ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ KIM THANH
QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ TẤT YẾU VÀ TỰ DO TRONG ĐẠO ĐỨC
VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ TRONG XÂY DỰNG
ĐẠO ĐỨC MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60 22 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS NGUYỄN VĂN PHÚC
Hà Nội – 2010
1
Lời cảm ơn
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và động
viên to lớn của Thầy hướng dẫn, sự giúp đỡ và tạo điều kiện của
các thầy cô giáo trong khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vì vậy, tác giả
luận văn xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn khoa học,
PGS. TS Nguyễn Văn Phúc và các Thầy Cô giáo khoa Triết học.
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Thanh
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Mọi trích dẫn trong luận văn đều trung thực.
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Thanh
3
BẢNG VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
CNCS
Chủ nghĩa cộng sản
CSCN
Cộng sản chủ nghĩa
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 14
Chương 1 ........................................................................................................ 14
QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN ....................................... 14
VỀ TẤT YẾU VÀ TỰ DO TRONG ĐẠO ĐỨC ....................................... 14
1.1. Quan niệm về tất yếu và tự do trong đạo đức: ………………………..8
1.1.1 Quan niệm về tất yếu và tất yếu trong đạo đức................................ 14
1.1.2 Quan niệm về tự do và tự do trong đạo đức....................................... 26
1.2. Quan niệm về mối quan hệ tất yếu và tự do trong đạo đức: ……….32
1.2.1 Quan hệ giữa quy luật phát triển của đạo đức với hoạt động của con
người trong lĩnh vực đạo đức ........................................................................ 39
1.2.2. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội dưới góc độ đạo đức ...................... 52
Chương 2. ....................................................................................................... 67
VẬN DỤNG QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ TẤT
YẾU VÀ TỰ DO TRONG ĐẠO ĐỨC VÀO VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO
ĐỨC MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................................... 67
2.1 Đạo đức mới và thực trạng xây dựng đạo đức mới ở nước ta những
năm qua. ......................................................................................................... 67
2.1.1 Khái quát về đạo đức mới Việt Nam .................................................. 67
2.1.2 Thực trạng vận dụng mối quan hệ tất yếu và tự do trong xây dựng đạo
đức mới. .......................................................................................................... 85
2.2 Một số định hướng cơ bản trong xây dựng đạo đức mới .. …….…96
2.2.1. Xác lập các điều kiện khách quan tất yếu làm nền tảng xây dựng đạo
đức mới ....................................................................................................... 96
2.2.2. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức nhằm phát huy tự do đạo đức cho cá
nhân .............................................................................................................. 110
5
KẾT LUẬN .................................................................................................. 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 122
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với con người, tự do bao giờ cũng là vô giá, Mác đã nhận ra chân
lý đó khi nhận thấy “không một người nào chống lại tự do, nhiều lắm thì
người ta cũng chỉ chống lại tự do của người khác mà thôi”. Tự do dưới góc độ
chính trị - xã hội là giá trị tác động trực tiếp đến đời sống con người. Lịch sử
thế giới từ khi xuất hiện tư hữu đến nay luôn diễn ra xung quanh cuộc đấu
tranh giành và bảo vệ tự do. Ngay cả đối với giới tự nhiên, con người cũng
luôn cố khẳng định tư cách tự do của mình. Tuy nhiên, mức độ kết quả đạt
được không phụ thuộc vào chủ quan mỗi người, nó phụ thuộc vào trình độ
phát triển của thực tiễn. Tính tương đối của sự thoả mãn những nhu cầu nảy
sinh không ngừng trong quá trình tồn tại của con người đã chứng tỏ rằng vấn
đề tự do cũng như con đường đạt đến tự do là không hoàn toàn được tự do, tự
do đi liền với tất yếu, tự do là tự do - tất yếu. “Nghịch lý của tự do” đó là một
nghịch lý hợp lý, nó chỉ dẫn hành động của con người phải tuân theo quy luật
khách quan trong quá trình tìm kiếm tự do. Như vậy, tự do là năng lực hành
động trên cơ sở nhận thức đúng tất yếu khách quan. Ngay kết luận chân lý
này của triết học Mác - Lênin cũng là một sản phẩm nhận thức của sự phát
triển lịch sử. Vì vậy cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn và nhiều hơn nữa vấn
đề này nhằm phát triển lý luận cũng như định hướng hành động.
Con người - đạo đức - tự do là một tam thức của đời sống xã hội, tự do
đúng nghĩa và chân chính chỉ tìm thấy ở trình độ con người và con người chỉ
xứng đáng với tầm vóc Người của mình khi sống có đạo đức. Như thế, đạo
đức và tự do trước hết là những giá trị của con người, thuộc về con người.
Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử lại cho thấy, đó đồng thời cũng là giá trị đầu tiên
và cao nhất mà nhân loại luôn khát khao và hướng đến. Nhưng không vì thế
7
mà đạo đức và tự do tồn tại như cái đứng trên hay đứng ngoài xã hội. Tự do
và tất yếu trong lĩnh vực đạo đức là một vấn đề thời sự và khá phức tạp vì nó
liên quan trực tiếp đến con người ở khía cạnh chiều sâu nhất.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang tác động mạnh mẽ đến
những lĩnh vực xã hội then chốt nhất, trong đó có đạo đức - lĩnh vực tinh thần
và xã hội của đời sống con người. Những hiện tượng suy thoái, xuống cấp đạo
đức trong nhiều tầng lớp dân cư đã được lý giải dưới nhiều lăng kính và thiết
chế. Góc độ tất yếu và tự do có thể mở ra khả năng xem xét đời sống đạo đức
của con người Việt Nam hiện nay ở tầng sâu cội nguồn và bản chất của nó.
Không thể giải quyết khiên cưỡng và triệt để những hạn chế về đạo đức khi
cơ sở kinh tế - xã hội sản sinh ra nó còn đang tồn tại một cách khách quan;
tuy nhiên, lực lượng chủ quan vẫn có thể tác động từng bước theo cách phù
hợp với cái tất yếu đó - bởi vì thật ra những mục đích chủ quan không hề đối
lập với tính tất yếu khách quan, nó được “nảy ra” từ hiện thực khách quan để tự do trong lĩnh vực đạo đức cho con người ngày càng được mở rộng.
Bên cạnh sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức, ở nước ta hiện nay đang
xuất hiện một hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức mới mang dấu ấn rõ nét của nền
kinh tế thị trường, đó là những giá trị tích cực phản ánh sự thích nghi nhanh
chóng của cá nhân trước xã hội. Những giá trị này hợp thành đạo đức mới
Việt Nam hiện đại. Nhưng, phải chăng, đạo đức mới Việt Nam chỉ hình thành
khi chúng ta bước vào công cuộc đổi mới kinh tế?. Phải lý giải thế nào về vị
trí của những giá trị đạo đức nhân đạo, cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh cũng như trong thực tế xã hội Việt Nam thời kỳ lịch sử từ sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Tóm lại, xác định chính xác đạo đức
mới Việt nam là đạo đức nào là công việc cần thiết bởi khi đó, chúng ta mới
có cách ứng xử phù hợp, đúng đắn đối với con người nhằm tăng cường tự do,
trong đó có tự do đạo đức cho họ.
8
2. Tình hình nghiên cứu
Tất yếu và tự do là vấn đề mang tính triết học. Tất yếu và tự do trong
lĩnh vực đạo đức là vấn đề của cả triết học và đạo đức học. Trên quan điểm
Mác-Lênin, đạo đức học được coi là triết học thực tiễn, do đó đề tài này thuộc
phạm vi triết học nhiều hơn.
Vấn đề tất yếu và tự do, vấn đề đạo đức, vấn đề tất yếu và tự do trong
lĩnh vực đạo đức đều đã được triết học Mác - Lênin đề cập hoặc định hướng,
gợi ý.
Nghiên cứu vấn đề này có:
+ Nhóm công trình nghiên cứu về tất yếu và tự do: Trước hết phải kể
đến tác phẩm Tự do của R.Garôđi vốn là luận án tiến sĩ triết học của ông Vấn
đề tự do và tất yếu dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm,
R.Garôđi đã làm rõ vấn đề tất yếu và tự do dưới góc độ học thuật thông qua
việc khảo cứu các học thuyết trong lịch sử về vấn đề này. Bên cạnh đó, ông
còn trình bày cách giải quyết của CNDVBC và CNDVLS cũng như chỉ ra ý
nghĩa lịch sử thực tiễn của vấn đề tất yếu và tự do trong xã hội tư sản và xã
hội Xô Viết. Tác phẩm Triết học mở và xã hội mở, Nxb Khoa học xã hội,
2002 của nhà mácxít nổi tiếng người Anh - Maurice Cornforth cũng dành một
chương để thực hiện cuộc bút chiến chống lại “kẻ chống cộng số một” - Kac
Poper trên một số bình diện của vấn đề tự do như tự do và tất yếu, tự do và
hạn chế tự do, phương tiện và khả năng cho tự do cá nhân. Những bình diện
này được đặt trong tổng thể sự phản bác việc xuyên tạc, đánh tráo hai khái
niệm “đóng” và “mở” khi nhìn nhận học thuyết Mác. Trong nhiều tài liệu và
sách giáo khoa Mác-Lênin khác cũng đề cập đến vấn đề tất yếu và tự do
nhưng còn rất ít, nổi bật có luận án tiến sĩ của Nguyễn Công Chiến Mối quan
9
hệ biện chứng giữa tất yếu và tự do trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn ,2000, của Vương Thị Bích Thuỷ Quan niệm của triết học Mác Lênin về tất yếu và tự do và ý nghĩa thực tiễn của nó, 2003, các công trình này
đã cố gắng khai thác chủ nghĩa Mác - Lênin về tất yếu và tự do và vận dụng
nó vào thực tiễn xây dựng đất nước ta.
Trong cả chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác-Lênin nói
riêng, các ông đã để lại một chủ nghĩa nhân đạo cao cả và sâu sắc mặc dù
không đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về đạo đức. Tìm hiểu đạo đức học MácLênin là khai thác quan điểm, tư tưởng của các ông về những vấn đề của đạo
đức trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng.
+ Nhóm công trình nghiên cứu về đạo đức có liên quan đến vấn đề tất
yếu và tự do : Tác phẩm Đạo đức học của G.Bandzeladze đề cập những vấn
đề cơ bản như quan niệm mácxít về đạo đức, lý thuyết đạo đức cộng sản chủ
nghĩa, những quy tắc cho người xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Cuốn Nguyên
lý đạo đức cộng sản của A.Siskin nói đến tất yếu và tự do với vấn đề đạo đức
chủ yếu dưới góc độ tuyên truyền chính trị. Một số giáo trình đạo đức học
trong nước không đề cập trực diện vấn đề này. Trong các giáo trình, chẳng
hạn, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình đạo đức học, Nxb
Chính trị quốc gia, 2000; PGS.TS Vũ Trọng Dung (chủ biên), Giáo trình đạo
đức học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, 2005; TS Đặng Đức Sinh (chủ
biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Đại học sư phạm, 2008;…tất yếu và tự do
chỉ được thể hiện ra một cách gián tiếp thông qua việc vận dụng những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử để trình bày và lý giải nguồn gốc, bản
chất, các quy luật cơ bản của đạo đức.
Theo đó, tất yếu đạo đức được hiểu như là tính quy định khách quan
của những nhân tố kinh tế, xã hội; tính khách quan của sự kế thừa trong quá
trình hình thành và biến đổi cả nội dung cũng như hình thức biểu hiện của đạo
10
đức gắn với các hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Tự do đạo đức được lý
giải như là tự do của các giai cấp, tầng lớp đối với việc kế thừa và đổi mới nội
dung các giá trị đạo đức truyền thống; tự do trong việc lựa chọn và xác lập hệ
giá trị đạo đức mới trên cơ sở tính quy định của các nhân tố thời đại, dân tộc,
giai cấp.
Tương tự như vậy, nhóm công trình đạo đức học ứng dụng, tức là nhóm
công trình luận giải và đề xuất những vấn đề, giải pháp cho sự nghiệp xây
dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay cũng chỉ gián tiếp đề cập đến tất yếu và
tự do trong đạo đức. Tiêu biểu cho nhóm công trình này có: Trịnh Duy Huy,
Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, 2007; Lê Thị Tuyết Ba, Ý thức đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường, Luận án tiến sĩ triết học, 2008; Nguyễn
Duy Quý (chủ biên), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay: vấn đề và giải pháp,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008; Nguyễn Văn Phúc, Về tính quy luật của
sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, tạp chí Triết học, 3/2007;
Nguyễn Văn Phúc, Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý nghĩa của nó đối
với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay, tạp chí Triết
học, 9/2008;…Trong các công trình này, vấn đề kinh tế thị trường, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa,…được phân tích như là những nhân tố
khách quan quan trọng nhất tác động và quy định sự chuyển đổi các giá trị,
chuẩn mực đạo đức từ truyền thống sang hiện đại ở nước ta hiện nay. Sự
chuyển đổi khách quan này đòi hỏi các chủ thể xây dựng đạo đức mới cả ở
cấp lãnh đạo, quản lý (Đảng, nhà nước,…) và cấp thực thi (người dân) phải
chủ động, tích cực nhận thức và chuyển hóa tính tất yếu đó thành tự do đạo
đức thông qua việc xác lập hệ giá trị đạo đức hiện đại trên cơ sở kế thừa, đổi
mới các giá trị đạo đức truyền thống nhằm đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị
trường, hiện đại hóa, toàn cầu hóa; đồng thời tạo mọi điều kiện cần thiết để
11
các giá trị đạo đức mới được thể hiện trong cuộc sống. Trong quá trình nhận
thức và biến tất yếu thành tự do đó, tự do đạo đức của con người Việt Nam sẽ
được nâng lên tầm cao mới.
Tuy nhiên, cả về mặt thực tiễn cũng như mặt lý luận, quá trình chuyển
hóa từ tất yếu thành tự do trong đạo đức hiện nay cần được soi sáng hơn nữa
bởi những nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp và cụ thể. Những nghiên cứu như
vậy hiện nay thực sự là chưa có. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên
cứu của người đi trước, luận văn này cố gắng tập trung nghiên cứu vấn đề tất
yếu và tự do trong đạo đức như là một vấn đề vừa có ý nghĩa cấp thiết vừa có
ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng đạo đức mới, con người mới ở
nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, bước đầu làm rõ quan niệm của
triết học Mác-Lênin về mối quan hệ tất yếu và tự do trong đạo đức và việc
vận dụng nó trong sự nghiệp xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
Với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ quan điểm Mác-Lênin về tất yếu, tự do cùng mối
quan hệ giữa chúng trong đạo đức.
- Từ đó, phân tích một số vấn đề trong việc vận dụng quan niệm MácLênin vào xây dựng và nâng cao đời sống đạo đức cho cá nhân và xã hội ở
nước ta trong điều kiện hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn có cơ sở lý luận là quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tất yếu và tự
do, vấn đề đạo đức. Luận văn cũng dựa trên quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam trong một số văn kiện tiêu biểu về con đường phát triển đất nước,
về xây dựng con người mới, đạo đức mới.
12
Luận văn sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC
và CNDVLS; sử dụng một số phương pháp cụ thể như phân tích, so sánh, hệ
thống, tổng hợp, v..v… Luận văn cũng bước đầu sử dụng phương pháp kết
hợp triết học với tâm lý học để giải quyết nhiệm vụ đặt ra do đặc thù của hiện
tượng đạo đức.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề đạo đức. Vấn đề đạo đức
được soi chiếu, giới hạn qua lăng kính của quan niệm Mác-Lênin về tất yếu
và tự do là phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Trong di sản tư tưởng đồ sộ của Mác, Ăngghen, Lênin, luận văn chỉ tập
trung tìm hiểu một số tác phẩm tiêu biểu của các ông chứa đựng quan niệm
liên quan đến vấn đề đạo đức, vấn đề tất yếu và tự do trong đạo đức.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn cố gắng bước đầu trình bày có hệ thống quan điểm khoa học
về mối quan hệ giữa tất yếu và tự do trong đạo đức nhằm khẳng định xu thế
chung của sự phát triển đạo đức, đó là việc tất yếu tồn tại của một kiểu đạo
đức mới thực sự nhân đạo được thiết lập, xây dựng trong thực tiễn lịch sử thế
giới và Việt Nam hôm nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
13
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
VỀ TẤT YẾU VÀ TỰ DO TRONG ĐẠO ĐỨC
1.1
Quan niệm về tất yếu và tự do trong đạo đức
1.1.1 Quan niệm về tất yếu và tất yếu trong đạo đức
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [25,tr.8]. Có
hai ý nghĩa từ quan điểm này: một là, khẳng định nguồn gốc khách quan và
tất yếu của đạo đức, đạo đức nảy sinh trên cơ sở thực tiễn xã hội, với trình độ
xã hội nhất định sẽ tương ứng có nền đạo đức đặc trưng của nó. Xem xét đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội nghĩa là đề cập đến khía cạnh nhận thức
luận, đến tính nhân quả của đạo đức, nó cho phép tiếp cận đạo đức trên quan
điểm phản ánh, quan điểm quyết định luận duy vật, thừa nhận đạo đức là cái
phản ánh tồn tại xã hội ; hai là, khẳng định đạo đức là một phương thức điều
chỉnh hành vi con người thông qua hệ thống các quy tắc và chuẩn mực đạo
đức. Do đó, dưới góc độ đạo đức cá nhân, quan điểm trên cho phép vạch ra cơ
sở để lên án những hành vi vô luân cũng như khẳng định việc chủ thể đạo
14
đức phải chịu trách nhiệm trước hành vi của mình. Với ý nghĩa thứ hai, đạo
đức vừa là một phương thức, vừa như một phưong tiện điều chỉnh hành vi.
Như vậy, hướng tiếp cận đạo đức khả dĩ nhất sẽ là quan điểm xem đạo
đức vừa là một hình thái ý thức, đồng thời là một hình thái thực tiễn, nghĩa là
xem đạo đức học thực sự là một khoa học về đạo đức. Triết học thực tiễn về
đạo đức không chủ trương coi đạo đức là đối tượng nghiên cứu của nhận thức
luận đạo đức, càng không phải của xã hội học đạo đức. Yêu cầu khảo sát đạo
đức như một hiện tượng xã hội đa dạng là đòi hỏi tất yếu và đúng đắn, đạo
đức ở đây là đời sống đạo đức, là hiện thực đạo đức, là đạo đức đang vận
động, đang “sống” cùng các lĩnh vực hoạt động vật chất và tinh thần khác của
đời sống xã hội.
Chúng ta biết rằng, tất yếu là những mối liên hệ bản chất, do nguyên
nhân cơ bản bên trong của sự vật quyết định, tất yếu mang tính quy luật, tính
không tránh khỏi, trong những điều kiện nhất định thì phải xảy ra đúng như
thế chứ không thể khác. Tất yếu phản ánh khuynh hướng vận động và phát
triển nội tại của hiện thực, tất yếu nói lên sự cưỡng bức từ bên trong. Về bản
chất, tất yếu mang ý nghĩa bắt buộc nhưng khi tất yếu là tất yếu - tự do thì ý
nghĩa áp đặt không còn mà trở thành cái đối lập với nó - tự do. Sự nối dài đến
tự do khiến tất yếu tồn tại như một “mâu thuẫn”. Ở đây mâu thuẫn của tất
yếu thật sự là một mâu thuẫn triết học bởi vì phát triển cũng chính là quá trình
giải quyết cái tất yếu. Tất yếu mang tính chất khách quan và phổ biến
[39,tr.86], nó tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào ý thức con người, ngược lại,
con người phải tuân theo cái khách quan đó; tất yếu tồn tại trong giới tự nhiên
và trong xã hội loài người.
Tất yếu trong giới tự nhiên được biểu hiện chủ yếu thông qua các quy
luật tự nhiên khách quan. Tính khách quan tất yếu của giới tự nhiên là tự thân,
nội tại, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
15
phán, Lênin vạch rõ: thế giới là một sự vận động có quy luật của vật chất,
nhận thức của chúng ta - sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên - chỉ có thể
phản ánh tính quy luật đó mà thôi. Quan niệm về tất yếu trong tự nhiên của
triết học Mác - Lênin đã khẳng định tính quy luật, tính thống nhất vật chất
cũng như tính đa dạng phong phú của giới tự nhiên bên ngoài. Tuy nhiên, thế
giới tự nhiên không chỉ là giới tự nhiên bên ngoài mà còn bao hàm trong đó
cả con người, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng con người là một bộ
phận của tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, thế giới là
chỉnh thể thống nhất con người - tự nhiên, con người sống bằng giới tự nhiên,
quan hệ giữa con người với tự nhiên – xét đến cùng – chính là quan hệ giữa
giới tự nhiên với giới tự nhiên mà thôi..
Con người là một phần của tự nhiên, sự tồn tại của con người cũng tất
yếu khách quan như sự tồn tại của tự nhiên, vì thế những mối quan hệ, những
lĩnh vực liên quan đến con người, đến cách thức tổ chức xã hội của con người
cũng tất yếu khách quan, trong phạm vi này ta gọi đó là tất yếu xã hội, tức là
tất yếu trong xã hội loài người. Quan điểm biện chứng duy vật không tách rời
quan hệ giữa xã hội với tự nhiên.
Tất yếu xã hội khẳng định sự phát triển khách quan có quy luật của đời
sống xã hội mà ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người không thay đổi
được, mỗi một thời kỳ lịch sử đều có quy luật riêng của nó... khi cuộc sống đã
vượt qua một thời kì phát triển nhất định thì nó cũng bắt đầu bị những quy
luật khác chi phối.
Tất yếu xã hội khẳng định sự phát triển tất yếu của sản xuất vật chất xã
hội, nó biểu hiện ở sự thay thế của các phương thức sản xuất xuất phát từ các
cuộc cách mạng xã hội rộng lớn mà yếu tố quyết định là lực lượng sản xuất
“Để khỏi bị mất kết quả đã đạt được, … con người buộc phải thay đổi tất cả
những hình thức xã hội đã kế thừa vào thời điểm mà phương thức quan hệ của
16
con người không còn phù hợp với các lực lượng sản xuất đã có được… Cùng
với việc có được lực lượng sản xuất mới, con người cũng thay đổi phương
thức sản xuất của mình và cùng với phương thức sản xuất thì họ cũng thay đổi
tất cả các quan hệ kinh tế đã từng là những quan hệ tất yếu đối với phương
thức sản xuất nhất định đã tồn tại”[55, tr.658-659].
Tất yếu trong lĩnh vực đạo đức là một bộ phận của tất yếu xã hội bởi
đạo đức là một lĩnh vực của xã hội. Chúng ta đã biết, đời sống xã hội của con
người gồm bốn lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần. Tất yếu xã hội
tác động và thể hiện trong tất cả các lĩnh vực trên. Do đó, khi nói đến tất yếu
xã hội thì không chỉ là tất yếu kinh tế mà còn là tất yếu của lĩnh vực tinh thần,
triết học Mác - Lênin phản ánh mối quan hệ này trong quy luật về sự phụ
thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội. Theo đó, lịch sử phát triển và hoàn
thiện đạo đức tất yếu phụ thuộc vào trình độ phát triển thực tiễn và nhận thức
xã hội của con người. Đạo đức ra đời từ tồn tại xã hội, từ đời sống hiện thực
của con người, đạo đức là một hiện tượng tinh thần của xã hội cần được xem
xét trong mối quan hệ với đời sống vật chất, đạo đức không thể tách rời cuộc
sống. Đạo đức là kết quả của sự phát triển lịch sử đồng thời đạo đức cũng tác
động lại xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của xã hội đối với cá nhân ở khía cạnh
đạo đức. Đây là quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận, định hướng tư
tưởng cho việc tìm hiểu vấn đề tất yếu trong lĩnh vực đạo đức.
Tóm lại, tất yếu trong lĩnh vực đạo đức mang nghĩa rằng nguồn gốc,
quy luật, khuynh hướng vận động và phát triển khách quan của đạo đức xã hội
là do những nguyên nhân nội tại cơ bản của nó quyết định mà xét đến cùng,
chính phương thức sản xuất và trình độ phát triển của xã hội, tức là tồn tại xã
hội, là cội rễ bên trong quy định quá trình tồn tại của đạo đức một cách
không tránh khỏi. Nói cách khác, nghiên cứu vấn đề tất yếu trong lĩnh vực
đạo đức là sự chiếu nhìn đạo đức qua lăng kính cái tất yếu, nghĩa là dưới góc
17
độ cái quy định không thể thay thế hay phủ nhận của điều kiện kinh tế - xã hội
đối với đạo đức. Theo đó, nguồn gốc, bản chất và tính quy luật trong lịch sử
phát triển của đạo đức là những vấn đề then chốt có liên quan chặt chẽ với
vấn đề tất yếu trong lĩnh vực đạo đức.
Theo Mác và Ănghen, con người sống tức là hoạt động trong “mối
quan hệ song trùng”, con người không thể đơn độc tự mình thoả mãn nhu cầu
của mình chỉ bằng việc lao vào chinh phục tự nhiên. Chính từ và trong các
quan hệ cộng đồng này, đạo đức xuất hiện. Cụ thể, đó là các mối quan hệ
trong lao động và trong các hoạt động chung khác như bảo vệ cộng đồng,
phân chia thành quả lao động, duy trì nòi giống, …, trong đó lao động là yêu
cầu và hành động đầu tiên của con người nhằm duy trì sự sống, là cội nguồn
cơ bản và chân chính nhất của mọi giá trị đạo đức.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc của đạo đức khẳng
định một quan điểm khoa học về bản chất đạo đức. Tồn tại xã hội là nguyên
nhân đầu tiên ra đời đạo đức nhưng tồn tại xã hội không chỉ là cái hích đầu
tiên, tồn tại xã hội tác động thường xuyên, liên tục đến đạo đức tạo nên bản
chất xã hội của đạo đức. Đạo đức hiện thân cho những giá trị cao đẹp trong
đời sống con người, trong mối quan hệ cá nhân với xã hội, nó là sản phẩm của
tất yếu lịch sử. Ở đây, tính tất yếu liên quan đến tính xã hội của bản chất đạo
đức.
Bản chất xã hội và sự hoàn thiện bản chất xã hội của đạo đức được hiểu
theo nghĩa cả nội dung và hình thức đạo đức đều được quy định bởi trình độ
phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người. Bản
chất đạo đức không phải có sẵn, tiên thiên, tiền định, nếu không có con người
và hoạt động tổ chức xã hội loài người thì không thể có đạo đức. Đạo đức
không phải cái bất biến, đạo đức phát triển theo quy luật của nó, thể hiện ra ở
xu hướng ngày càng tiến bộ và không ngừng sáng tạo ra những giá trị mới. Hệ
18
các giá trị đạo đức là biểu hiện rõ nét nội dung đạo đức. Hình thức đạo đức là
các chuẩn mực, phạm trù đạo đức, nhất là các phạm trù đạo đức học; hình
thức đạo đức của xã hội văn minh đã phát triển hơn nhiều do nhận thức loài
người đã vượt khỏi tư duy cụ thể, hình thành tư duy lý luận, tư duy bằng khái
niệm, phạm trù, quy luật, nguyên tắc đạo đức. Tính tất yếu của tồn tại xã hội
quyết định bản chất xã hội của đạo đức được phản ánh thống nhất trong tính
thời đại, tính giai cấp, tính dân tộc mà Ănghen đã chỉ ra và luận chứng.
Chỉ con người mới có đạo đức bởi đạo đức xuất hiện trong mối quan hệ
người - người trong quá trình hoạt động, hiện thực đạo đức là cái phản ánh
hiện thực khách quan ở khía cạnh đạo đức. Trong khi đó, các nhà duy tâm,
các nhà thần học nhìn nhận đạo đức không phải cái phản ánh xã hội mà đạo
đức là sản phẩm của lực lượng siêu nhiên, không thuộc về xã hội, cái tất yếu
quy định đạo đức là một bản thể tuyệt đối, đó là thượng đế, là ý niệm tuyệt
đối. Tất yếu trong tôn giáo không phải là tất yếu của bản thân sự vật, hiện
tượng; còn tự do đạo đức chính là sự toàn tâm hướng đến Chúa, niềm tin tôn
giáo là cái đầu tiên và cũng là cái cuối cùng của toàn bộ khát vọng đạo đức
của con người. Do đó, Ănghen luôn khẳng định đạo đức là một lĩnh vực thuộc
về con người, thuộc về lịch sử loài người.
Lênin đã vạch rõ tính tất yếu không thể tách rời cái phổ biến. Do vậy,
tính nhân loại của đạo đức biểu hiện “mẫu số chung” của tính người, con
người tự do lựa chọn chuẩn mực đạo đức và tự nguyện hành động theo chuẩn
mực đó. Lênin nhấn mạnh tính nhân loại chính là quy tắc sơ thiểu của con
người, nếu nó không được thực hiện thì xã hội sẽ rối loạn. Những quy tắc sơ
đẳng, đơn giản, cơ bản của mọi sự chung sống giữa người và người đã được
“nhắc đi nhắc lại từ nhiều thiên niên kỷ trong tất cả các lời dạy bảo đạo lý”.
Những giá trị nhân bản chung là cái tất yếu tồn tại chừng nào con người còn
có quan hệ qua lại với nhau và với tự nhiên, tức là còn hoạt động lao động sản
19
xuất, ngay cả khi xã hội không còn đối kháng giai cấp, những giá trị này vẫn
không mất đi, ngược lại, càng được củng cố, tăng cường. Giáo sư Trần Đức
Thảo trong cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người
cho rằng bất kỳ người nào trước hết cũng là một con người, không ai có thể
tước đoạt danh nghĩa ấy của người khác. Tính giai cấp, bản chất giai cấp là
bản chất hàng đầu, bản chất con người là hàng thứ hai, tiếp sau nữa là bản
chất sinh vật, bản chất lý hoá… Do vậy, cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp tư sản
thống trị không đơn giản chỉ xuất phát từ những lợi ích giai cấp, lợi ích chính
trị mà trong động cơ đấu tranh cách mạng đó còn có những giá trị tinh thần
xuất phát từ tính người, từ những đòi hỏi về công bằng, tự do, chính nghĩa, về
lòng tự trọng, vị tha, tình cảm yêu thương, hướng thiện, ….
Tính nhân loại, những quy tắc đạo đức phổ biến trong quan điểm của
triết học Mác - Lênin hoàn toàn không giống tính loài mà các nhà sinh vật học
về đạo đức quan niệm. Học thuyết của Đác-uyn về sự tiến hoá đã cho phép
giải thích khoa học về nguồn gốc con người, theo đó, con người là sản phẩm
của tự nhiên, phần tự nhiên trong con người tuân theo những quy luật của sinh
học. Những người theo thuyết Đác-uyn xã hội lại tuyệt đối hoá yếu tố bản
năng sinh vật đó và giải quyết những hiện tượng đạo đức của con người xuất
phát từ bản năng bầy đàn của động vật. Họ không thấy sự khác nhau về bản
chất giữa hành động đạo đức có động cơ tự nguyện cao cả với những hành
động bản năng theo cơ chế tự nhiên của hệ thần kinh sinh vật. Trong quan
niệm này, “tính nhân loại” của đạo đức được quy về tính loài sinh học - một
tính di truyền không tuân theo quy luật xã hội, chỉ dựa vào quy luật tự nhiên quy luật chọn lọc và thích nghi. Thậm chí, họ còn cho rằng tính loài sinh vật
là tính thứ nhất và cần thiết một đòi hỏi cao hơn, chẳng hạn B.Skinner, người
theo chủ nghĩa hành vi hiện đại, xem xét vấn đề con người và đạo đức từ lập
20
- Xem thêm -