Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan niệm vể tự do của i.berlin trong tác phẩm bốn tiểu luận về tự do...

Tài liệu Quan niệm vể tự do của i.berlin trong tác phẩm bốn tiểu luận về tự do

.PDF
86
344
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- TRẦN THỊ NHÂM QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA I. BERLIN TRONG TÁC PHẨM “BỐN TIỂU LUẬN VỀ TỰ DO” LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- TRẦN THỊ NHÂM QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA I. BERLIN TRONG TÁC PHẨM “BỐN TIỂU LUẬN VỀ TỰ DO” Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học Mã số: 60.22.03.01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn HÀ NỘI – 2015 LỜI CAM ĐOAN Luận văn “QUAN NIỆM VỀ TỰ DO CỦA I. BERLIN TRONG TÁC PHẨM “BỐN TIỂU LUẬN VỀ TỰ DO” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tài liệu sử dụng tham khảo, trích dẫn trong Luận văn đều rõ nguồn, trung thực. Kết quả nghiên cứu được công bố trong Luận văn là chính xác, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố trong và ngoài nước. Tôi xin cam đoan điều này là đúng sự thật. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015 Tác giả Trần Thị Nhâm LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, người thầy trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn –Đại học Quốc Gia Hà Nội đã có những ý kiến đóng góp quý báu để tôi trưởng thành hơn trong con đường học thuật. Tôi cũng trân trọng cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp đối với luận văn để tôi hoàn thiện hơn công trình nghiên cứu của mình! Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015 Tác giả Trần Thị Nhâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2 CHƢƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG I. BERLIN VỀ TỰ DO TRONG TÁC PHẨM BỐN TIỂU LUẬN VỀ TỰ DO ................................................................................................................... 12 1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa - chính trị ........................................... 12 1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự ra đời quan niệm của I. Berlin về tự do ..... 18 1.3. I. Berlin và tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do ........................................ 23 1.3.1. I. Berlin cuộc đời và sự nghiệp ............................................................. 23 1.3.2. Tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do” ....................................................... 27 CHƢƠNG 2. QUAN NIỆM CỦA I. BERLIN VỀ TỰ DO TRONG TÁC PHẨM “BỐN TIỂU LUẬN VỀ TỰ DO” ................................................... 38 2.1. Nền tảng triết học cho quan niệm của I. Berlin về tự do.................... 38 2.2. Tƣ tƣởng cơ bản về tự do của I. Berlin ................................................ 49 2.2.1. Tự do phủ định ...................................................................................... 49 2.2.2. Tự do khẳng định .................................................................................. 56 2.3. Giá trị và hạn chế trong quan niệm của I. Berlin về tự do ................ 67 2.3.1. Giá trị của quan niệm Berlin về tự do .................................................. 67 2.3.2. Hạn chế của quan niệm Berlin về tự do ................................................ 70 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tự do luôn là cái đích mà loài người hướng đến, con người đã trải qua các cuộc đấu tranh phá bỏ gông cùm, xiềng xích về mọi mặt để vươn mình đến với tự do theo nghĩa đầy đủ nhất. Với tư cách là một phạm trù triết học, khái niệm tự do không ngừng vận động, phát triển qua từng thời kì, gắn với quan điểm của các nhà tư tưởng khác nhau. Nhân loại luôn khao khát tự do, đó là khát vọng thường trực trong mỗi con người. Tự do đã trở thành bản chất tự nhiên, bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng ao ước nó. Chính vì thế, không một con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và áp bức. Tự do là một chủ đề xuất hiện sớm và được bàn luận nhiều nhất ở phương Tây, kể từ thời Hy Lạp cổ đại. Trong khi đó, lịch sử triết học phương Đông cổ đại đề cập rất ít hoặc không bàn luận đến phạm trù tự do bởi sự khác biệt giữa hai nền văn hóa. Phương Tây hướng đến lý tính và con người cá nhân, còn phương Đông nhấn mạnh mặt xã hội của con người, đặt con người trong cộng đồng. Bước vào thời kì Trung cổ, Ki tô giáo cũng đã nhắc đến tự do của con người, nhưng ở đây mới dừng lại ở quan điểm tự do ý chí. Thời kỳ Khai sáng đã đánh dấu một bước ngoặt không chỉ trong lịch sử hướng tới văn hoá, văn minh, mà còn trong nhận thức của con người. Các nhà tư tưởng thời kỳ này không phải những người đầu tiên bàn về tự do nhưng họ là những người có công rất lớn trong việc xây dựng những nhận thức mới về tự do và thức tỉnh nhân loại về các giá trị của nó. Phương Tây đã đón nhận những thành quả ấy và là những người đầu tiên được nếm vị ngọt của tự do. Bước sang thế kỉ XIX, J.S. Mill (1806 - 1873), một triết gia theo đường lối tự do đã cho rằng, tự do của mỗi người tìm thấy giới hạn của mình trong tự 2 do của người khác, tự do xã hội là ranh giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự độc lập của cá nhân. Tự do được nhắc đến ở đây là tự do về mặt chính trị - xã hội. Trong lịch sử tư tưởng về “Tự do”, ở phương Tây ta bắt gặp ba “mô hình” lý luận tiêu biểu làm cơ sở cho hành động thực tiễn: Thứ nhất, là cứu vãn sự Tự do trước sự cưỡng chế mang tính định mệnh tất yếu của tự nhiên để đặt nền tảng cho hành động thực hành (luân lý) và khẳng định “phẩm giá bất khả xâm phạm” của con người (Kant). Thứ hai, là hiện thực hóa Tự do như là tiến trình lịch sử tất yếu (Hegel) Thứ ba, là minh định phạm vi và ranh giới của Tự do dân sự trong mối quan hệ cá nhân - xã hội vì sự tiến bộ và phát triển của đời sống cộng đồng (J.S. Mill). Hai “mô hình” trước dựa trên một “lý tính” (rationality) mang màu sắc triết học và siêu hình học (“siêu nghiệm” ở Kant; “siêu hình học tư biện” ở Hegel). “Mô hình” thứ ba của Mill - để mượn một thuật ngữ của J. Habermas dựa trên một “phương pháp lý tính”, tìm cách giải quyết vấn đề trong cộng đồng những công dân của một nhà nước dân chủ và trong hệ thống pháp quyền. Tiếp bước hành trình suy tưởng về tự do, bước sang thế kỉ XX, Isaiah Berlin (1909 - 1997), một nhà triết học, nhà lịch sử tư tưởng và nhà chính luận người Anh gốc Do Thái đã đưa ra những ý tưởng về chủ nghĩa tự do, đặc biệt là quan niệm “tự do phủ định” và “tự do khẳng định”. Quan điểm này lần đầu được đưa ra trong Hai khái niệm về tự do (1958) sau đó được tập hợp cùng với các tiểu luận khác in thành Bốn tiểu luận về tự do (1969). Berlin thừa nhận rằng tự do đã được lịch sử tôn trọng như một lý tưởng chỉ bởi một thiểu số nhỏ, nhưng ông vẫn giữ nó là một giá trị đích thực cho tất cả mọi người, ở khắp mọi nơi, vì cách mà con người được cấu thành, và cho đến nay nó sẽ tiếp tục được thiết lập trong đời sống cá nhân và xã hội. Tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do của I. Berlin cho chúng ta một cái nhìn mới về nội hàm của “tự do”. Tác giả tin tưởng vào khả năng hiểu biết lẫn 3 nhau của con người, tạo dựng một xã hội “tử tế” để chung sống với nhau và sự lựa chọn của con người “chúng ta không thể được tự do tuyệt đối và phải giao nộp một số tự do của chúng ta để cho những người khác giữ gìn. Thế nhưng tự hàng phục là chuốc lấy thất bại” [3, 52]. Các quan điểm trong tác phẩm mang đến những tư tưởng tự do chính trị rất quan trọng trong thời đại ngày nay, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, gia tăng những tranh chấp quốc tế và sự nô dịch ngầm về kinh tế, chính trị và văn hóa. Yêu cầu lý luận và thực tiễn đã thôi thúc chúng tôi tìm tòi những quan niệm giá trị về tự do trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Và nhà tư tưởng khiến chúng tôi đặc biệt quan tâm là I. Berlin với Bốn tiểu luận về tự do - cuốn sách được coi là một trong những tác phẩm nổi tiếng về chủ đề này ở phương Tây. Nó vừa là sự tiếp nối truyền thống triết học duy lý phương Tây, vừa mở rộng và phát triển bởi những suy tư mới, bổ túc thêm cho các quan niệm về tự do đã có. Tác giả luận văn muốn làm rõ những giá trị của các quan điểm về tự do của I. Berlin, bởi chúng có tác động đến lịch sử nhân loại. Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài Quan niệm về tự do của I. Berlin trong tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tự do là một trong những vấn đề được triết học quan tâm, nghiên cứu từ thời cổ đại cho đến nay. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở nước ta vấn đề này chưa được nghiên cứu và giới thiệu một cách hệ thống. Ở nước ngoài, phạm trù tự do được nhiều nhà triết học quan tâm. Trong số những tác giả nghiên cứu về vấn đề này phải kể đến R. Garodi, một học giả macxit với tác phẩm: Tự do (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962). Trong tác phẩm này, tác giả đã có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ lịch sử và tiền sử của vấn đề tự do trong các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến một số vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa tất yếu và tự do, tự do và nền dân chủ tư sản, tất yếu và tự do trong xã hội Xô Viết từ quan 4 niệm mácxít. Đáng chú ý trong số các công trình nghiên cứu về lịch sử triết học, trong đó có giành phần quan trọng phân tích về vấn đề tất yếu và tự do như: Lịch sử phép biện chứng 6 tập ( Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998) của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô; Tất yếu và ngẫu nhiên (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1958) của N.V. Pilipenca và công trình của V. Faxmuxo: Phép biện chứng về tất yếu và tự do trong triết học lịch sử của Hêghen (Tạp chí Những vấn đề Triết học, số 1/ 1995). Ở nước ta, một số bài giảng triết học có đề cập tới tự do nhưng vẫn chưa nhiều. Tác phẩm Chủ nghĩa xã hội và tự do (1986) của tác giả Ngô Thành Dương, Nxb Sự thật, Hà Nội, có bàn đến vấn đề tất yếu và tự do trong lịch sử triết học. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2009 cũng chỉ bàn đến phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Các công trình nghiên cứu như Một số vấn đề triết học - con người - xã hội (2002) của Nguyễn Trọng Chuẩn, Triết lí phát triển của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin, Hồ Chí Minh (2000) của Nguyễn Văn Huyên, Chủ nghĩa xã hội từ lí luận đến thực tiễn (2001) cùng với các đồng nghiệp của mình đã đặt ra và giải quyết thành công một số vấn đề có liên quan đến phạm trù tự do trên phương diện nhận thức luận và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ mới xem xét từng khía cạnh riêng biệt mà chưa dành một phần riêng cho mảng đề tài này. Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu về tự do như: tập tiểu luận Suy tưởng của Nguyễn Trần Bạt (2005), Công trình nghiên cứu Việt Nam với vấn đề quyền con người của Bộ Tư pháp (2005), tác phẩm Tư duy tự do của Phan Huy Đường (2006). Trong tập tiểu luận nêu trên của Nguyễn Trần Bạt có đề cập và luận giải về tự do, tuy nhiên tác giả chủ yếu đi sâu vào phân tích vai trò của tự do với con người, xã hội, tự do sinh ra con người, mang lại sự thức tỉnh cho các dân tộc. Công trình nghiên cứu về quyền con người của Bộ 5 Tư pháp có đề cập đến tự do như một quyền của con người nhưng không đi sâu phân tích chúng, công trình chủ yếu luận giải vấn đề bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Còn tác phẩm Tư duy tự do của Phan Huy Đường lại khảo sát tự do tư duy thông qua suy luận biện chứng. Bên cạnh đó cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu về tự do, trong đó có thể kể đến luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Công Chiến (12/2000) với đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa tất yếu và tự do trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn; luận án tiến sĩ triết học của tác giả Vương Thị Bích Thủy (6/2003) với đề tài Quan niệm của triết học Mác Lênin về tất yếu và tự do và ý nghĩa thực tiễn của nó. Luận án của tác giả Nguyễn Công Chiến đã đi sâu vào khai thác mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu trong lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhưng chưa phân tích làm rõ phạm trù tự do với tư cách là một quyền dân sự của con người. Còn luận án của tác giả Vương Bích Thủy đã trình bày khá chi tiết và thành công về vấn đề tự do trong mối quan hệ với tất yếu từ thời cổ đại thông qua một số triết gia tiêu biểu cho đến triết học Mác - Lênin. Từ mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu theo quan điểm triết học Mác - Lênin, tác giả đã tiếp cận đến việc áp dụng vấn đề này vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên trong luận án, tác giả vẫn chưa đề cập đến vấn đề tự do của các nhà triết học phương Tây phi macxit. Như vậy, dưới những góc độ khác nhau đã có những bài viết về vấn đề tự do trong mối quan hệ hữu cơ với tất yếu. Các công trình nói trên đã làm sáng tỏ lịch sử phát triển và một số khía cạnh của phạm trù tự do, bên cạnh những đóng góp tích cực có giá trị cần được kế thừa còn có những vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu thêm. Hiện nay chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về quan niệm của triết học phương Tây phi macxit hiện đại về vấn đề tự do. Trong bối cảnh nước ta đang mở cửa giao lưu, hội nhập với quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì mảng đề tài này càng cần được quan tâm nghiên cứu. 6 Ở nước ta, hầu như chưa có nghiên cứu nào về quan niệm tự do của Isaiah Berlin, các tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Việt cũng rất ít nên hạn chế cho việc nghiên cứu. Nếu được tiếp cận và khai thác tốt thì đây sẽ là mảnh đất màu mỡ mang lại những tri thức mới mẻ trong cách nhìn nhận, đánh giá về quan điểm tự do một cách sâu rộng hơn. Tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do của I. Berlin ra đời cách đây gần nửa thế kỉ và đã được nhiều học giả phương Tây chú ý nghiên cứu. Các công trình đó bao gồm: - Jonh Gray (2013), Isaiah Berlin: An Interpretation of His Thought (Isaiah Berlin: Một giải thích tư tưởng của ông), Nxb Princeton University Press. Những đóng góp của Berlin để suy ngẫm về triết lý đạo đức, chính trị, và lý thuyết tự do được tái hiện sinh động qua cuốn sách này. Theo tác giả, chủ nghĩa tự do của I. Berlin được xây dựng không phải trên sự lựa chọn hợp lý mà trên những sự lựa chọn triệt để khi đối mặt với tình huống khó xử. Đó là tuyên bố mới đây của chủ nghĩa tự do, chủ đề trung tâm sinh động và sáng suốt trong cuốn sách của J. Gray, nó cung cấp cho truyền thống trí thức tự do một cuộc sống, nguồn sống mới. Trong một giới thiệu mới, Gray cho rằng, khi một thế giới mà trong đó quyền tự do của con người được truyền bá chậm hơn so với dân chủ, thì quan niệm của Berlin về tự do là hữu ích hơn bao giờ hết. - J. Gray, Zbigniew Andrzej Pelczynski (2014), Conceptions of Liberty in Political Philosophy (Những quan niệm về tự do trong triết học chính trị), Nxb Bloomsbury, Hoa Kỳ. Tác giả cho biết, trung tâm của mỗi học thuyết chính trị trong truyền thống phương Tây là quan niệm tự do chính trị hoặc tự do cá nhân. Cuốn sách đã dẫn dắt các nhà triết học đương đại khám phá những quan niệm về tự do từ thời Hy Lạp cổ đại cho tới ngày nay. Tác giả khảo sát và giải thích những quan niệm của Hobbes (1588-1679), Spinoza (1632 -1677), Locke (1632- 1704), Rousseau (1712- 1778), Kant (1724- 1804), Fichte (17621814), Hegel (1770- 1831), J.S. Mill (1806- 1873), K. Marx (1818- 1883), T.H. 7 Green (1836- 1882) , Hayek (1899- 1992), Oakeshott (1901- 1990), Arendt (1906- 1975), Rawls (1921- 2002), Habermas (1929), và I. Berlin (19091997). Và một cuộc thảo luận sôi nổi diễn ra xung quanh việc phân chia tự do thành tự do phủ định và tự do khẳng định của I. Berlin. - Bruce Baum, Robert Nichols (2012), Isaiah Berlin and the Politics of Freedom: 'Two Concepts of Liberty' 50 Years Later (Isaiah Berlin và chính trị của tự do: "Hai khái niệm Tự do 50 năm sau), Nxb Routledge. Tác phẩm tập hợp các bài tiểu luận bằng cách ghi lại và phát triển lên của các nhà lý thuyết chính trị trong một dịp kỉ niệm về bài giảng nổi tiếng của Isaiah Berlin cách đây 50 năm và bài luận Hai khái niệm Tự do. Những người đóng góp đã sử dụng bài luận của Berlin như một dịp để suy nghĩ lại về chính trị lớn của tự do từ một quan điểm thế kỷ XXI, đưa ý tưởng Berlin vào cuộc trò chuyện với các vấn đề chính trị hiện nay và quan điểm bắt nguồn từ lý thuyết hậu thuộc địa, lý thuyết nữ quyền, lý thuyết dân chủ, và lý thuyết xã hội quan trọng. Các biên tập viên bắt đầu bằng cách khảo sát ảnh hưởng từ bài luận của Berlin và phạm vi của các cuộc tranh luận về tự do mà nó đã truyền cảm hứng. Công trình phân tích làm thế nào để xem xét lại ý tưởng Berlin dưới ánh sáng của cuộc đấu tranh vì quyền tự quyết dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân châu Âu và nạn phân biệt chủng tộc, và làm thế nào để xem sự khác biệt gây tranh cãi ở Berlin giữa cái gọi là "tự do phủ định "và" tự do khẳng định". Bằng cách liên hệ suy nghĩ của I. Berlin về tự do, quan điểm hiện đại của nền chính trị tự do, cuốn sách này sẽ là tài liệu đáng giá cho cả học giả của Berlin cũng như những người quan tâm trong các cuộc tranh luận lớn hơn về ý nghĩa và điều kiện tự do. - Crowder George, và Henry Hardy (biên tập, 2007), The One and the Many: Reading Isaiah Berlin (Một và Nhiều: Đọc Isaiah Berlin), Amherst, NY: Prometheus. Cuốn sách này có mục đích giới thiệu toàn bộ tư tưởng của 8 I. Berlin, các chương đầu tiên giới thiệu tư tưởng chính trị cũng như quan điểm về tự do, các vấn đề lịch sử, tôn giáo của I. Berlin và chủ đề xuyên suốt là ý nghĩa của tự do. - Claude J. Galipeau (1994), Isaiah Berlin's Liberalism (Chủ nghĩa tự do của I. Berlin), Nxb Oxford: Clarendon. Đây là nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về ý tưởng chính trị của Isaiah Berlin trong tất cả các tác phẩm của ông, bao gồm cả bản thảo, phỏng vấn, và thư từ. Claude Galipeau tập trung vào bảo vệ chủ nghĩa tự do chính trị dựa trên chủ nghĩa đa nguyên luân lý và giải thích về tư tưởng của I. Berlin trong sự phát triển lịch sử và văn hóa của nền văn minh phương Tây hơn là lập luận trừu tượng về các quyền cơ bản. Tác giả đã đưa ra những biện luận đầy thuyết phục và độc đáo trong những thảo luận về I. Berlin, tìm cách hiểu những phức tạp và nghịch lý trong hành vi của con người. Tư tưởng chính trị của I. Berlin cung cấp một sự biện minh hấp dẫn cho các tổ chức tự do trong thế giới hiện đại và nghiên cứu của Claude Galipeau sẽ là một hướng dẫn vô giá cho các tác phẩm có chiều sâu thuộc phạm vi đề tài này. Các tác giả trên thế giới tiếp cận tư tưởng triết học I. Berlin trong cả hệ thống tư tưởng của ông. Quan niệm về tự do này được ông nghiên cứu đan xen trong những tác phẩm về triết học chính trị hay những hội thảo tranh luận về tự do. Tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do lần đầu tiên được dịch giả Nguyễn Văn Trọng giới thiệu và chú giải bằng Việt ngữ và được nhà xuất bản Tri thức in xong trong Quý II năm 2014. Chính vì tính mới của tác phẩm nên chưa có tài liệu trong nước nào nghiên cứu một cách chuyên sâu. Và hầu như chưa có tài liệu nghiên cứu nào về tư tưởng của I. Berlin ở Việt Nam. Tác phẩm tập hợp bốn tiểu luận là: - “Tự do” - “Hai khái niệm về tự do” 9 - “Các ý tưởng chính trị trong thế kỉ XX” - “Sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân Hy Lạp” Như vậy, nghiên cứu quan niệm tự do của I. Berlin trong tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do là một hướng nghiên cứu mới ở trong nước góp phần tìm hiểu sâu hơn di sản triết học của nhân loại. Luận văn góp phần bổ sung nhận thức về quan niệm tự do trong truyền thống triết học nhân loại thông qua nghiên cứu quan niệm về tự do của I. Berlin trong tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Làm rõ những tư tưởng cơ bản của I. Berlin về tự do trong tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do”, từ đó chỉ ra những giá trị và hạn chế của chúng. - Nhiệm vụ: + Nghiên cứu các điều kiện và tiền đề ra cho sự đời quan niệm của I. Berlin về tự do trong tác phẩm nêu trên. + Nghiên cứu nội dung cơ bản của quan niệm I. Berlin về tự do trong tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do. + Đánh giá giá trị và hạn chế của quan niệm về tự do của I. Berlin trong tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do”. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Quan niệm của I. Berlin về tự do tập trung trong tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do. - Phạm vi: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu các nội dung cơ bản trong quan niệm tự do của I. Berlin trong tác phẩm Bốn tiểu luận về tự do. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu không tách rời hệ thống quan niệm nền tảng triết học của I. Berlin và nền tri thức tác động tới suy tư về tự do của tác giả. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 10 - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, phần quan điểm về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để nghiên cứu quan niệm của I. Berlin về tự do. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng cách tiếp cận biện chứng và các phương pháp chủ yếu như phân tích và tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic, hệ thống - cấu trúc, quy nạp - diễn dịch, nghiên cứu văn bản, đặc biệt là phương pháp luận của chính trị học so sánh từ góc nhìn chính trị đạo lý. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần khẳng định giá trị tư tưởng của I. Berlin, đóng góp thêm một cách hiểu vào nhận thức chung về triết học chính trị, đặc biệt là lịch sử các quan niệm về tự do. Luận văn gợi mở cho những ai tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề này, và có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ quan niệm của I. Berlin về tự do, mang lại cái nhìn toàn diện hơn về lịch sử tư tưởng phương Tây trong vấn đề tự do. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo giảng dạy và học tập một số chuyên đề lịch sử triết học phương Tây hiện đại, chính trị học. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 2 chương và 6 tiết. 11 CHƢƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG I. BERLIN VỀ TỰ DO TRONG TÁC PHẨM BỐN TIỂU LUẬN VỀ TỰ DO 1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa - chính trị * Điều kiện kinh tế - xã hội Từ những năm 1900 trở đi, nước Anh từ một cường quốc trung tâm hàng đầu có sức mạnh to lớn trở thành một quốc gia phát triển tầm trung với vai trò quốc tế mờ nhạt. Trong thế kỉ XX, nước Anh trải qua sự thay đổi lớn, qua hai cuộc chiến tranh thế giới, đời sống mọi tầng lớp nhân dân lâm vào khó khăn, đặc biệt là giai cấp công nhân. Năm 1900, các cuộc điều tra cho thấy, có từ 15 - 20% dân số sinh sống trong cảnh nghèo nàn, 8 - 10 % dân số sống dưới mức đói nghèo. Trên thực tế luôn luôn có một lượng lớn dân số sống trong cảnh thiếu thốn dưới mức sinh tồn. Năm 1906, chính phủ tự do được bầu và họ đã đưa ra một số cải cách. Từ đây các bữa ăn miễn phí được cung cấp trong trường học. Từ 1907, y tế học đường được xét duyệt, nền dân chủ xã hội được mở rộng, các tầng lớp nhân dân có được nhiều hơn các quyền tự do. Năm 1908, những người thợ mỏ đã đấu tranh thắng lợi, buộc giới chủ phải giới hạn ngày làm việc 8 tiếng, lương hưu bắt đầu được trao cho những người trên 70 tuổi, tuy nhỏ nhưng nó đã đánh dấu một sự khởi đầu cho việc thực hiện các chính sách xã hội. Từ năm 1925, lương hưu được trả cho nhưng người đàn ông trên 65 tuổi, phụ nữ trên 60 tuổi, góa phụ cũng được nhận lương hưu. Năm 1909, Bộ Thương Mại đưa ra quy định về tiền lương tối thiểu cho những ngành nghề vốn có mức lương thấp và trong năm này một đạo luật giúp những người thất nghiệp tìm việc làm đã ra đời. Năm 1911, Luật Bảo hiểm quốc gia được thông qua, từ đây những người lao động cùng đóng góp để xây dựng các loại quỹ Bảo hiểm. 12 Bước vào chiến tranh thế giới lần thứ I, Anh tham chiến nhằm chặn đứng tham vọng tranh giành thuộc địa, chia lại thị trường của Đế quốc Đức. Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, trừ Mĩ và Nhật, các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu bị suy yếu trầm trọng vì đây là chiến trường chính. Các nước này đều lâm vào khủng hoảng kinh tế 1920 - 1921. Trong cuộc chiến tranh đế quốc này, Anh tuy thắng trận nhưng cũng đã chịu những tổn thất nặng nề. Tại các nước châu Âu, những cuộc cách mạng dân chủ tư sản, cách mạng vô sản đã làm rung chuyển chế độ tư bản, châu Âu vốn từ lâu được coi là trung tâm của chủ nghĩa tư bản bị lâm vào tình thế bất lợi trước so sánh tương quan lực lượng trước và sau chiến tranh. Giai đoạn này cũng đồng thời chứng kiến nỗ lực của các nước tư bản tìm cách nhanh chóng thanh toán chiến tranh, tổ chức lại trật tự thế giới cho phù hợp tương quan lực lượng mới. Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn ra đời phần nào đáp ứng được yêu cầu đó nhưng chưa thỏa mãn tham vọng của các bên. Khủng hoảng kinh tế - chính trị, xã hội khiến cho chủ nghĩa tư bản ở các nước châu Âu nói riêng và thế giới nói chung lâm vào tình trạng bất ổn. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Anh là nước thắng trận, hạ gục được Đức, vẫn giữ được vị trí đế quốc có nhiều thuộc địa nhất. Mặc dù vậy, Anh cũng chịu nhiều hậu quả từ cuộc chiến: mất 70% tàu buôn, ngoại thương chỉ còn ½, từ vị trí chủ nợ, sau chiến tranh Anh trở thành con nợ của Mĩ với 5,6 tỉ USD. Từ cuối năm 1920, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng lên, đến đầu 1921 đã trùm lên các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại. Sản xuất công nghiệp giảm xuống còn 1/3, xuất khẩu giảm 44%, nhập khẩu giảm 39%. Nhiều xí nghiệp bị phá sản, nạn thất nghiệp tràn lan nhất là các ngành đóng tàu và luyện kim. Trong những năm 1920, ngành công nghiệp truyền thống như khai thác than sụt giảm, vì vậy đến năm 1921 giới chủ cắt giảm tiền lương của công 13 nhân, đến năm 1926 lại đề xuất giảm tiền lương và tăng giờ làm việc. Điều này đã khiến cho các cuộc đình công ngày càng lan rộng, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Xã hội Anh thời kì này gặp nhiều vấn đề xã hội nan giải, người công nhân phải đối mặt với cuộc sống cực kì khó khăn. Trước thực tế khắc nghiệt đó, các nhà tư tưởng theo phong trào cải cách đã cố gắng tìm ra những giải pháp để giải phóng họ. Triết lý của chủ nghĩa tự do được quan tâm, đề cập nhiều nhất trong thời kì này. Từ năm 1925, nước Anh bước vào thời kì ổn định nền kinh tế và chính trị. Nhiều ngành công nghiệp truyền thống được khôi phục, các ngành công nghiệp mới được phát triển như hàng không, kĩ thuật điện. Nhưng mãi cho đến năm 1929 thì sản xuất công nghiệp ở Anh mới đạt đươc mức trước chiến tranh. Tỉ trọng công nghiệp Anh trong tổng sản lượng chung của công nghiệp thế giới giảm rõ rệt. sản xuất nông nghiệp cũng không mấy sáng sủa. Trong những năm khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, mức độ khủng hoảng kinh tế ở Anh không trầm trọng bằng Mĩ vì nền kinh tế ở đây phát triển chậm, lạm phát cao, đồng bảng Anh mất giá 1/3. So với năm 1929, năm 1933, sản lượng công nghiệp giảm hơn 20%, trong đó các nghề sản xuất chủ yếu như gang, thép giảm 1/2, than đá, đóng tàu cũng giảm mạnh. Khủng hoảng cũng xảy ra trong nông nghiệp, diện tích canh tác bị thu hẹp, nông sản giảm. Tình hình xã hội rối ren, công nhân thất nghiệp nhất là trong các ngành luyện kim, đóng tàu,… chính phủ phải xuất một số lượng tiền lớn để cứu tế, chi cho bảo hiểm thất nghiệp hàng trăm triệu bảng. Nước Anh bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1934 nhưng sự phục hồi và phát triển kinh tế yếu ớt trong những năm tiếp theo không chuyển thành sự phồn vinh. * Bối cảnh văn hóa - chính trị Bối cảnh xã hội Tây Âu đầu thế kỷ XX là yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng về tự do của I. Berlin. Vào thời kỳ này, xã hội Tây Âu có 14 nhiều biến động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... Nguyên nhân chính của những biến động đó là do sự bành trướng của khoa học - kỹ thuật và đặc biệt, về mặt lý luận, là sự thống trị của chủ nghĩa duy lý. Xã hội duy lý đã tước mất mọi giá trị đích thực của con người, con người bị duy lý hóa tới mức trở thành một “mắt xích” trong dây chuyền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như trong chính trị. Con người trong xã hội không ý thức được mình là ai, có ham muốn gì..., mà ngược lại, họ trở thành những công cụ, phương tiện hỗ trợ đắc lực cho những mục tiêu chính trị. Về mặt tôn giáo, con người bị lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Ngay cả giáo lý Thiên Chúa giáo cũng bị duy lý hóa để rồi con người phải răm rắp tuân theo những mệnh lệnh của Chúa Trời. Về chính trị, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình tiếp tục xấu đi, hình thức chính quyền của Anh trong mấy năm sau chiến tranh là chính phủ liên hiệp gồm Công đảng, Bảo thủ, Tự do. Tháng 5 năm 1918, Đảng Tự do chính thức bị phân liệt, từ đây vị trí của Đảng Tự do suy giảm không cứu vãn nổi. Đảng Bảo thủ trở thành ngọn cờ tập hợp giai cấp hữu sản. Tháng 1 năm 1919, Chính phủ chỉ gồm Đảng Bảo thủ và Tự do do Lôi Giooc (thuộc Đảng Tự do) đứng đầu. Công đảng tập hợp giai cấp công nhân xung quanh. Trong bối cảnh đó, Công đảng phát triển nhanh: trong cuộc tuyển cử 1922, được 162 ghế (năm 1918 chỉ được 60 ghế). Tình hình nước Anh tiếp tục xấu đi do khủng hoảng kinh tế và sự suy yếu địa vị của Anh trên trường quốc tế. Tháng 10 năm 1922, chính phủ của Đảng bảo thủ lên nắm quyền đã thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại phản động, nhất là chính sách chống nước Nga Xô Viết. Chính sách này đã gây nên sự bất bình trong lòng dân chúng. Trong cuộc bầu cử quốc hội bất thường năm 1923, Đảng bảo thủ mất uy tín, Công đảng lên nắm quyền với thủ tướng là R. Macpônan. Từ đây, trên chính trường Anh, vị trí của Công đảng đã lớn mạnh hơn trước, thay thế vị trí 15 của Đảng Tự do, giữ vai trò đảng đối lập với đảng cầm quyền. Điều đó chứng tỏ phần nào sự thật bại của chính giới bảo thủ Anh trước trình độ giác ngộ ngày càng cao của nhân dân lao động. Trong khi Anh bị suy giảm thì các nước ngoài châu Âu như Nhật, Mĩ không chịu nhiều hậu quả chiến tranh, vươn lên mạnh mẽ. Vị trí bá chủ của Anh bị lung lay, nhường bước cho Mĩ. Anh buộc phải nhân nhượng cho Mĩ tại Hội nghị Vecxai và Oasinhtơn. Anh cùng với các nước Đế quốc can thiệp vào nước Nga Xô Viết song bị thất bại. Đế quốc Anh bị mất khá nhiều thuộc địa vì phải nhường cho Mĩ và phải trao trả độc lập cho một số dân tộc phụ thuộc, thuộc địa. Trong thời kì Công đảng nắm quyền, chính phủ của đảng này đã công nhận Liên Xô và có dự định kí kết hiệp ước với Liên Xô. Sự suy thoái kinh tế đưa đến nạn thất nghiệp thường xuyên (số người thất nghiệp tăng lên 1 triệu người), đời sống nhân dân ngày càng khó khăn đã kích thích tinh thần đấu tranh của họ. Điều này dẫn tới cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Trong những năm 1918 - 1921 có 6,5 triệu người bãi công. Phong trào công nhân không những đưa ra những yêu sách kinh tế mà còn cả những yêu sách chính trị. Họ đòi chấm dứt can thiệp vào nước Nga Xô Viết, đòi quốc hữu hóa nền kinh tế. Trong những năm từ 1924 đến 1929 ở nước Anh là thời kì cầm quyền của Đảng Bảo thủ. Chính phủ của Đảng Bảo thủ chủ trương khôi phục kinh tế bằng cách đánh vào quyền lợi của người lao động, có lợi cho giới chủ. Bất bình trước việc chính phủ cắt giảm tiền lương, thợ mỏ Anh đã tổ chức đình công tháng 5 năm 1926. Toàn bộ lao động trong các xí nghiệp công nghiệp và giao thông ngưng trệ, hầu hết các báo ngừng xuất bản. Chính phủ Anh phải ban bố “Tình trạng đặc biệt”. Để duy trì vai trò của mình trong tình hình mới, năm 1926, Anh thành lập khối Cộng đồng Anh. Sau khi Công đảng trở lại nắm quyền, chính phủ Anh tái hợp quan hệ ngoại giao với Liên Xô (tháng 11/1929). Năm 1931, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan