ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRIỆU THỊ XUYẾN
QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ TƢ TƢỞNG
VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ PHẬT GIÁO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRIỆU THỊ XUYẾN
QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ TƢ TƢỞNG
VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ PHẬT GIÁO
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hoà Hới
HÀ NỘI - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2.Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 3
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 8
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 8
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..................................................... 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .......................................................................... 9
7.Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH
THÀNH QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT
SỐ NHÀ TƢ TƢỞNG TIÊU BIỂU) ............................................................ 10
1.1. Hoàn cảnh, lịch sử - xã hội cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo
đầu thế kỷ XX ............................................................................................................. 10
1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới và khu vực cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX .................................................................................................................... 10
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. .......... 15
1.2. Tiền đề hình thành quan niệm về Phật giáo ở các nhà tƣ tƣởng Việt Nam
đầu thế kỷ XX ............................................................................................................. 24
1.2.1. Tư tưởng khoan dung và nhập thế của Phật giáo Việt Nam truyền thống.... 24
1.2.2. Tư tưởng khai sáng và Mác xít về Tôn giáo ......................................... 28
1.2.3. Vài nét khái quát về phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX.......................................................................................................... 32
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO CỦA MỘT SỐ
NHÀ TƢ TƢỞNG VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX................................... 39
2.1. Quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáo....................................... 39
2.1.1. Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội Châu .................. 39
2.1.2 Một số nội dung trong quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáo .............. 43
2.2 Quan niệm của Huỳnh Thúc Kháng về Phật giáo ............................... 56
2.2.1 Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Huỳnh Thúc
Kháng ........................................................................................................................... 56
2.2.2 Một số nội dung trong quan niệm của Huỳnh Thúc Kháng về Phật giáo..... 60
2.3 Quan niệm của Nguyễn An Ninh về Phật giáo .......................................... 66
2.3.1 Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn An Ninh ............. 66
2.3.2 Một số nội dung trong quan niệm của Nguyễn An Ninh về Phật giáo ............ 70
2.4 Giá trị và hạn chế của những quan niệm của các nhà tƣ tƣởng Việt
Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo ................................................................. 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 90
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử các bước chuyển về tư tưởng của mỗi quốc gia, dân tộc bao giờ
cũng phản ánh sát tiến trình hình thành và phát triển của xã hội ấy. Dựa trên
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định và gắn liền với tên tuổi
của các nhà tư tưởng tiêu biểu của các quốc gia dân tộc ấy, thể hiện sự chuyển
biến của các nội dung tư tưởng qua từng giai đoạn. Phật giáo là một tôn giáo
bên ngoài đã du nhập và hội nhập với văn hóa Việt Nam. Việt Nam là một
dân tộc văn hiến, đã viết lên biết bao trang sử hào hùng trong sự nghiệp chống
xâm lăng, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước, nhưng
cũng phải trải qua không biết bao nhiêu những giai đoạn thăng trầm, thịnh
suy, gắn liền với các bước chuyển mang tính bước ngoặt. Tư tưởng về Phật
giáo gắn với số phận dân tộc nên cũng trải qua các giai đoạn thăng trầm như
vậy. Bước ngoặt trong quan niệm, tư tưởng về Phật giáo đầu thế kỷ XX có ý
nghĩa rất quan trọng rất cần được tìm hiểu sâu.
Có thể nói, bước chuyển tư tưởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX là sự phản ánh bước chuyển mới của điều kiện tồn tại xã hội,
kinh tế, chính trị, văn hóa Việt Nam, nội dung của nó mang tính đặc trưng cho
bước chuyển yêu cầu thực tiễn xã hội và tư duy con người Việt Nam thời kỳ
này. Nhưng đồng thời nó cũng là kết quả phản ánh tích cực của hiện thực
logic phát triển của lịch sử tư tưởng trước nó, đến lượt nó lại là động lực góp
phần thúc đẩy phát triển cho lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
Trong khoảng đầu thế kỷ XX lịch sử Việt Nam cận hiện đại này, các bước
chuyển về tư tưởng được thực hiện bởi hai thế hệ: các nhà nho Duy tân và các
nhà trí thức Tân học yêu nước, mà cả cuộc đời và sự nghiệp của họ luôn
hướng về mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Chính
nhờ nỗ lực của họ đạt được các bước chuyển tư tưởng nhận thức lịch sử đó
trong đó có lịch sử Phật giáo mà dòng chảy của lịch sử tư tưởng Việt Nam
1
luôn được bổ sung những màu sắc mới về nội dung và phong phú về hình
thức, theo hướng tích cực, tiến bộ. Trong bước chuyển tư tưởng từ truyền
thống đến hiện đại có một nội dung phong phú của các nhà tư tưởng là các trí
thức yêu nước Việt Nam đó là quan niệm về Phật giáo cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, thể hiện tập trung qua một số nhân vật tiêu biểu như: Phan Bội
Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh… Tư tưởng của họ về Phật giáo
có một nội dung mới mẻ, khá nhạy cảm và tinh tế thể hiện sự chuyển biến
trong nhận thức của các ông về lĩnh vực tôn giáo nói chung, về Phật Giáo nói
riêng. Chủ đề đó trước đây điều kiện chưa cho phép nên còn ít được chú ý.
Chúng tôi thấy rằng trong các công trình trước đây, các nội dung tư tưởng
quan niệm về Phật giáo đó có vai trò quan trọng. Những thành quả nhận thức
đó góp phần làm giàu tư tưởng, là cầu nối cho sự truyền bá và phát triển thắng
lợi của tư tưởng cách mạng vào Việt Nam giai đoạn tiếp theo, vì vậy rất cần
được tiếp tục đi sâu làm rõ.
Điểm cần lưu ý trong di sản để lại của các nhà tư tưởng tiêu biểu như:
Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, chủ đề tư tưởng chủ
yếu đều xuất phát từ yêu cầu bức thiết phải xây dựng đường lối giải phóng
dân tộc, với tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc và sự khao khát nền độc
lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân, từ đó, họ đã trở lại tiếp thu những
thành quả tư tưởng về Phật giáo trong giai đoạn trước và mở rộng hơn, tiếp
thu các yếu tố tư tưởng khai sáng mới mẻ về lĩnh vực tôn giáo nói chung, của
Phật giáo nói riêng…Mặt khác, do sự chuyển biến mạnh mẽ của thời cuộc,
của tôn giáo Việt Nam cùng với sự tác động của những luồng tư tưởng mới lạ
của khu vực và trên thế giới, hòa chung bối cảnh sự du nhập và ra đời của
nhiều tôn giáo có mang yếu tố Phật giáo, nhưng đã có sự pha trộn, phối hợp
khác trước với các yếu tố mới như Cao Đài, Hòa Hảo và những tôn giáo mới
khác. Chúng đã làm nên cơ sở để các ông đưa ra những quan niệm về tôn giáo
nói chung, Phật giáo nói riêng. Trong các quan niệm này của các nhà tư tưởng
2
vẫn còn có những biểu hiện ảnh hưởng pha tạp theo nhiều xu trào khác nhau.
Trước thực trạng đó, nảy sinh yêu cầu xuất hiện các phong trào chấn hưng
Phật giáo ở nhiều nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản…và làm nảy sinh công
cuộc chấn hưng Phật giáo khắp cả ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam với
mong muốn làm thay đổi diện mạo vai trò Phật giáo nước nhà. Đó là cơ sở
xuất hiện quan niệm của các nhà tư tưởng Việt Nam về Phật giáo đáp ứng
phần nào yêu cầu xã hội, yêu cầu chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã trở thành
một yêu cầu bức thiết. Tuy nhiên, cho tới nay những nghiên cứu hệ thống về
vấn đề này còn chưa tương xứng. Trong số các nhà tư tưởng Việt Nam có các
quan niệm về tôn giáo nói chung và về Phật giáo nói riêng cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX tiêu biểu nhất phải nhắc tới: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc
Kháng, Nguyễn An Ninh…là các nhà tư tưởng rất tiêu biểu đánh dấu bước
chuyển rất quan trọng trong giai đoạn này. Nghiên cứu quá trình chuyển biến
quan niệm của các nhà trí thức đó về Phật giáo trong thời kỳ này có những nội
dung, có những bài học ý nghĩa quan trọng, nhằm làm đầy đủ hơn hiểu biết về
bước chuyển lịch sử tư tưởng Việt Nam. Vì những lý do như vậy chúng tôi
lựa chọn tìm hiểu vấn đề: “Quan niệm của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu
thế kỷ XX về Phật giáo” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
Cho tới nay đã có nhiều bộ sách khá dày dặn viết về lịch sử tư tưởng
Việt Nam thời cận đại trong đó ít nhiều đã ghi nhận vị trí và nội dung quan
trọng của tư tưởng của các nhà trí thức Nho học Duy tân và Tây học về nhiều
lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…Tuy nhiên, điểm lại cho tới
nay, đặc biệt là các công trình nghiên cứu tập trung về quan niệm của các nhà
trí thức đó về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng cũng đã có trực tiếp
hay gián tiếp tuy còn chưa nhiều, chưa đầy đủ. Vì muốn làm đầy đủ thêm diện
mạo nội dung tư tưởng của họ nhất là những quan niệm về Phật giáo của các
nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này, nên trong luận văn của mình, chúng tôi cố
3
gắng gạn đục khơi trong, tìm hiểu từ các nguồn tư liệu văn học, sử học, báo
chí học… để tiếp tục kế thừa đi sâu lý giải hệ thống hóa về các điều kiện, tiền
đề cho tiến trình biến đổi, phát triển trong nhận thức của họ cũng như một số
nội dung cơ bản trong quan niệm của các nhà tư tưởng Việt Nam giai đoạn
cận hiện đại về lĩnh vực Phật giáo.
Có thể nói rằng, việc đi vào nghiên cứu chủ đề: “Quan niệm của một số
nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo”, chúng tôi không phải là
người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này. Trong bước đầu tìm hiểu tư liệu, chúng
tôi nhận thấy vấn đề này ít nhiều trực tiếp và gián tiếp đã được đề cập đến trong
các bộ Lịch sử tư tưởng Việt Nam, công trình nghiên cứu chung về quá trình
chuyển biến tư tưởng các nhà tư tưởng trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Qua các công trình đó có sự lý giải có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
tới sự hình thành và một số nội dung tư tưởng về Phật giáo thời kỳ này. Nhưng
nhìn chung, chưa đầy đủ và hệ thống chúng tôi thống kê và phân loại thấy có
thể chia các công trình chính đó thành ba nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu từ góc độ khoa học lịch
sử. Trong các công trình đó có nhắc tới bước chuyển tư tưởng chung từ tư
tưởng trung đại sang cận đại thời kỳ này trong tổng thể giai đoạn lịch sử cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX một số tiêu biểu nhất đó là tác phẩm: Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1988) của tác giả Nguyễn Tài
Thư; Việt Nam Phật giáo sử luận, (Nhà xuất bản Văn học,1994) của tác giả
Nguyễn Lang; Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam (Từ thế kỉ XIX đến cách
mạng tháng Tám), (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997) của tác
giá Trần Văn Giàu. Trực tiếp chủ yếu nghiên cứu về sự chuyển biến, bước
phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam trong giai đoạn này còn có công
trình: Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, (Nhà
xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của tập thể tác giả do Trương
Văn Chung, Doãn Chính đồng chủ biên; Đại cương lịch sử Việt Nam, Toàn
4
tập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2005 của Trương Hữu Quýnh, Đinh
Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên); Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội, 2006 của Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên); Quá trình
chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua
các nhân vật tiêu biểu (Nhà chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007) của tác giả
Doãn Chính và Phạm Đào Thịnh đồng chủ biên. Bên cạnh đó còn có công
trình nghiên cứu: Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981), (Nhà xuất
bản Văn học, 2012) của tác giả Bồ đề Tân Thanh – Nguyễn Đại Đồng. Và
công trình nghiên cứu gần đây: Quá trình chuyển biến tư tưởng của Nho sĩ
Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia – sự
thật 2012) của Trần Thị Hạnh; Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ
dựng nước đến đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội,
2013) của tập thể tác giá do Doãn Chính chủ biên;
Nhóm thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu cụ thể về từng nhà tư
tưởng, về từng nội dung tư tưởng của họ, tư tưởng đó liên quan đến tư tưởng
của họ về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Đáng chú ý trong đó nổi bật
có các công trình như: Nguyễn An Ninh dấu ấn để lại (Nhà xuất bản Văn học,
1996) của Lê Minh Quốc; Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997) của tập thể tác giả
Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, do Đinh Xuân Lâm (chủ biên);
Phan Bội Châu về một số vấn đề văn hóa – xã hội - chính trị (Nhà xuất bản
Thuận Hóa, Huế, 2000) của Chương Thâu; Tôn giáo trong mối quan hệ văn
hóa và phát triển ở Việt Nam, (Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội,
2004) của tác giả Nguyễn Hồng Dương; Nghiên cứu Phan Bội Châu (Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Tư tưởng triết học và chính trị
của Phan Bội Châu (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) của
Nguyễn Văn Hòa; Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn (Nhà xuất bản
văn học, Hà Nội, 2006) của Nguyễn Q.Thắng; Phan Bội Châu trong dòng
5
thời đại (Bình luận và hồi ức) (Nhà xuất bản Nghệ An, 2007); Nghiên cứu tôn
giáo - Nhân vật và sự kiện, (Nhà xuất bản Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh, 2009) của tác giả Đỗ Quang Hưng; Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX nhân
vật và sự kiện, (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013) của Lê Tâm
Đắc – Nguyễn Đại Đồng … Nhìn chung trong các công trình này đã khảo
cứu về các cuộc đời, sự nghiệp nhân vật Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng vv… đã được các nhà nghiên cứu đề cập dưới nhiều góc
độ như cuộc đời, di khảo tư tưởng, giá trị lịch sử của tư tưởng chính trị - xã
hội. Trong đó các nhà nghiên cứu tập trung hệ thống hóa tư tưởng chính trị,
xã hội, đi sâu phân tích những quan điểm tiến bộ, tinh thần sáng tạo đi tìm
con đường cứu nước giải phóng dân tộc, nêu lên những hạn chế, những bài
học lịch sử trong tư tưởng đối với cách mạng Việt Nam. Điểm cần quan tâm
là các sách chỉ mới dừng lại ở nhận định chung khi nói về quan niệm của họ
về Phật giáo đầu thế kỷ XX.
Nhóm thứ ba, đó là các công trình tiếp cận từ góc độ lịch sử tư tưởng
nghiên cứu tư tưởng về tôn giáo trong các nhà tư tưởng nói trên, nghiên cứu
đánh giá từng mặt, từng nội dung và giá trị lịch sử của các nhà tư tưởng cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong trong các luận văn, luận án và trong các tạp
chí như tạp chí Triết học, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo. Thêm vào đó có các
luận án, luận văn trong đó tìm hiểu về tư tưởng về tôn giáo ở Phan Bội Châu,
Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh có các công trình sau: Luận văn Thạc
sĩ chuyên ngành Triết học của Nguyễn Khắc Sâm, với đề tài: Tìm hiểu tư
tưởng của Phan Bội Châu về tôn giáo, tín ngưỡng. Trong luận văn này đã
bước đầu hệ thống hóa và phân tích những nội dung tư tưởng về tôn giáo, tín
ngưỡng nói chúng của Phan Bội Châu, phân tích ý nghĩa, hạn chế của những
tư tưởng đó với tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam; Luận văn
Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Triết học của Trần Thị Hạnh, với tên đề tài:
Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng; Trong đó có gián tiếp nêu tư
6
tưởng về Phật giáo của ông. Luận văn Thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mận, với
đề tài là: Tư tưởng Nguyễn An Ninh về văn hóa, chính trị, tôn giáo. Trong
chương 2 mục 2.3 tác giả đã trình bày một số nét tư tưởng của Nguyễn An
Ninh về tôn giáo nói chung và quan niệm Phật giáo nói riêng.
Ngoài ra còn thêm các bài báo đăng ở các tạp chí, đáng chú ý có các
công trình sau: Phan Bội Châu với công cuộc vận động đồng bào Thiên chúa
giáo ở đầu thế kỷ XX, của tác giả Đặng Huy Vận, đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử (số 104- 1967); Bài Nguyễn An Ninh trong tiến trình tư tưởng
Việt Nam, của tác giả Lê Sỹ Thắng đăng trên tạp chí Triết học (số 1 – 1991);
Tìm hiểu về Phan Bội Châu và vấn đề đoàn kết lương giáo chống Pháp đầu
thế kỷ XX, của tác giả Phạm Hồng Tung đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử
(số 6-1999); tác giả Lê Ngọc Thông có bài viết Quan niệm của Phan Bội
Châu về tôn giáo, đăng trên tạp chí nghiên cứu tôn giáo (số 1- 2001); Nguyễn
An Ninh và tôn giáo, của tác giả Đỗ Quang Hưng đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo (số 11- 2003); Tìm hiểu sự tiếp nhận tư tưởng Mácxit về tôn
giáo của Nguyễn An Ninh qua tác phẩm “Phê Bình Phật Giáo” của tác giả
Đỗ Thị Hòa Hới đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 1 – 2004); Tư
tưởng Phan Bội Châu về Phật giáo thời kỳ ở Huế,của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới
và Nguyễn Khắc Sâm đăng trên tạp chí Khuông Việt (số 7 – 2009) trong đó
đề cập đến tư tưởng của ông về Phật giáo; Bài Quan niệm của Phan Bội Châu
về giá trị của Phật giáo của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới đăng trong sách Kỷ yếu
Hội thảo Khoa học về giá trị của các tôn giáo, nhà xuất bản Viện nghiên cứu
Tôn giáo, Hà Nội, 2016.
Tóm lại, nhìn chung tuy đã có bức tranh tổng quan chung qua các bộ sử
lớn nhỏ, những công trình nghiên cứu chung về tư tưởng của Phan Bội Châu,
Huỳnh Thúc Kháng và Nguyễn An Ninh, song có lẽ đến nay vẫn còn ít có
công trình nào đi sâu trình bày, phân tích một cách hệ thống chủ đề: “Quan
niệm của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo” nên
7
trong luận văn chúng tôi lựa chọn kế thừa và đi sâu nghiên cứu vấn đề đó. Nhờ
có kế thừa và tiếp thu kết quả của những người đi trước, trong giới hạn khuôn
khổ của luận văn thạc sĩ triết học này, chúng tôi hy vọng sẽ cố gắng tiếp cận từ
góc độ chuyên ngành triết học và kết hợp cách tiếp cận liên ngành: Triết học
văn hóa, triết học giá trị nhằm làm rõ lý giải thêm về điều kiện, tiền đề, một số
đóng góp nội dung tư tưởng về Phật giáo đầu thế kỷ XX qua một số nhà tư
tưởng tiêu biểu, những nội dung đó mà đến nay nếu biết chắt lọc, chúng ta có
thể rút ra được những giá trị, bài học bổ ích cho sự nghiệp đổi mới.
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quan niệm về Phật giáo nửa đầu thế
kỷ XX, qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn An Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những cơ sở điều
kiện, tiền đề, nội dung quan niệm về Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX qua một số
nhà tư tưởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An
Ninh, thể hiện qua cuộc đời và thơ văn của họ.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tiếp cận từ góc độ triết học luận văn chú ý hệ
thống hóa, phân tích làm rõ cơ sở hình thành và nội dung quan niệm của một số
nhà tư tưởng về Phật giáo đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn An Ninh. Để thực hiện mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ:
Có ba nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội khách quan, chủ quan và
các tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX,
qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn An Ninh.
- Hệ thống hóa làm rõ những nội dung quan niệm về Phật giáo đầu thế
kỷ XX, qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc
Kháng, Nguyễn An Ninh.
8
- Phân tích chỉ ra một số giá trị và hạn chế trong nội dung quan niệm về
Phật giáo của một số nhà tư tưởng đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Huỳnh
Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh cho tiến trình lịch sử dân tộc nói chung, lịch
sử Phật giáo nói riêng.
5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng những
quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa ý thức xã
hội và tồn tại xã hội con người, và vai trò của mối quan hệ biện chứng giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu thống
nhất logic và lịch sử, thống nhất phân tích và tổng hợp, ngoài ra còn sử dụng
phương pháp liên ngành như triết học văn hóa, triết học tôn giáo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp thêm vào việc nhận thức
đầy đủ hơn các tiền đề, tư tưởng và khía cạnh nội dung lịch sử tư tưởng về tôn
giáo, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo
cho những ai quan tâm nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam giai đoạn lịch
sử này
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm có hai chương, sáu tiết.
9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH
THÀNH QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT
SỐ NHÀ TƢ TƢỞNG TIÊU BIỂU)
1.1. Hoàn cảnh, lịch sử - xã hội cho sự hình thành quan niệm về
Phật giáo đầu thế kỷ XX
1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới và khu vực cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới có nhiều chuyển biến to lớn
chuẩn bị cho một bước ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại, đó là:
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc
quyền – chủ nghĩa đế quốc, mở rộng thị trường, xâm lược các nước khu vực
châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh; công cuộc duy tân của Nhật Bản, cuộc vận
động cải cách ở Trung Quốc dẫn đến cách mạng Tân Hợi năm (1911)…
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã phát triển mạnh
mẽ chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước tư bản phát
triển đã làm tăng thêm nhu cầu tìm kiếm thuộc địa để cung cấp nguyên liệu và
thị trường tiêu thụ hàng hóa. Để mở rộng thị trường chủ nghĩa tư bản đã tiến
hành xâm lược các nước phương Đông, do đó tạo nên sự biến đổi to lớn tác
động trực tiếp đến đời sống xã hội mọi mặt của Việt Nam và khu vực.
Về kinh tế, chủ nghĩa tư bản tạo ra lực lượng sản xuất lớn, làm cho diện
mạo của đời sống xã hội phương Tây và thế giới thay đổi. Do sự phát triển
không đồng đều của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế
những năm 1900 – 1903 , sau đó là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tiếp
đến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1930. Chính thực trạng đó đã đòi hỏi các
nước tư bản phải mở rộng thị trường bằng cách xâm lược và áp bức các dân
tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam ngày một ngặt nghèo.
10
Về chính trị tại chính quốc vào năm 1789, giai cấp tư sản Pháp thực
hiện cuộc cách mạng xã hội triệt để lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ
tư bản chủ nghĩa. Từ đây tạo nên bước chuyển từ chế độ quân chủ sang dân
chủ, từ quân quyền sang pháp quyền. Nhờ đó, đã tạo ra sự phát triển nhanh
chóng của giai cấp công nhân, đặc biệt ở các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nga.
Đội ngũ công nhân ở các nước này tăng lên hàng triệu người, trở thành lực
lượng xã hội rất quan trọng. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn cơ bản
nhất là giữa tư sản và vô sản. Sau thất bại của Công xã Pari (năm 1871) phong
trào công nhân tiếp tục được củng cố, tập hợp lực lượng và được sự dẫn dắt
bởi chủ nghĩa Mác. Sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa Mác, giúp phong
trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhiều tổ chức Đảng Vô sản,
Đảng Xã hội theo xu hướng tiến bộ cách mạng ra đời, nhằm tổ chức và lãnh
đạo phong trào công nhân chống lại chủ nghĩa tư bản. Cho nên, khi các nước
tư bản mở rộng xâm lược các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, thì
cùng với sự su nhập của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tiếp theo những năm 20
của thế kỷ XX là sự du nhập các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản và vô sản
vào nước ta tạo ra sự chuyển biến hệ tư tưởng từ hệ tư tưởng truyền thống có
tính chất chế độ quân chủ sang hệ tư tưởng có tính chất Dân chủ tư sản, xây
dựng đường lối cứu nước theo hướng Dân chủ tư sản, tiếp theo các nhà lãnh
đạo phong trào yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Nguyễn An Ninh sẽ bước đầu tiếp cận với tư tưởng Mácxít.
Về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giai đoạn này là thời kỳ Tây Âu nở rộ
nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật, ở các nước tư bản phát triển, tạo điều kiện
cho con người nâng cao nhận thức duy lý, khoa học của con người, nâng cao
kiến thức hiểu biết về tự nhiên xã hội sâu sắc hơn, làm suy giảm vai trò của
tôn giáo.
Song, sự trớ trêu là do nhu cầu truyền đạo mà các đoàn truyền giáo đã
cấu kết với đoàn quân thực dân. Các cuộc xâm chiếm thuộc địa, tìm kiếm thị
11
trường châu Á đã đi cùng với việc truyền giáo được các nước Anh, Pháp, Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha tiến hành từ thế kỷ XVII, nhưng phải đến thế kỷ
XIX mới thực sự trở nên gay gắt. Đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nước châu
Á đều tự biến thành các nước thuộc địa và phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc
phương Tây. Duy chỉ có Nhật Bản là một nước châu Á thoát khỏi số phận là
nước thuộc địa, do Nhật Bản đã thực hiện thành công cuộc cải cách Minh Trị
năm 1868. Cho nên Nhật đã giữ vững được độc lập dân tộc, đưa đất nước phát
triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, và trở thành đế quốc Châu Á trẻ đánh bại
Nga, và đã chiếm Triều Tiên, Lưu Cầu và xâm lược Trung Quốc.
Ở Trung Quốc đến cuối thế kỷ XIX tuy có những nỗ lực duy tân nhưng
vẫn còn là một nước phong kiến với chế độ quân chủ, có nhiều nét giống Việt
Nam. Giai đoạn này Trung Quốc đứng trước nguy cơ bị thực dân xâm lược; các
lãnh địa của Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản mọc lên ở Trung Quốc. Từ năm (18391842), Anh mở cuộc chiến tranh tấn công Trung Quốc buộc triều đình Mãn
Thanh phải ký hòa ước Nam Kinh (29 – 8 – 1842) gồm bốn nội dung chính
chấp nhận mọi điều kiện do thực dân Anh đưa ra. Bên cạnh đó Anh xâm chiếm
Ba Tư, xâm chiếm Malayxia, Myanma, biến toàn bộ Ấn Độ thành thuộc địa,
thế lực của Anh ở châu Á vô cùng to lớn, đã nhiều lần o ép Thái Lan.
Theo sau đế quốc Anh, Mỹ buộc Trung Quốc ký hiệp ước Vọng Hạ
(7 – 1884) với mục đích chia sẻ thị trường tiêu thụ. Đế quốc Pháp buộc
Trung Quốc ký hiệp ước Hoàng Phố (10 – 1884), dành quyền tự do thương
mại truyền đạo, để mở đường xâm lược Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc
còn buộc phải ký nhiều điều ước bất bình đẳng với các nước tư bản khác
như Bỉ, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển… các hiệp ước đó đã đẩy Trung Quốc vào
tình trạng phụ thuộc, không giữ được chủ quyền toàn vẹn.
Tại khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia từ thế kỷ XVI đã bị Hà Lan thống
trị, Philippin thì bị Mỹ và Tây Ban Nha xâu xé, Xiêm (Thái Lan) thì bị biến
thành vùng đệm. Còn khu vực Đông Dương gồm Việt Nam, Lào và
Campuchia thì cuối thế kỷ XIX bị thực dân Pháp thôn tính.
12
Trước xu thế bành trướng xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây,
nhiệm vụ cấp bách nhất đối với các nước Châu Á là bằng mọi cách đấu tranh
để bảo vệ độc lập dân tộc. Ngay từ đầu các nước châu Á đã sớm nhận ra âm
mưu xâm lược của các nước xâm lược của các nước tư bản phương Tây thông
qua hoạt động ráo riết của các nhà buôn và các phái đoàn truyền giáo. Song
triều đình phong kiến bảo thủ, phương thức duy nhất để chống lại nguy cơ bị
thôn tính ở các nước Châu Á lúc này đều là kiên quyết thi hành chính sách
“bế quan tỏa cảng”, hòng ngăn chặn sự xâm lược của phương Tây. Tuy nhiên,
trước thời cuộc mới đó đây chỉ là biện pháp thụ động và lạc hậu. Thực tế giải
pháp này không đem lại kết cục tích cực, tốt đẹp. Mà chống lại sự xâm lược
của các nước tư bản phương Tây thì con đường tự cường canh tân, canh tân
để tự cường là hợp lý. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XIX ở Trung Quốc
đã xuất hiện phong trào “Dương Vụ Vận Động” do một số ít quan lại trong
triều đình Mãn Thanh khởi xướng với nội dung chủ yếu là vận động học tập
phương Tây nêu khẩu hiệu tự cường nhưng không được triều đình hưởng ứng.
Tiếp đó phong trào Mậu Tuất duy tân 1898 nổ ra với những đại biểu kiệt xuất
như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng… mở đường cho canh
tân mọi mặt nhất là chủ trương kinh tế phát triển chống lại sự bảo thủ, lạc hậu
của triều đình Mãn Thanh, chống lại sự can thiệp ngày càng sâu sắc của các
nước phương Tây, đỉnh cao của phong trào này là cuộc chính biến Mậu Tuất
(1898) do phái cấp tiến chủ trương được vua Quang Tự ủng hộ, cuộc chính
biến này chỉ kéo dài được 103 ngày thì thất bại. Đến cuối thế kỷ XIX, Trung
Quốc bị các nước đế quốc xâu xé tàn phá nặng nề. Năm 1901, triều đình Mãn
Thanh ký hiệp ước Thiên Tân với 8 nước phương Tây, từ đây Trung Quốc
chính thức trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chủ nghĩa đế quốc còn sử dụng tấm màn che là sự truyền giáo để tiến
hành các cuộc chiến trang xâm lược các quốc gia các dân tộc phương Đông
nhỏ yếu, biến các quốc gia, dân tộc đó thành thuộc địa và thực hiện đàn áp,
13
bóc lột hết sức tàn bạo. Điều đó đặt ra cho các dân tộc, các quốc gia phương
Đông vấn đề hàng đầu là tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc và ý thức về
sự bảo vệ các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống lâu đời. Kháng chiến chống
xâm lược của chủ nghĩa thực dân đã làm cho các dân tộc, các quốc gia bị xâm
lược đứng trước những vấn đề hết sức mới mẻ, trong đó có vấn đề nhận thức
về tôn giáo trong đó có nhận thức về Phật giáo. Đặc biệt là sự tác động rất lớn
đến tư tưởng hệ nói chung và tư tưởng về Phật giáo nói riêng. Ngay ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan, khi xuất hiện nguy cơ bị chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, các nước phong kiến phương Đông hết sức lúng túng trước
những vấn đề sống còn của quốc gia, hết sức lung túng vấn đề giữ gìn bản sắc
văn hóa, tôn giáo. Trước thực tiễn đó, buộc các nhà tư tưởng càng phải suy tư
toàn cảnh giải thích tác động những hiện tượng lịch sử mới nảy sinh đến Phật
giáo. Hệ tư tưởng cũ không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, giai cấp cầm
quyền thì bế tắc về con đường cách mạng của dân tộc. Trước tình hình đó
xuất hiện một nhu cầu cấp bách là cần có hệ tư tưởng mới chấn hưng các di
sản Phật giáo cho phù hợp với yêu cầu trên. Cho nên, có thể nói khái quát sự
bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây là một trong những yếu tố
vật chất góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển biến tư tưởng ở các nước
phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Từ tư tưởng phong kiến, tiếp thu
“Tân thư”, “Tân văn” các nhà nho Duy tân đã chuyển biến sang tư tưởng dân
chủ tư sản, tiếp theo dấu chân họ có các trí thức Tân học như Nguyễn An Ninh.
Và tiếp theo họ bước đầu tiếp cận với hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin
bước chuyển nhận thức đó cũng thể hiện ở nội dung, quan điểm của học về
Phật giáo. Điều đó được thể hiện qua các nhà tư tưởng tiểu biểu như: Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh… Nằm
trong bước chuyển chung đó của lịch sử dân tộc, các quan niệm về Phật giáo
của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh cũng có những
đóng góp, giá trị, đặt cầu nối chuyển biến tiếp theo đáp ứng những yêu cầu
mới của lịch sử dân tộc, đưa cách mạng tới thành công.
14
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Từ cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương vũ trang khởi nghĩa chống
Pháp từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất bôn và phát hịch Cần Vương đã
tàn lụi dần, được đánh dấu mốc với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương
Sơn (1896). Về căn bản thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc bình định
Việt Nam về mặt quân sự, và trong bối cảnh đó có thể bắt tay vào khai thác
thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy
mô. Pháp đưa Pôn Đume (Paul Doumer) sang làm toàn quyền Đông Dương
mở ra một giai đoạn mới khai thác thuộc địa lần thứ nhất của chủ nghĩa thực
dân Pháp ở xứ này.
Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành thủ đoạn độc quyền kinh tế và đặc biệt
chú ý coi trọng thủ đoạn bóc lột theo kiểu thời kỳ trung cổ. Đó là chế độ thuế
khóa vô cùng nặng nề và hết sức vô lý. Toàn bộ chính sách kinh tế của thực dân
Pháp dẫn tới kết quả tất yếu đó là bòn rút sức người sức của bản địa, biến nền
kinh tế Việt Nam què quặt phải dựa vào nền kinh tế chính quốc, và không phát
triển toàn diện được, nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa, vô sản hóa.
Về công nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp nhẹ và
chế biến nông sản, khoáng sản, quặng được hình thành và ngày càng phát triển.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp đã tạo nên sự phân hóa xã hội, đó là
sự xuất hiện giai cấp công nhân, sau đó là giai cấp tư sản, sự phát triển tầng lớp
thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ. Đồng thời cũng làm thay đổi tư duy, nếp
sống, phong cách làm việc của người lao động, các quan hệ kinh tế xã hội,
những yếu tố này tác động rất lớn đến ý thức, tư tưởng của người Việt Nam.
Về tiểu thủ công nghiệp, là ngành kinh tế phụ, như dệt vải, đan lát, chế
biến nông sản, chế biến hải sản ngày càng phát triển rộng rãi nhưng không
vươn lên được. Những ngành nghề này có tác dụng hỗ trợ cho kinh tế nông
nghiệp, công nghiệp, nhưng vẫn nằm trong tính chất khuôn khổ phương thức
sản xuất phong kiến, mặc dù có phát triển nhưng chưa đủ sức để phá vỡ quan
hệ sản xuất phong kiến lạc hậu và sự chèn ép, phụ thuộc.
15
Về thương nghiệp, trong chế độ phong kiến nhà Nguyễn thực hiện
chính sách “bế quan tỏa cảng” nên chậm phát triển. Khi thực dân Pháp xâm
lược, một mặt hàng rào ấy bị xóa bỏ, thương nghiệp, ngoại thương do Pháp
nắm bắt đầu phát triển, tạo điều kiện tốt cho nước ta giao lưu ra bên ngoài,
tiếp cận với các nền văn minh thế giới, song cản trở sự ra đời của giai cấp tư
sản dân tộc.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam lúc
bấy giờ là sự đan xen, tồn tại của các yếu tố cả nền kinh tế truyền thống mang
tính chất phong kiến với các yếu tố của nền kinh tế phụ thuộc mang tính chất
thuộc địa tư bản chủ nghĩa. Các quan hệ sản xuất phong kiến bị thu hẹp, phá vỡ
tính thuần nhất của sản xuất nông nghiệp truyền thống, thay vào đó là sự phát
triển của các nhà máy công nhiệp, hầm mỏ, đồn điền…các cơ sở vật chất mới
ra đời tuy mang tính lệ thuộc. Những yếu tố vật chất đó đã trở thành mảnh đất
màu mỡ, mới mẻ, tạo điều kiện cho các trào lưu tư tưởng mới ở bên ngoài xâm
nhập vào nước ta cũng như làm biến đổi ý thức tư tưởng của quần chúng nhân
dân Việt Nam trong tiến trình phát triển tư tưởng của nó. Tính chất đan xen tồn
tại hai phương thức sản xuất tại thuộc địa đã làm cho hệ tư tưởng dân chủ tư
sản của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, cũng tồn tại
đan xen các yếu tố truyền thống với hiện đại, không thuần nhất khi nhận định
về đời sống Phật giáo tư tưởng, các ông cũng có tính đan xen.
Về chính trị, để đảm bảo cho nền chính trị của chúng, thực dân Pháp đã
không thủ tiêu lợi ích của giai cấp phong kiến – địa chủ bản xứ, mà trái lại tìm
cách dung dưỡng nó, biến nó thành bộ máy bù nhìn tay sai, cơ sở xã hội vừng
chắc cho sự thống trị của chúng ở thuộc địa; đồng thời Pháp đã câu kết với
giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến Việt Nam thi hành chính sách kinh tế
thực dân rất thâm độc, rất bảo thủ, đó là tiếp tục duy trì phương thức sản xuất
phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế các yếu tố của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tại thuộc địa. Cho nên tính chất xã hội Việt
Nam giai đoạn này là chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
16
- Xem thêm -