy ấm đun nước bị cặn, vết loang của café, nước chè, trà dưới đáy chén, ta hãy đổ vào 1 lít nước pha với 3-5 thìa giấm, đun sôi chừng 30 phút, đem cạo thì cặn sẽ bong. Rồi chỉ cần tráng qua một lần nước lạnh nữa, cái ấm sạch và sáng. - Các đồ sành sứ sẽ láng bóng nếu ta dùng giẻ có tẩm giấm để lau chùi chúng.[3] II. Nguyên liệu và vi sinh vật sử dụng lên men giấm. 2.1. Nguyên liệu. Có thể sử dụng tất cả các loại nguyên liệu có nguồn gốc từ nông nghiệp bao gồm tinh bột hoặc đường hoặc cả tinh bột và đường qua quá trình lên men có vị giấm gồm lượng axit axetic cho phép. Dựa vào nguyên liệu lên men giấm người ta chia ra 2 nhóm nguyên liệu chính sau: + Nguyên liệu chứa nhiều tinh bột : Gạo, ngô, lúa mì, đại mạch... + Nguyên liệu chứa đường: Mật ong, nho, táo, điều... Hình 2.1. Nguyên liệu lên men giấm.[23] 6 2.1.1. Gạo. Gạo là một sản phẩm lương thực thu từ cây lúa. Hạt gạo thường có màu trắng, nâu hoặc đỏ thẫm, chứa nhiều dinh dưỡng. Hạt gạo chính là nhân của thóc sau khi xay để tách bỏ vỏ trấu. Hạt gạo sau khi xay được gọi là gạo lứt, nếu tiếp tục xát để tách cám thì gọi là gạo xát hay gạo trắng. a). Nguồn gốc: Cây lúa hiện nay được nông dân gieo trồng là kết quả xử lý trong phòng thí nghiệm và lai tạo tự nhiên cũng như nhân tạo điểm xuất phát từ cây lúa dại. Vì quỹ đất có giới hạn, các nhà khoa học đang nghiên cứu biến đổi gen của cây lúa để tạo ra giống lúa mới có năng suất cao, chống được bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt, đồng thời rút ngắn thời gian chăm bón và sớm cho thu hoạch. Những thành công ban đầu của lúa biến đổi gen đã được ghi nhận, và được trồng nhiều ở các quốc gia như Mỹ, Trung Quốc,... song hiện các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất được liệu loại lúa này có tác động xấu đến sức khỏe con người hay không. b). Sản xuất. Gạo là sản phẩm từ cây lúa và là cây chủ lực trong phát triển nông nghiệp, thường bao gồm những khâu chính sau: làm đất, chọn thóc giống, gieo hạt, ươm mạ, cấy, chăm bón (bón phân, đổ nước), gặt và xay xát.[27] Gạo là nguồn thu nhập và cuộc sống của hàng triệu nông dân trên toàn thế giới. Họ dùng khoảng 150 triệu hecta hàng năm để trồng lúa, với sản lượng khoảng 600 triệu tấn/năm. Con số này sẽ giảm do biến đổi khí hậu toàn cầu, sa mạc hóa, đất cằn cỗi do hạn hán, thiên tai… do đô thị hóa ngày càng mạnh đất trồng lúa bị thu hẹp đáng kể… tương lai không xa sẽ khủng hoãng thiếu lương thực trầm trọng. nhận thức được điều đó đảng và nhà nước ta đang xây dựng nền nông nghiệp bền vững chiến lược của tương lai. Đối với Việt Nam, có 2 vùng trồng lúa chính là vùng đồng bằng sông Cửu long trung bình 3 vụ/ năm, lưu vực sông Hồng 2 vụ/ năm. Hàng năm sản lượng của cả nước đạt 33-34 triệu tấn thóc, trong đó chỉ sử dụng khoảng 8 triệu tấn (tương đương 4 triệu tấn gạo sau khi xay xát) cho xuất khẩu, còn lại là tiêu thụ trong nước và bổ sung dự trữ quốc gia. Là nước nông nghiệp xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới.[27] 7 c). Cấu tạo hạt thóc: Gồm 5 thành phần chính: + mày thóc + lớp võ ngoài + lớp aleurone + nội nhũ + phôi - Mày thóc: Có màu vàng nhạt hơn võ trấu, trên mày nổi những đường gân. - Lớp võ: Là bộ phận bảo vệ cho phôi và nội nhũ khỏi tác động cơ học từ bên ngoài, được chia thành 3 lớp: võ trấu, võ quả, võ hạt. - Lớp aleurone: Khi xay xát lớp võ vụn thành cám gạo. - Nội nhũ là thành phần chính của hạt thóc, trong nội nhủ chủ yếu là gluxit,(90%), trong khi đó gluxit trong toàn bộ hạt gạo chiếm khoãng 75%. - Phôi: Nằm ở phần dưới của nội nhũ, là thành phần làm nhiện vụ biến đỗi các chất dinh dưỡng nuôi mộng khi hạt nảy mầm. Phôi chứa nhiều protein, lipit, vitamin B1… d). Thành phần hóa học của hạt thóc: Bảng 2.1. Thành phần hóa học(%khối lượng)của thóc. STT 1 Thành phần Protein Hàm lượng 6,66  10,43 2 Tinh bột 47,70  68,00 3 Celluse 8,74  12,22 4 Tro 4,00  6,90 5 Đường 0,10  4,50 6 Lipid 1,80  2,50 8 7 Dextrin 0,80  3,20 2.1.2. Ngô. a). Nguồn gốc và lịch sử phát triển. Ngô là một loại cây lương thực được thuần canh tại khu vực Trung Mỹ và sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô lan tỏa ra phần còn lại của thế giới sau các đợt khai phá tìm vùng đất mới, xâm lược thuộc địa của người châu Âu với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. [28]. Có một số thuyết về nguồn gốc của ngô tại Trung Mỹ: Ngô là sản phẩm thuần dưỡng trực tiếp từ cỏ ngô (Zea mays ssp. parviglumis) một năm ở Trung Mỹ, có nguồn gốc từ khu vực thung lũng sông Balsas ở miền nam Mexico, với tối đa khoảng 12% vật chất gen của nó thu được từ Zea mays ssp. mexicana thông qua xâm nhập gen. Ngô sinh ra từ quá trình lai ghép giữa ngô đã thuần hóa (dạng thay đổi không đáng kể của ngô dại) với cỏ ngô thuộc đoạn Luxuriantes, có thể là Z. luxurians hoặc Z. diploperennis. Ngô trải qua 2 hay nhiều lần thuần dưỡng của ngô dại hay cỏ ngô. Ngô tiến hóa từ quá trình lai ghép của Z. diploperennis với Tripsacum dactyloides). Vào cuối thập niên 1930, Paul Mangelsdorf cho rằng ngô thuần dưỡng là kết quả của lai ghép giữa ngô dại mà con người không biết rõ với loài trong chi Tripsacum, một chi có họ hàng gần. Hình 2.2. Hạt Ngô[27] b). Cấu tạo hạt ngô. Gồm: võ ngoài, mày, phôi và nội nhũ. Bảng 2.2. các thành phần chính trong hạt ngô. Thành phần % chất khô Võ 5,1 – 5,7 Phôi 10,2 – 11,9 9 Nội nhũ 81,8 – 83,5 Mày 0,8 – 1,1 Thành phần hóa học của hạt ngô thay đổi theo điều kiện khí hậu, giống, kỹ thuật gieo trồng, đất canh tác… Bảng 2.3. Sự phân bố các chất có trong hạt Ngô. Thành phần Protein Võ 3,7 Phôi 18,4 Nội nhũ 8 Lipid 1,0 33,2 0,8 Tro 0,8 10,5 0,3 Tinh bột 7,3 8,3 87,6 Đường 0,34 10,8 0,62 Chất xơ 86,7 8,8 2,7 Bảng 2.4. Ngô có hàm lượng vitamin kha cao(g/g) Giống ngô Thiamin Riboflavin Ngô vàng 5,38 1,40 Ngô trắng 6,09 1,38 niacitin 16 - 26 2.1.3. Nho. Nho là một từ để chỉ loại quả mọc trên các cây dạng dây leo thân gỗ hoặc để chỉ chính các loài cây này. Quả nho mọc thành chùm từ 6 đến 300 quả, chúng có màu đen, lam, vàng, lục, đỏ-tía hay trắng. Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho khô, cũng như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch nho, nước quả, dầu hạt nho, làm giấm… Thành phần hóa học có trong quả nho: + Nước : 70 – 80% + Đường : 10 – 25% (chủ yếu là glucose, fructose và saccharose) + Acid hữu cơ : 0,5 – 1,7% (chủ yếu là acid malic và factoric) 10 + Protein : 0,1 – 0,9% + Pectin : 0,1 – 0,3% + Khoáng : 0,1 – 0,5% + Vitamin : C, B1, B2… + Các hợp chất màu: màu chính là anthocyanin. + Các hợp chất thơm và một số hợp chất khác. Nho được thu gặt hái khi đạt khoảng 0,65% độ acid và 23 o Brix (Brix là đơn vị đo lượng đường còn lại trên nho).[29]. 2.1.4. Hạt Điều Điều hay còn gọi là đào lộn hột (danh pháp khoa học: Anacardium occidental) là một loại cây công nghiệp dài ngày thuộc họ Đào lộn hột. Cây này có nguồn gốc từ đông bắc Brasil, nơi nó được gọi bằng tiếng Bồ Đào Nha là Caju (nghĩa là "quả") hay Cajueiro ("cây"). Ngày nay nó được trồng khắp các khu vực khí hậu nhiệt đới để lấy nhân hạt chế biến làm thực phẩm. Nhân điều là sản phẩm thu được sau khi tách vỏ hạt điều và bóc vỏ lụa, chiếm 25% trọng lượng hạt, hình hạt đậu màu trắng, là loại thức ăn bổ dưỡng vì có hàm lượng protein (21,91%) và chất béo cao (49,12%), hàm lượng đường rất cao so với các loại hạt ngũ cốc khác, đồng thời có nhiều loại muối khoáng cho cơ thể người và sinh vật. [30]. Điều là cây công nghiệp lâu năm cây ăn quả nhiệt đới, đã được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVIII là cây dễ trồng và thích nghi với nhiều loại đất có đặc tính lý hóa khác nhau. Về giá trị kinh tế cây điều là cây có giá trị sử dụng ở nhiều lĩnh vực. Nhân hạt điều có nhiều dinh dưỡng cao có nhiều axit amin không thay thế, chứa nhiều chất béo, giàu muối khoáng và các sinh tố khác dùng để ăn, chế biến dầu thực vật, làm nhân bánh kẹo cao cấp như nhân socola, làm giấm,… nhân hạt điều có giá trị xuất khẩu rất lớn mang về ngoại tệ cho đất nước. Kích thước, hình dạng và tỷ lệ của hạt thay đổi nhiều. Có nhiều giống khác nhau về kích thước và trọng lượng hạt, nhân và vỏ. Giống hạt lớn, nặng 10 – 13 g, có giống hạt nhỏ chỉ nặng 3 – 4 g. Có giống vỏ hạt nhẵn, có giống vỏ hạt lại xù xì hoặc nhám. Có giống nhân chiếm 25% trọng lượng hạt, có giống chỉ chiếm 20 – 21 %. 11 Hình 2.2. Hạt điều[17] Bảng 2.5 :Thành phần các chất dinh dưỡng có trong nhân hạt điều: phân tích Thành phần Năng lượng Prôtein Chất béo Chất sơ Canxi Sắt Vitamin B1 Vitamin C 506 kcal 18,4 g 46,3 g 0,3 g 28,3 mg 3,6 mg 0,2 mcg 0,1 mg 2.2. Vi khuẩn sử dụng lên men giấm. Để quá trình lên men giấm đạt hiệu quả cao, lựa chọn những chủng vi khuẩn thõa mãn điều kiện: + Oxy hóa rượu etylic tốt nhất. + Tạo giấm có nồng độ axit axetic cao, vi khuẩn phải chịu được nồng độ cồn và axit cao. + Các tính chất không bị thay đổi trong quá trình lên men. + Các điều kiện phân lập, nuôi cấy, bảo quản giống đơn giản không tốn 12 kém phù hợp với điều kiện Việt Nam. Hình 2.2.Vi khuẩn A. Suboxydans [3] - Trong sản xuất giấm người ta thường sử dụng chủng A. Suboxydans vì chúng có khả năng chịu được nồng độ cồn rất cao. Nếu trong môi trường ta thêm một lượng nhỏ chất dinh dưỡng cần thiết, ví dụ như glucozo, vi khuẩn này có thể chuyển hóa toàn bộ cồn thành axit axetic( lượng axit có thể đạt 13%). - Nhiệt độ thích hợp cho vi khuẩn này lên men là 28 – 30 0C, thời gian lên men nhanh trong vòng 48h .[3]. - Trong quá trình lên men cần phải thông khí liên tục vì đây là vi khuẩn hiếu khí cần O2 rất nhiều cho quá trình chuyển hóa cồn thành axit axetic và cho quá trình phát triển thành con giấm.[3]. Ngoài vi khuẩn A. Suboxydans người ta còn sử dụng vi khuẩn A. Carvum để lên men giấm, trong môi trường thuận lợi, vi khuẩn này có thể tạo được1011% axit axetic, nhiệt độ lên men tối ưu là 35- 37 0C, vi khuẩn A. Carvum có khả năng tạo váng rất chắc trên bề mặt môi trường.[3] III. Ảnh hưởng của điều kiện môi trường dinh dưỡng tới quá trình lên men. 3.1. Ảnh hưởng của O2. Lượng oxy cần thiết lớn gấp đôi lượng oxy lý thuyết, càng thoáng khí năng suất lên men càng cao. Ở phương pháp nuôi cấy chậm do bề mặt tiếp xúc giữa tế bào và không khí bị hạn chế bởi sự bao phủ dịch lên men của màng váng 13 giấm và độ dày lớp dung dịch. Vì vậy, mà quá trình lên men kéo dài 3- 5 tuần, nồng độ giấm thu được 3- 7% axit axetic. Phương pháp tuần hoàn tạo diện tiếp xúc lớn, quá trình lên men giảm 5- 7 ngày, phương pháp lên men chìm thời gian lên men 72- 96h , nồng độ giấm đạt 7- 14%.[3]. 3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ. Acetobacter thuộc nhóm vi khuẩn ưa ẩm, nhiệt độ thích hợp 25- 320C. Nhiệt độ thấp hoặc cao quá cũng gây ảnh hưởng đến quá trình lên men giấm, nhiệt độ thấp quá trình lên men diễn ra chậm, nhiệt độ cao quá gây ức chế đến quá trình sinh sản tế bào vi khuẩn, hiệu suất giảm do sự bay hơi của etylic và acetic.[3] 3.3. Ảnh hưởng của các nguồn C, N, P và nguyên tố vi lượng. 3.3.1. Sự axit hóa của dịch lên men. Trong sản xuất giấm người ta thường cho vào cơ chất ban đầu một lượng giấm nhất định để axit hóa môi trường nhằm: + Ngăn sự phát triển của các vi sinh vật có hại. + Đưa vào dịch lên men một lượng tế bào nhất định. 3.3.2. Hàm lượng etylic trong dịch lên men. Etylic là chất sát khuẩn với vi khuẩn acetic được sử dụng như cơ chất. Hàm lượng rượu >10% làm giảm năng suất lên men. Để tránh hiện tượng oxy hóa tiếp xúc với axit acetic thành CO2 và H2O cần bổ sung một lượng rượu từ 0,2- 0,5% sót trong sản phẩm, lượng rượu sót có tác dụng ức chế sự tổng hợp enzim oxi hóa axit acetic và muối acetate.[3] 14 3.3.3. Các chất C, N, P và nguyên tố vi lượng. Để quá trình oxi hóa xảy ra nhanh trong dịch lên men cần bổ sung 1 số muối khoáng như (NH4)2SO4, KH2PO4, CaHPO4, FeCl3… tùy theo nhu cầu từng loại mà ta bổ sung liều lượng thích hợp. Ngoài ra trong môi trường dinh dưỡng còn bổ sung Vitamin, chất kích thích sinh trưởng như pepton, cao nấm men… trong môi trường dinh dưỡng còn bổ sung sake, muối đậu nành, axit lactic, glycerine. IV. Quy trình sản xuất giấm. 4.1. Quy trình sản xuất giấm. - Các phản ứng trong sản xuất dấm ăn nhờ A. suboxidans : CH3- CH2- OH  CH3- CHO + 2H Sau sự hydrate hóa acetaldehyde sẽ diễn ra phản ứng cho hidro lần thứ 2: CH3CH(OH)2  CH3COOH + 2H Hidro được NADP nhận và các citochrome được chuyển đến O 2 là chất nhận điện tử cuối cùng.[3] 15 RƯỢU TRẮNG NỨỚ C TRỘN ĐỀU LÊN MEN O2 SẢN PHẨM BẢO QUẢN LÃO HÓA ĐÓNG CHAI Hình 4.1 Quy trình sản xuất giấm [22] 4.2. Các phương pháp lên men. Có 4 phương pháp lên men chính: 4.2.1. Phương pháp lên men chìm. 16 ĐƯỜN G GIỐNG VI GIỐNG SINH VẬTVI SINH VẬT Người ta cho dung dịch lên men vào thiết bị và tiến hành thổi khí rất mạnh. Khi đó trong dung dịch lên men sẽ tạo ra thể huyền phù và dung dịch lên men. Hai thể này luôn luôn được hòa quyện trộn lẫn với nhau, quá trình oxi hóa xảy ra mãnh liệt.[3] 4.2.2. Phương pháp kết hợp. Người ta thiết kế hệ thống lên men bao gồm 3 phần: phần trên là lớp đệm ( chứa vi sinh vật), lớp giữa là một thúng chứa dung dịch sau khi lên men ở phần trên chảy xuống. Dưới cùng là hệ thống thổi khí mạnh, khí sẻ được thổi qua phần dung dịch này rồi chuyển ngược lên phần trên.[3] 4.2.3. Phương pháp lên men chậm. Phương pháp này được người Pháp thực hiện từ rất lâu và được coi như là phương pháp lên men truyền thống của người Pháp. Nguyên liệu của phương pháp này là nho, giống vi khuẩn axit acetic được sử dụng cho quá trình sản xuất là Acetobacter orleaneuse. Tiến hành lên men người ta thường cho 1/5 axit acetic vào thùng lên men có dung tích 250- 300 lít, tiết tục cho nước ép nho sao cho toàn bộ khối lượng đạt 2/3 thể tích thùng lên men. Mục đích cho acetic vào trước là tạo điều kiện cho vi khuẩn lên men phát triển, mặt khác để ngăn ngừa các vi khuẩn khác phát triển, không bị nhiểm tạp chất, lên men ở nhiệt độ 23- 340C. Sau một thời gian trên bề mặt sẽ tạo thành váng chứa nhiều axit acetic. Vì thế mà quá trình oxy hóa xảy ra chậm và kết thúc sau vài tuần. Khi kiểm tra rượu còn lại 0,3- 0,5% sẽ lấy giấm ra, cho dịch dinh dưỡng mới vào. Nếu để lâu, chất lượng giấm bị giảm nhanh do quá trình oxy 17 hóa giấm xảy ra tiết tục. Giấm thu được thường có lượng axit acetic 5- 6 %. Muốn để lâu phải đem đi thanh trùng Pasto.[3] 4.2.4. Phương pháp lên men nhanh. Phương pháp này do người Đức thức hiện theo quy mô công nghiệp. Thiết bị lên men là một thùng gỗ cao 2,5- 6 m , đường kính 1,2- 3m. Tỉ lệ đường kính so với chiều cao khoãng 1/2 là thích hợp nhất. Nguyên liệu lên men là bột ngô, bột ngô được xem như là chất mang, giữ vi sinh vật trong quá trình lên men, nhờ đó mà vi sinh vật không đi theo vào sản phẩm cuối cùng. Ngoài ra, ở đáy thiết bị người ta lắp thêm hệ thống phân phối, không khí đi từ dưới lên, môi trường được đưa vào từ trên xuống.[3] Tiến hành: Ta dùng axit acetic có nồng độ 3- 5% chảy qua lớp phôi bào hay lõi bắp có mục địch thanh trùng vừa có tác dụng axit hóa vật liệu chất mang để vi sinh vật giống dễ thích nghi trong quá trình lên men. Sau đó, dùng nước cất rữa qua và giống vi khuẩn axit acetic vào, vi khuẩn axit acetic sẽ bám vào phoi bào hay lõi bắp. Tiếp đó ta cho dòng môi trường đi từ trên xuống qua hệ thống phân phối dạng phun, môi trường sẽ được phân phối đều khắp vật liệu, cồn sẽ thấm thấu vào tế bào vi khuẩn và cung cấp khí bằng hệ thống thổi khí từ dưới lên tạo điều kiện để vi khuẩn lên men tốt nhất, vi khuẩn oxy hóa rượu thành axit acetic sẽ thấm thấu qua màng tế bào ra ngoài và theo dung dịch xuống đáy thiết bị lên men, ta thu sản phẩm từ đáy thiết bị lên men. [3] Hình 4.2. THÙNG LÊN MEN GIẤM[21] 18 Quá trình lên men được thực hiện ở nhiệt độ 24- 370C, thời gian lên men từ 8- 10 ngày. Trong trường hợp dịch lên men cuối cùng chứa lượng axit acetic thấp, ta tiến hành tái lên men bằng cách bơm chúng ngược trở lại từ trên xuống. - Phương trình oxi hóa rượu thành axit acetic trong tế bào: CH2H5OH + O2  CH3COOH + H2O + 117 Kcal Phản ứng xảy ra trong tế bào vi khuẩn, muốn phản ứng xảy ra, CH 2H5OH và O2 phải được thẩm thấu trong tế bào. Khi đó các enzim có trong tế bào của vi khuẩn tham gia oxi hóa rượu thành CH3COOH . CH3COOH được tạo thành sẽ thoát khỏi tế bào và tan trong dịch môi trường.[3] Rượu C2H5OH CH3COOH CH3COOH O2 Tế bào vi khuẩn Môi trường Hình 4. 3. Quá trình oxy hóa rượu thành acis acetic.[3] 19 4.3 Lão hóa. Lão hóa là thời gian mà giấm hình thành, hoàn thiện bên trong thùng lên men, các thay đổi thời gian phụ thuộc vào hóa chất, tính chất vật lý và cảm quan. Màu của giấm dao động từ màu vàng  nâu đen trong quá trình lão hóa do sự tích tụ của các hợp chất, chủ yếu là melanoidins, từ các phản ứng xúc tác của các emzim không như đường xuống cấp, tính axit và phản ứng Maillard là phản ứng hóa nâu trong điều kiện có protein, đường và nước. Độ nhớt: Các tính chất chảy của giấm được xác định bởi lực hấp dẫn cụ thể và về số lượng trọng lượng phân tử cao melanoidins, một lớp không đồng nhất của biopolymers đã hình thành và tích lũy trong quá trình lão hóa. V. Biến đổi sinh hóa trong quá trình lên men. 5.1. Biến động vi sinh vật. 5.1.1. Hiện tượng dấm đục và giảm độ chua. Trong quá trình oxy hóa rượu thành giấm đôi khi xẩy ra hiện tượng oxy hóa sâu sắc axit acetic tới CO2 và H2O. Nguyên nhân chủ yếu là do giấm bị nhiễm vi khuẩn A. Xylinum, A. Aceti... hoặc nấm men thuộc họ Candida mycoderma các loại giống này dễ oxy hóa axit acetic, chúng phát triển trong giấm tạo màng nhầy trên bề mặt, làm cho giấm thành phẩm có cặn nhầy.[3] 5.1.2. Hiện tượng lươn giấm. Trong thùng lên men và giấm thành phẩm thường thấy một loại giun tròn nhỏ, dài khoảng 12mm, gọi là lươn giấm Angillula aceti. Lươn giấm sinh trưởng và phát triển trong điều kiện nghiêm ngặt, phát triển mạnh ở nồng độ axit 6%, và nồng độ trên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan