Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại viện hàn lâm khoa học xã hội v...

Tài liệu Quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại viện hàn lâm khoa học xã hội việt nam

.PDF
79
80
133

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU: ...................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CÔNG LẬP ........... 8 1.1. Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập ........................................................................................... 8 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính theo hướng tự chủ tại đơn vị khoa học sự nghiệp công lập ............................................................................... 21 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM ....................................................................................24 2.1. Tổng quan về Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............................ 24 2.2. Cơ sở pháp lý cho tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam..... 27 2.3. Thực trạng công tác quản lý tài chính và quá trình thực hiện chủ trương tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ........................... 29 2.4. Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra của hoạt động quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ..................................................................................................................... 53 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH THEO HƯỚNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM ....................................................... 60 3.1 Chiến lược và định hướng quản lý tài chính theo hướng tự chủ của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. ................................................................................. 60 3.2 Các giải pháp tăng cường quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................................................................... 65 3.3. Một số kiến nghị tăng cường công tác quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ............................... 69 KẾT LUẬN ............................................................................................................................73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................75 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, các tổ chức sự nghiệp KHCN công lập được tự chủ trong chi lương, chi hoạt động bộ máy, được sử dụng các nguồn thu từ hợp đồng và được áp dụng phương thức khoán chi trong thực hiện nhiệm vụ KHCN có sử dụng NSNN... Tuy nhiên, quyền tự chủ tài chính bị hạn chế hoặc phải tuân thủ các ràng buộc khác của Luật NSNN như định mức chi, nội dung chi, thủ tục thanh quyết toán nhiệm vụ KHCN... Mức chi thấp, một số nội dung chi cần thiết chưa có đơn giá hướng dẫn, thủ tục thanh quyết toán quá chặt chẽ nên thường không thật phù hợp với hoạt động nghiên cứu sáng tạo khoa học. Bởi thế, tiềm năng hoạt động nghiên cứu khoa học trong những năm qua, mặc dù đã được giải phóng hơn trước đây rất nhiều, góp phần tạo nên những thành tựu đáng khích lệ, nhưng vẫn chưa được giải phóng triệt để. Một trong những nguyên nhân rất đáng kể là do cơ chế quản lý tài chính còn nhiều bất cập. Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo tinh thần Nghị định 115/2005/NĐCP, kết quả mang lại không như mong đợi, hiệu quả chưa cao, nhiều đơn vị chưa tự chủ được nguồn kinh phí bảo đảm tiền lương, về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Nghị định NĐ 54/2016/NĐ-CP ngày 14/06/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập ra đời thay thế Nghị định 115/2005/NĐ-CP kỳ vọng sẽ giải quyết được những bất cập, vướng mắc, tạo động lực cho các đơn vị khoa học công nghệ công lập phát triển. Tuy nhiên những quy định về tài chính ít nhiều còn máy móc lại làm hạn chế và gây khó khăn cho chính công tác quản lý và các nhà khoa học, ảnh hưởng đến điều hành hoạt động khoa học và không khuyến khích được công tác nghiên cứu khoa học. Việc tăng cường quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ sẽ là “chìa khóa” mở nút thắt, tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động khoa học và công nghệ. Qua thực tế công tác tại Ban Kế hoạch - Tài chính, đơn vị có chức năng giúp Lãnh đạo Viện Hàn lâm phân bổ ngân sách và quản lý tài chính tại toàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, bên cạnh những thành tích đạt được, việc quản lý tài chính 1 với các Viện trực thuộc theo hướng tự chủ tài chính vẫn còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc cần khắc phục để nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học. Vì vậy tôi chọn đề tài "Quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển và hội nhập, việc quản lý kinh tế nói chung và QLTC trong đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng đã có tác động tích cực tới các quá trình phát triển kinh tế xã hội theo các phương hướng đã được hoạch định. Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới cơ chế hoạt động, đổi mới cơ chế tài chính của các đơn vị SNCL, Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tự chủ đối với các đơn vị SNCL. Trong quá trình giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị SNCL, Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành, địa phương đã tập trung khắc phục những hạn chế, bất cập, nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong đổi mới hoạt động khu vực dịch vụ công và các đơn vị SNCL, góp phần đẩy nhanh tiến trình sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cải cách tiền lương, cơ cấu lại NSNN và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Các văn bản pháp quy có liên quan trực tiếp với tính cách là chỗ dựa pháp lý để phân tích tình hình hoặc đóng vai trò là cơ sở để nghiên cứu thực tế công tác quản lý tài chính ở Viện Hàn lâm là: Luật viên chức số: 58/2010/QH12 do Quốc hội Ban hành 15/11/2010. Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập” của Chính phủ. Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 “Quy định cơ chế tự chủ, của tổ chức khoa học công nghệ công lập” của Chính phủ. Quyết định số 115/2008/QĐ-TTg ngày 27/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 847b/QĐ-KHXH ngày 03/6/2011 của Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 2 Thông tư số 63/2007/TT-BTC ngày 15/6/2007 của Bộ Tài chính. Thông tư số 103/2007/TT-BTC ngày 29/8/2007 của Bộ Tài chính. NQ Số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ 6BCHTW khoá XIIĐCSVNngày 25/10/2017. Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 của Chính phủ.Những văn bản này cần được phân tích kỹ hơn gắn với những nội dung của luận văn nên sẽ được đề cập chi tiết hơn trong chương 1 và chương 2. Hiện nay, quá trình các đơn vị sự nghiệp công lập chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Phản ánh quá trình này, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu như sau: Tác giả Vũ Cao Đàm (1996) trong tham luận: “Định hướng cải cách thiết chế tài chính cho KH&CN trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường” tháng 8/1996 đã phân tích và nhấn mạnh đến các nội dung của cải cách kinh tế, các vấn đề đặt ra trước yêu cầu định hướng nội dung cải cách, và các giải pháp thực hiện. Tác giả Vũ Cao Đàm (2003) trong nghiên cứu “Đổi mới chính sách tài chính cho hoạt động KH&CN”, đã phân tích và giải quyết các nội dung về chính sách tài chính, thay đổi chính sách tài chính trong giai đoạn mới. Tác giả Dương Bá Phượng (2004) trong Đề án:“Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với KHXH và nhân văn” chủ yếu nghiên cứu về cơ chế tài chính các hoạt động khoa học xã hội tại Trung tâm KHXH và NV Quốc gia trên các nội dung: về tính đặc thù của khoa học xã hội, về thực trạng cơ chế tài chính của hoạt động khoa học xã hội và những phương hướng cũng như giải pháp cần thực hiện nhằm thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả Lê Tiến Phúc (2004) trong chuyên đề Nghiên cứu của Học viện tài chính “Phương thức quản lý chi ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra, kinh nghiệm quốc tế và khả năng ứng dụng ở Việt Nam” cho rằng, công tác quản lý tài chính cho KHCN Việt Nam cần mạnh dạn học tập kinh nghiệm quốc tế. Điều quyết định là căn cứ vào chất lượng sản phẩm đầu ra. Tuy vậy, đánh giá sản phẩm đầu ra ở Việt Nam lại gặp không ít khó khăn. TS. Hoàng Văn Hoan (2016), trong Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính nhằm huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả các 3 nguồn lực tài chính trong ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam”đã phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế, hệ thống chính sách tài chính huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính trong ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Theo tác giả, cần thiết phải hoàn thiện, bổ sung các cơ chế, chính sách, để công tác ứng phó với Biến đổi khí hậu sử dụng thật hiệu quả nguồn lực tài chính. Đề tài đưa ra giải pháp vừa sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và nâng cao hiệu quả các nguồn lực. Trong bài viết “Đổi mới cơ chế tài chính đối với khoa học công nghệ”, tạp chí tài chính số 1 năm 2013, tác giả Nguyễn Trường Giang đã phân tích những đặc thù của hoạt động khoa học công nghệ trong điều kiện hiện nay và đề xuất một số quan niệm về đổi mới công tác quản lý và sử dụng tài chính. Trong bài viết “Minh bạch kinh phí đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ” đăng trên Website của Liên hiệp các Khoa học và kỹ thuật (VUSTA) 13/8/2015, tác giả Minh Nhật đã chỉ ra những điểm tích cực và những điểm còn hạn chế của Thông tư liên tịch 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN về “Hướng dẫn định mức xây dựng, phân bố dự toán và quyết toán kinh phí đối vói nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước”. Theo tác giả, TTLT 55/2015 sẽ cho phép người đứng đầu cơ quan chủ trì đề tài quản lý phần “tài chính”, do vậy, nhà khoa học sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung cho công việc nghiên cứu. Đó là những thay đổi tích cực với công tác xây dựng dự toán và quyết toán kinh phí, nhưng TTLT 55 còn bộc lộ một số hạn chế. Trong bài, TS Vũ Hùng Cường, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết, kinh phí nhiệm vụ cấp bộ tính bình quân tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cao nhất khoảng 400 triệu đồng/hai năm. Tính ra thì còn thấp hơn cả mức theo TTLT 44. Như vậy, nếu các cơ quan chủ trì dù muốn trọng dụng các nhà khoa học, nhưng việc tăng định mức trong xây dựng dự toán chỉ đi vào thực tế khi đi kèm với tăng tổng mức kinh phí hoạt động thường xuyên phân bổ hằng năm cho các tổ chức KHCN. Tác giả Đinh Thị Nga (2013) trong bài “Đổi mới cơ chế quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước cho Khoa học công nghệ”, Tạp chí Khoa học công nghệ Việt Nam, số 14/2013cho rằng, việc đổi mới cơ chế quản lý cho hoạt động KHCN là vô 4 cùng cấp bách. Những phương án đề xuất không phải là không có căn cứ thực tế, nhưng rất ít được tiếp thu và được áp dụng vào các đơn vị sự nghiệp công lập về hoạt động khoa học. Tác giả Tô Thị Kim Thanh “Tổ chức công tác kế toán thu chi với việc tăng cường tự chủ tài chính tại các bệnh viện công lập thuộc Bộ Y tế khu vực Hà Nội”Luận văn đã nêu các đặc điểm các đơn vị sự nghiệp có thu và cơ chế tài chính áp dụng. Luận văn đã đánh giá những ưu điểm và những tồn tại từ đó đưa ra những giải pháp để tăng cường tự chủ tài chính tại các bệnh viện công lập thuộc .Luận văn chưa nêu những đơn vị đặc thù nên chưa nêu hết những vấn đề cấp bách hiện nay. Các nghiên cứu, công trình, các đề tài nghiên cứu nói trên đã ít nhiều đề cập đến chính sách tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, phân tích được những ưu điểm và hạn chế của cơ chế tài chính trong trong hoạt động khoa học nói chung. Tuy nhiên thực trạng công tác quản lý tài chính đối với hoạt động khoa học xã hội và những đặc thù ít được chú ý. Một số công trình đã nêu ra những phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện cơ chế đổi mới tài chính nhưng chỉ đối với khoa học nói chung, còn trong họat động khoa học xã hội thì gần như chưa được chú ý thỏa đáng. Qua việc tham khảo các nghiên cứu nói trên, luận văn đã thừa kế được một số phân tích lý luận, những gợi ý để tìm hạn chế, xác định nguyên nhân hạn chế cũng như làm tiền đề để luận văn nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trong điều kiện thực hiện tự chủ tài chính, phát hiện những vấn đề và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài chính cho Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính, tự chủ tài chính tại các tổ chức đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập. 5 - Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam hiện nay (trên cơ sở đánh giá một số đơn vị đã thực hiện cơ chế tài chính theo NĐ 54/2016/NĐ-CP và theo QĐ 115/2008/QĐ-TTg). - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính, nhằm phát huy khả năng chủ động, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là thực trạng công tác quản lý tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, luận văn thu thập và xử lý phân tích số liệu trong giai đoạn 2015-2017 và đưa ra những giải pháp đề xuất thực hiện đến năm 2020. Về không gian, luận văn lựa chọn lĩnh vực quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam Công tác quản lý tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam thực hiện theo cơ chế tài chính theo quy định của Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/06/2016 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chung của khoa học kinh tế. Sử dụng các phương pháp chung trong nghiên cứu khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu cụ thể theo yêu cầu của từng nội dung trong đối tượng nghiên cứu: - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp thống kê, mô tả. - Phương pháp tổng kết thực tiễn. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp. 6 . Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo, góp phần tổng kết lý luận hoạt động quản lý tài chính và tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập. 6 Việc đánh giá thực trạng quản lý tài chính và tự chủ tại chính hiện nay tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam có ý nghĩa góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt ra nhằm cải tiến các hoạt động quản lý tài chính của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương với: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệcông lập. Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.Chương 3: Giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 7 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CÔNG LẬP 1.1. Những vấn đề cơ bản về quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập  Khái niệm: Giáo trình Quản lý Tài chính công của Nhà xuất bản Tài chính (2009) viết: “Đơn vị sự nghiệp công lập là đơn vị thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Các đơn vị này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế văn hóa - xã hội” [10, tr. 25]. Trong các văn bản pháp quy, định nghĩa về Đơn vị sự nghiệp công lập được ghi rõ trong “Luật Viên chức” số 58/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII ban hành ngày 15/ 11/2010 và trong Nghị định số 55/2012/NĐ-CP của Chính phủ về việc “Thành lập, tổ chức lại và giải thể đơn vị sự nghiệp công lap”. Theo đó, điều 9 của “Luật viên chức” ghi rõ: “Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. Trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục, khoa học và một số lĩnh vực khác mà khu vực ngoài công lập chưa có khả năng đáp ứng được nhu cầu của xã hội, hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước xây dựng và chăm lo phát triển để cung cấp những dịch vụ công chủ yếu nhằm bảo đảm phục vụ nhân dân, thực hiện chức năng phát triển kinh tế - xã hội. Tại các vùng miền đặc thù như miền núi, biên giới, hải đảo vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập cũng được Nhà nước xây dựng và chăm lo phát 8 triển, trước hết nhằm bảo đảm cung cấp các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục, khoa học… Như vậy, đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức chính trị - xã hội, do Nhà nước thành lập theo quy định của pháp luật, trực thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có chức năng cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước ở các lĩnh vực chuyên biệt như giáo dục, khoa học, y tế, văn hóa... Những cơ quan này có tư cách pháp nhân, thực hiện sự phân quyền tự chủ theo quy định của pháp luật. Hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập đóng vai trò quan trong trong đời sống kinh tế - xã hội.  Đặc điểm các đơn vị sự nghiệp công lập: Đơn vị sự nghiệp công lập được nhận diện thông qua các yếu tố sau đây: (i) Được thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định; (ii) Là bộ phận cấu thành trong tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (iii) Có tư cách pháp nhân; (iv) Cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước; (v) Viên chức là lực lượng lao động chủ yếu, bảo đảm cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Đặc trưng cơ bản của đơn vị sự nghiệp để phân biệt với cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và các cơ quan, tổ chức khác là vị trí pháp lý, tính chất hoạt động và đội ngũ viên chức. Các đơn vị sự nghiệp được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và là bộ phận cấu thành trong cơ cấu tổ chức cơ quan nhà nước nhưng không mang quyền lực nhà nước, không có chức năng quản lý nhà nước như xây dựng thể chế, thanh tra, xử lý vi phạm hành chính… Các đơn vị sự nghiệp công lập bình đẳng với các tổ chức, cá nhân trong quan hệ cung cấp dịch vụ công. Hiện nay, trong xu thế đổi mới tăng cường hiệu quả các tổ chức công lập, Nhà nước còn chủ trương đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán độc lập. Một số đơn vị theo tinh thần Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định 54/2016/NĐ-CP 9 ngày 14/6/2016 quy định cơ chế tự chủ, của tổ chức khoa học công nghệ công lập, đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng điều hành các đơn vị sự nghiệp công lập.  Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập: Đơn vị sự nghiệp công lập, theo các văn bản trên gồm hai loại: đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự và đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự. Người sử dụng lao động trong đơn vị sự nghiệp công lập là nhà nước (trực tiếp hay gián tiếp). Do vậy, cơ chế tuyển dụng, sử dụng, quản lý, chế độ, chính sách đối với viên chức trong các đơn vị này không giống với các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Nhà nước hoàn toàn có chức năng và trách nhiệm quy định một số nghĩa vụ mang tính chất ràng buộc đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Trong khi đó, các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được tổ chức và hoạt động chủ yếu theo mô hình doanh nghiệp. Nghĩa là, việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng lao động trong các đơn vị này cơ bản dựa trên các quan hệ được quy định tại Bộ luật lao động. Trên thực tế, cơ chế pháp lý đối với việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng đối với các loại đối tượng này trong các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập là khác nhau. Mà trước hết là khác nhau về quyền tự chủ, mức độ tự chủ đối với đơn vị. Theo các văn bản pháp luật hiện hành, quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tự chủ về những mặt sau: - Tự chủ về xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trong kế hoạch theo chức năng được phân công. - Tự chủ về công tác tổ chức cán bộ theo Điều lệ tổ chức và hoạt động được cơ quan cấp trên phê duyệt. - Tự chủ về nhân sự theo Điều lệ tổ chức và hoạt động được cơ quan cấp trên phê duyệt. - Tự chủ về tài chính và khả năng đảm bảo hoạt động theo kế hoạch hoạt động được cơ quan cấp trên phê duyệt. Việc xác định đơn vị sự nghiệp công lập thuộc loại nào căn cứ vào các yếu tố 10 thuộc chức năng nhiệm vụ của đơn vị (thường được ghi trong Điều lệ tổ chức và hoạt động do cơ quan cấp trên phê duyệt): - Cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập. - Đặc điểm, tính chất của từng ngành, lĩnh vực hoạt động sự nghiệp. - Điều kiện thực tế. - Yêu cầu quản lý đối với mỗi loại hình đơn vị sự nghiệp cũng như trình độ, năng lực quản lý tại các đơn vị này. Về phương diện tài chính, đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, được phân loại gồm 4 loại: (i) Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư. (ii) Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên. (iii) Đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên. và (iv) Đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên. *Vai trò của các đơn vị sự nghiệp công lập Các đơn vị sự nghiệp công lập với đội ngũ trí thức, các nhà khoa học đông đảo luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy không có trách nhiệm và chức năng quản lý hành chính nhà nước, nhưng các đơn vị sự nghiệp công lập là là tổ chức không thể thiếu giúp cho các cơ quan quyền lực Nhà nước thực hiện chức năng của mình trong việc quản lý xã hội. Theo số liệu thống kê, số lượng đơn vị và nhân lực trong các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam hiện nay rất lớn: Năm 2016 có 57.995 đơn vị, với gần 2,5 triệu người, chưa kể số nhân lực trong Quân đội và Công an. Chiếm tỷ lệ lớn nhất trong đó là các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành giáo dục (41.801 đơn vị, chiếm 72,08%; 1.527.049 người, chiếm 62,54%) và các đơn vị sự nghiệp y tế (6.160 đơn vị, chiếm 10,62%; 402.553 người, chiếm 16,49%).Tính đến hết 2016, có 2.057 đơn vị tự chủ tài chính, bằng 3,54%, 12.968 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, chiếm 22,36%. 42.146 đơn vị do NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động, chiếm tỷ lệ 72,67%[Thế Nguyễn (2017)1]. 1 Thế Nguyễn (2017). Hội nghị Trung ương 6, Khoá XII: Đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập.https://vov.vn/xa-hoi/quyet-liet-doi-moi-toan-dien-cac-don-vi-su-nghiepcong-lap-680322.vov 11 Trên thực tế, hệ thống cung ứng sự nghiệp công phủ kín hầu hết các địa bàn, lĩnh vực họat động mà các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý. Mạng lưới các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao ngày nay hoạt động rộng khắp tận khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn, biên giới, hải đảo. Đi kèm với các thiết chế tổ chức Nhà nước là các đơn vị sự nghiệp công lập. Hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập giữ vai trò nòng cốt trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và thực hiện chính sách an sinh xã hội, tạo cơ hội tiếp cận dễ dàng, thuận lợi, bình đẳng cho mọi người dân trong việc thụ hưởng các dịch vụ thiết yếu với chất lượng ngày càng cao và chi phí hợp lý hơn. Trong những năm qua, xuất phát từ nhu cầu tăng cường hiệu quả hoạt động của các đơn vị công lập, nên những quy định liên quan đến đơn vị sự nghiệp công lập thay đổi tương đối nhiều. Nhà nước đã đề ra các chính sách nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội và đảm bảo công bằng giữa các đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong toàn bộ nền kinh tế. Nhà nước đã đẩy mạnh giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Nhà nước đã chuyển đổi từ phí sang giá dịch vụ, ngoài chi phí vật tư, đã từng bước tính chi phí tiền lương vào giá dịch vụ, góp phần bù đắp chi phí của các đơn vị, giảm chi thường xuyên của ngân sách nhà nước, nhất là trong lĩnh vực y tế. Về cơ bản, hoạt động cung cấp dịch vụ công trong những năm qua đã đáp ứng nhu cầu của người dân và các tổ chức xã hội. Tuy nhiên vì nhiều lý do khách quan do yêu cầu mới đối với sự phát triển đất nước, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tại khi vực các đơn vị sự nghiệp công lập, thực trạng đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập, cả về chất lượng và số lượng, không thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế, tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN (khóa XII), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về “Tiếp tục 12 đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” [Bùi Công Quang (2017)2]. 1.1.2.Cơ sở lý luận về quản lý tài chínhcủa các đơn vị sự nghiệp công lập *Khái niệm tài chính và quản lý tài chính Giáo trình Kinh tế chính trị học của Trường đại học Kinh tế Quốc dân viết: Tài chính “là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường. Đó là hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, phát sinh trong quá trình hình thành, quản lý và sử dụng các qũy tiền tệ, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân”[3]. Theo giáo trình Kinh tế chính trị Mac – Lênin của Bộ Giáo dục và Đào tạo, thì “Tài chính nước ta là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hôi chủ nghĩa” [4] Theo các quan niệm trên, tài chính là hình thức tiền tệ của các quan hệ kinh tế,thể hiện ra giữa các chủ thể trong tương quan với các đối tượng kinh tế, nhằm giúp các chủ thể quản lý và sử dụng các quỹ tiền tệ trong toàn bộ đời sống kinh tế. Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tài chính được hiểu là một phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ kinh tế phức tạp giữa các chủ thể dưới hình thức tiền tệ. Tài chính là đối tượng đặc biệt quan trọng của quản lý kinh tế nhằm sử dụng tiền tệ phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà quản lý và các chủ thể có liên quan, đặc biệt là nhà nước. Còn khái niệm Quản lý tài chính theo quan điểm của các nhà khoa học Trường đại học Kinh tế Quốc dân được xem xét theo hai nghĩa: Nghĩa hẹp là quản 2 Xem: Bùi Công Quang (2017). Pháp luật về tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam.http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phapluat.aspx?ItemID=264 3 ĐHKTQD. Bộ môn KTCT học (1996). Giáo trình kinh tế học tập I. Nxb. Giáo dục. Hà Nội. 4 Phạm Văn Dũng. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (dùng cho khối ngành kinh tế quản trị kinh doanh).tr. 229.voer.edu.vn/pdf/513675e9/1 13 lý thu chi ngân sách. Theo nghĩa này thì nội dung chủ yếu của quản lý tài chính là làm thế nào để đảm bảo hoạt động thu chi ngân sách được tiến hành thông suốt và có hiệu quả; (ii) theo nghĩa rộng là sử dụng tài chính làm công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính để điều tiết hoạt động của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu đã định. Xét theo nghĩa này, nội dung của quản lý tài chính chủ yếu là việc lựa chọn và xác định chính xác các chính sách tài chính hữu hiệu và lấy đó làm căn cứ để quy định nội dung cụ thể của thu chi ngân sách. [ĐHKTQD. Giáo trình (1996)]. Như vậy, nếu xét theo cả hai nghĩa được nêu trên thì quản lý tài chính là việc sử dụng công cụ tài chính của Nhà nước bằng các chính sách, phương thức, hệ thống khác nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý. - Mục tiêu của việc quản lý: là tạo thu nhập ổn định, sử dụng các nguồn kinh phí có hiệu quả đúng mục đích. - Đối tượng của việc quản lý: là các hoạt động thu chi tài chính để thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. - Chủ thể của việc quản lý: là các cơ quan chuyên quản lý tài chính thực hiện nhiệm vụ được giao. - Cơ chế của việc quản lý: là sự kết hợp giữa các quy định chính sách của Nhà nước kết với chế độ chính sách đặc thù của từng đơn vị. 1.2 Cơ sở lý luận về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập 1.2.1. Nội dung tự chủ tài chính và vai trò của tự chủ tài chính Các quy định về tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp trên nguyên tắc đơn vị tự chủ cao về nguồn tài chính thì được tự chủ cao về quản lý, sử dụng các kết quả tài chính và ngược lại. Quy định này nhằm khuyến khích các đơn vị tự chủ thấp phấn đấu tăng nguồn thu để được mức tự chủ cao hơn. Tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp được quy định theo 3 mức độ cụ thể đó là: Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công 14 chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá chưa tính đủ chi phí) và Tự chủ tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp). *Tự chủ trong xác định mức thu Đơn vị được tự xác định giá dịch vụ theo nguyên tắc thị trường đối với loại dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước (NSNN). Đối với loại dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí NSNN, đơn vị được quyết định mức thu theo lộ trình tính giá do Nhà nước công bố. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các đơn vị có điều kiện vươn lên nhanh hơn, Nghị định mới quy định, căn cứ vào tình hình thực tế, các đơn vị sự nghiệp công được thực hiện trước lộ trình giá dịch vụ sự nghiệp công. *Tự chủ trong chi đầu tư và chi thường xuyên Các đơn vị sự nghiệp được chủ động sử dụng các nguồn tài chính được giao tự chủ, bao gồm nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công (kể cả nguồn ngân sách nhà nước đấu thầu, đặt hàng), nguồn thu phí theo quy định được để lại chi và nguồn thu hợp pháp khác, để chi thường xuyên. Đối với các nội dung chi đã có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Căn cứ vào khả năng tài chính, đơn vị được quyết định mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Tuy nhiên, đối với một số định mức, tiêu chuẩn quy định mang tính chất chung cho khối cơ quan nhà nước, thì các đơn vị sự nghiệp công cũng phải tuân thủ, như tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; nhà làm việc; trang bị điện thoại; chế độ công tác phí nước ngoài; tiếp khách nước ngoài, hội thảo quốc tế. Đối với các nội dung chi chưa có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, căn cứ tình hình thực tế, đơn vị xây dựng mức chi cho phù hợp theo quy chế chi tiêu nội bộ. *Về chi tiền lương và thu nhập tăng thêm 15 Các đơn vị sự nghiệp chi trả tiền lương theo lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên phải tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị; NSNN không cấp bổ sung; đối với đơn vị chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên, chi tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo quy định, bao gồm cả nguồn NSNN cấp bổ sung (nếu thiếu). Đối với phần thu nhập tăng thêm, các đơn vị được chủ động sử dụng Quỹ bổ sung thu nhập để thực hiện hiện phân chia cho người lao động trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, theo nguyên tắc gắn với số lượng, chất lượng và hiệu quả công tác của người lao động. *Về trích lập các Quỹ Hàng năm sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp NSNN khác (nếu có) theo quy định; phần chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị được sử dụng để trích lập các quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; quỹ bổ sung thu nhập; quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Ngoài ra, Nghị định mới cũng cho phép các đơn vị được trích lập các quỹ khác theo quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tế. *Tự chủ trong giao dịch tài chính Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp trong giao dịch với bên ngoài, đặc biệt là trong các hoạt động liên doanh, liên kết, đồng thời tạo thêm nguồn thu cho đơn vị; Đơn vị sự nghiệp công được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước. Lãi tiền gửi đơn vị được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hoặc bổ sung vào Quỹ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (nếu có), không được bổ sung vào Quỹ bổ sung thu nhập. 16 Riêng các khoản kinh phí thuộc NSNN, các khoản thu dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, các khoản thu phí theo pháp lệnh phí, lệ phí, thì đơn vị sự nghiệp công vẫn phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh. *Tự chủ trong sử dụng nguồn tài chính Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được chủ động sử dụng các nguồn tài chính giao tự chủ để chi thường xuyên, trong đó một số nội dung chi được quy định như sau: - Chi tiền lương cho công chức, viên chức, người lao động theo ngạch, bậc, hạng chức danh nghề nghiệp, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo quy định, trường hợp còn thiếu được ngân sách nhà nước cấp bổ sung; - Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng tài chính, tổ chức khoa học và công nghệ công lập được quyết định mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi đo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Tổ chức khoa học và công nghệ sử dụng nguồn tài chính để chi thực hiện nhiệm vụ không thường xuyên theo quy định hiện hành; Tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về mức chi, tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc; tiêu chuẩn, định mức trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động; chế độ công tác phí nước ngoài; chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam. *Tự chủ về thực hiện nhiệm vụ Xây dựng kế hoạch Đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ và dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, tổ chức khoa học và công nghệ công lập tự xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ, báo cáo cơ quan quản lý cấp trên để theo dõi việc thực hiện; 17 Đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, dịch vụ sự nghiệp công và nhiệm vụ khác sử dụng ngân sách nhà nước, tổ chức khoa học và công nghệ công lập xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ, báo cáo cơ quan có thẩm quyền để phê duyệt và quyết định phương thức giao kế hoạch cho đơn vị thực hiện. *Tự chủ về tổ chức bộ máy Tổ chức khoa học và công nghệ công lập xây dựng phương án sắp xếp lại đơn vị cấu thành, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị mới ngoài các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền khi đáp ứng các điều kiện theo quy định hiện hành. *Tự chủ về nhân sự Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được quyết định vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, trên cơ sở bảo đảm việc làm và thu nhập ổn định cho số người làm việc tại tổ chức. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập tuyển dụng, quản lý, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, thăng hạng chức danh nghề nghiệp và thực hiện chính sách, chế độ đối với viên chức và ký hợp đồng lao động theo quy định hiện hành. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập đề xuất cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm, thuê nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức khoa học và công nghệ công lập và thuê chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo quy định hiện hành. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập quyết định việc mời chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài vào Việt Nam tham gia hoạt động khoa học và công nghệ và cử viên chức, người lao động ra nước ngoài công tác theo phân cấp. 18 *Tự chủ về quản lý, sử dụng tài sản Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được cơ quan có thẩm quyền xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp; Tổ chức khoa học và công nghệ công lập quản lý, sử dụng tiền thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết, cho thuê tài sản nhà nước như sau: - Tiền thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải hạch toán đầy đủ theo quy định hiện hành về kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng theo cơ chế tài chính áp dụng đối với doanh nghiệp; - Tiền thu được từ cho thuê tài sản nhà nước, tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải hạch toán riêng, sau khi trừ chi phí hợp lý, nộp thuế và thực hiện nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước, đơn vị được sử dụng phần còn lại để phát triển hoạt động sự nghiệp. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được lựa chọn hình thức giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 1.2.2. Các văn bản chính sách và các công cụ quản lý tài chính về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập *Hệ thống các quy định của Nhà nước Là các văn bản pháp luật bao gồm quy định, quyết định, luật, chuẩn mực tài chính hiện hành của Nhà nước. *Công tác xây dựng kế hoạch hàng năm Đây là một công cụ hết sức quan trọng và thiết thực. dựa vào số lượng người, nhiệm vụ được giao hàng năm, nhiệm vụ đột suất trong năm để xây dựng kế hoạch thu chi cho năm tiếp theo.  Xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ để kiểm soát chi Hàng năm các Đơn vị được xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với đặc thù của đơn vị mình làm cơ sở để kiểm soát chi và để các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý. Trong Quy chế chi tiêu nội bộ các đơn vị được ghi đầy đủ các định 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan