Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ từ thực tiễn tỉnh quảng ninh ...

Tài liệu Quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
92
422
59

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VŨ VĂN THIỆN QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Chuyên ngành: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Mã số : 60 34 04 12 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. VŨ VĂN THIỆN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 13 1.1. Các khái niệm công cụ 13 1.2. Khung lý luận quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ 17 1.3. Kinh nghiệm thế giới và trong nước 18 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2011-2015 24 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và yêu cầu đối với quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh 24 2.2. Thực trạng tổ chức quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015 33 CHƢƠNG 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2017 – 2020 VÀ ĐỊNH HƢỚNG ĐẾN NĂM 2030 58 3.1. Dự báo nhu cầu về phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh 58 3.2. Một số giải pháp quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2030 63 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CNTT: Công nghệ thông tin CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CN: Công nghiệp DASXTN: Dự án sản xuất thử nghiệm DVKHCN: Dịch vụ khoa học và công nghệ ĐTCB: Điều tra cơ bản GDP: Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương -Liên Hiệp Quốc Tổng sản phẩm quốc nội KH&CN: Khoa học và công nghệ KHXH&NV: Khoa học xã hội và nhân văn KHKT&CN: Khoa học kỹ thuật và công nghệ KT-XH: Kinh tế-xã hội NC&PT: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ NCKH: Nghiên cứu khoa học NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn NCCB: Nghiên cứu cơ bản NCƯD: Nghiên cứu ứng dụng ESCAP: OECD (Organization for Economic Cooperation and Development): TNHH: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế Trách nhiệm hữu hạn TW: Trung ương TT-CN: Tiểu thủ công nghiệp Tr.đ: Triệu đồng UBND: Ủy ban nhân dân UNESCO (United Nations Educational Scientific and Cultural Organization): Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc DANH MỤC BẢNG TT Ký hiệu Nội dung Trang 1 Bảng 2.1 Tình hình triển khai các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh giai đoạn 2011-2015 44 2 Bảng 2.2 Cơ cấu nhiệm vụ và tài chính theo lĩnh vực KH&CN cấp tỉnh 45 3 Bảng 2.3 Tình hình triển khai các nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở giai đoạn 2011-2015 48 4 Bảng 2.4 Cơ cấu nhiệm vụ và tài chính theo lĩnh vực KH&CN cấp cơ sở 49 DANH MỤC HÌNH VẼ TT Ký hiệu Nội dung Trang 1 Hình 2.1 Quy trình xác định danh mục nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh 36 2 Hình 2.2 Quy trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh 37 3 Hình 2.3 Quy trình đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh 38 4 Hình 2.4 Quy trình xác định danh mục nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở 39 5 Hình 2.5 Quy trình đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở 41 6 Hình 2.6 Quy trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở 42 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có tính chất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Điều này càng quan trọng đối với những quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, tiến tới xây dựng một nền kinh tế tri thức trong tương lai như nước ta hiện nay. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, ý nghĩa chiến lược to lớn của việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ đã có bước chuyển biến, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất định, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”. Trong các văn kiện Đại hội trước, Đảng ta đã khẳng định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính còn chưa hợp lý... Tại Đại hội XII, khi thêm vào hai chữ “thực sự” trước cụm từ “là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta muốn nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển khoa học và công nghệ, đặt ra yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của đất nước lên một tầm cao mới, khắc phục những yếu kém trong thời gian qua, coi đây là công việc trọng yếu và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu” cũng có nghĩa là mọi chủ trương, chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học và công nghệ và thực hiện bằng 1 khoa học và công nghệ; khoa học và công nghệ phải đứng hàng thứ nhất và đi trước một bước trong mọi chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Năm năm qua, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, song dưới sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, đúng hướng, hiệu quả của Trung ương, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh đã phát huy khối đại đoàn kết, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, có nhiều giải pháp đột phá để khai thác tiềm năng, thế mạnh, khắc phục khó khăn nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra, phấn đấu đến năm 2020, xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ, công nghiệp; là trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực. Kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, quy mô và sức cạnh tranh được nâng lên rõ rệt; tăng trưởng kinh tế đạt mức cao so với cả nước; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ; thu ngân sách luôn nằm trong nhóm 5 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước. Bám sát mục tiêu thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với cơ cấu lại kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả nổi bật. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt; niềm tin của các nhà đầu tư được nâng lên. Văn hóa - xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần quyết tâm khắc phục: một số chỉ tiêu của Đại hội XIV đề ra chưa đạt; kinh tế phát triển khá nhanh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhất là một số ngành có lợi thế lớn như du lịch, thương mại, kinh tế biển. Hệ thống kết cấu hạ tầng đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn chưa đồng bộ. Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành. Đời sống văn hoá xã hội của nhân dân đã được cải thiện nhưng có mặt chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế,... Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do suy thoái kinh tế thế giới nhất là trong những năm đầu nhiệm kỳ; tình hình chính trị trong khu vực, thời tiết, dịch bệnh diễn biến bất thường... đã tác động tiêu cực đến các ngành sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Nhưng trực tiếp và quyết định vẫn là nguyên nhân chủ quan: Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện của một số cấp ủy đảng; năng lực quản lý, điều hành ở một số cấp chính quyền 2 chậm được nâng cao, nhất là ở cơ sở. Nhận thức, năng lực của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Quyết tâm chính trị có mặt chưa cao, thiếu biện pháp hữu hiệu khắc phục triệt để các hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra. Công tác phân tích, dự báo chiến lược chưa theo kịp tình hình. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 là xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, là một trong những đầu tầu kinh tế của miền Bắc và cả nước với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ, hiện đại, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đảm bảo giữ gìn và bảo vệ môi trường bền vững. Giữ gìn và phát huy tốt bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy bền vững Di sản – Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và những khác biệt, đặc sắc của Vịnh Bái Tử Long; phấn đấu trở thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng, an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong những năm qua, các hoạt động khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng Ninh được triển khai chủ động, toàn diện và đạt được kết quả nổi bật. Nghiên cứu khoa học - Phát triển công nghệ tiếp tục được đẩy mạnh ở cả cấp nhà nước, cấp tỉnh và được đặc biệt quan tâm ở cấp cơ sở; Kết quả nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ bước đầu đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền và phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn Tỉnh. Các mô hình triển khai đều cho hiệu quả kinh tế cao; giúp nông dân tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích canh tác, góp phần vào công cuộc giảm nghèo; tạo điều kiện quan trọng nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ sở; làm tiền đề cho công tác khuyến nông, khuyến ngư nhân rộng mô hình ở cơ sở, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường; nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong các cơ quan quản lý, nghiên cứu giảng dạy, các doanh nghiệp tăng về số lượng và trình độ, bước đầu đáp ứng yêu cầu phát triển ở một số lĩnh vực, ngành nghề trong điều kiện thực tiễn của đơn vị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động khoa học và công nghệ tại tỉnh Quảng Ninh còn một số hạn chế như: 3 - Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động đa lĩnh vực, diện rộng, đòi hỏi có tính mới, tính tiên tiến, gắn liền với các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh đòi hỏi người quản lý các cấp phải thường xuyên cập nhật được thông tin tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, hoạt động cung cấp thông tin có chọn lọc còn yếu, chưa sát với thực tiễn; - Công tác đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất gắn liền với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, đầu tư của xã hội. Nhà nước không thể quyết định thay hoặc đầu tư cho doanh nghiệp, mà chỉ hỗ trợ để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn việc tự thực hiện nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ của doanh nghiệp và hướng dẫn doanh nghiệp được hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến khích chưa đồng bộ và thủ tục còn phức tạp, vì vậy chưa khuyến khích doanh nghiệp thực hiện theo cách thức nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, mà thực hiện theo các hình thức khác thuận lợi hơn như các hợp đồng kinh tế, dự án đầu tư thông thường. Để đạt được những mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đặt ra, tỉnh Quảng Ninh cần tập trung phấn đấu, sự vào cuộc của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp và toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao hiệu quả đầu tư, đổi mới cơ chế quản lý, tạo môi trường thông thoáng trong hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, trong đó cần chú trọng, ưu tiên trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Cụ thể: Về nhân lực: Các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý khoa học và công nghệ các cấp, hiện đại hóa, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ quản lý. Tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích sự sáng tạo trong nhân dân, nhất là lớp tr , đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong các cơ sở y tế, giáo dục và đào tạo, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Nghiên cứu thành lập các câu lạc bộ khoa học kỹ thuật trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp là nơi giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong nghiên cứu, ứng 4 dụng khoa học và công nghệ. Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động trong tiếp nhận công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, công nghệ thông tin cho đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ tại các cơ sở y tế, giáo dục. Các doanh nghiệp nghiên cứu hình thành các bộ phận nghiên cứu và phát triển tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ bên ngoài để từng bước làm chủ, thích nghi, cải tiến công nghệ nhập, tiến tới tự chủ nghiên cứu, thiết kế công nghệ, sản phẩm mới; gắn hoạt động khoa học và công nghệ với sản xuất và đời sống. Về cơ sở vật chất: Tiếp tục thực hiện Đề án tăng cường tiềm lực cho các tổ chức KH&CN trên địa bàn tỉnh; Nâng cao năng lực phân tích, kiểm định và thử nghiệm lĩnh vực phân tích, quan trắc môi trường, kiểm soát chất lượng các sản phẩm hàng hóa nhóm 2. Tiếp tục triển khai Đề án nâng cao năng suất, chất lượng cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 đã được phê duyệt tại Quyết định số 480/QĐ-UBND ngày 11/7/2014 để tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ. Xây dựng đề án Trung tâm ươm tạo công nghệ và Doanh nghiệp KH&CN; hỗ trợ hoạt động cho cơ sở ươm tạo công nghệ, doanh nghiệp KH&CN theo mô hình do doanh nghiệp quản lý; Xây dựng vườn ươm khởi nghiệp về công nghệ thông tin để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực công nghệ thông tin. Đầu tư kinh phí cho phát triển khoa học và công nghệ: Dành tối thiểu 4 tổng chi thường xuyên ngân sách địa phương cho khoa học và công nghệ; ưu tiên nguồn lực đầu tư một số lĩnh vực trọng tâm: dịch vụ du lịch, dịch vụ thương mại, công nghệ sinh học, quản lý nhà nước, công nghệ thông tin, y tế, giáo dục và đào tạo. Tăng cơ cấu chi cho sự nghiệp khoa học, công nghệ theo tỷ lệ bố trí giữa nguồn vốn sự nghiệp khoa học và công nghệ/nguồn vốn đầu tư phát triển tại Quy hoạch phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Cùng với ngân sách tỉnh, các địa phương chủ động bố trí kinh phí từ nguồn thu ngân sách địa phương để triển khai hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn. Phát huy hiệu quả Quỹ phát triển khoa học và công nghệ cấp tỉnh trong việc hỗ 5 trợ chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ; hoàn thiện, áp dụng ý tưởng, giải pháp sáng tạo; làm vai trò cầu nối để hướng dẫn doanh nghiệp vay vốn Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia để thực hiện các dự án lớn. Các sở, ban, ngành, địa phương hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quản lý thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để đầu tư phòng thí nghiệm, đào tạo, phát triển hoạt động khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tăng cường bố trí kinh phí đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, đảm bảo tổng vốn đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt trên 2 GRDP. Phát triển thị trường, đẩy mạnh hợp tác và mở rộng hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ: Duy trì và phát triển các sản phẩm đã được xây dựng thương hiệu. Đến năm 2020, hỗ trợ xác lập quyền sở hữu trí tuệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ trong nước, quốc tế cho trên 300 đối tượng sở hữu công nghiệp, trong đó, tối thiểu có 5 sáng chế, giải pháp hữu ích. Mỗi huyện, thị xã, thành phố xây dựng và phát triển thêm tối thiểu 01 sản phẩm gắn với địa danh, loại hình dịch vụ có thế mạnh của địa phương. Thực hiện các chương trình hợp tác trong nước và quốc tế về khoa học và công nghệ; tạo điều kiện cho các nhà khoa học, chuyên gia, các đơn vị nghiên cứu có uy tín (Viện nghiên cứu, tổ chức khoa học và công nghệ, trường Đại học ở Trung ương và địa phương) trình diễn, giới thiệu sản phẩm khoa học và công nghệ mới; tham gia, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh. Nghiên cứu mở rộng hợp tác đầu tư với doanh nghiệp, các tổ chức khoa học và công nghệ ở nước ngoài. Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, giám sát về khoa học và công nghệ: Thực hiện các cuộc thanh, kiểm tra chuyên đề hoặc đột xuất theo chỉ đạo của Bộ Khoa học và Công nghệ và UBND tỉnh Quảng Ninh về các lĩnh vực khoa học và công nghệ (tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa; an toàn bức xạ và hạt nhân, sở hữu công nghiệp) đối với các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực liên quan. Kiểm tra, giám sát việc ứng dụng kết quả các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng vốn ngân sách. Công tác tuyên truyền, thông tin khoa học và công nghệ: 6 Xây dựng các chuyên mục về khoa học và công nghệ trên Báo Quảng Ninh, Đài Phát thành và Truyền hình tỉnh Quảng Ninh về các văn bản pháp luật, giới thiệu các thành tựu khoa học và công nghệ, giải pháp, sáng tạo; tuyên truyền về công tác ứng dụng, chuyển giao về khoa học và công nghệ. Tổ chức các phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng tạo khoa học và công nghệ trong các cơ quan, địa phương, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, sinh viên, học sinh và các tầng lớp nhân dân. Để tận dụng cơ hội hợp tác quốc tế phát triển KH&CN trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng, rất cần có những chính sách quản lý khoa học hợp lý. Năm 2013, Quốc hội đã thông qua Luật KH&CN (thay thế Luật KH&CN năm 2000) để tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Những quy định về cơ chế tài chính và đầu tư cho KH&CN cũng đã có bước thay đổi cơ bản. Về đầu tư từ NSNN cho KH&CN, Luật KH&CN khẳng định rõ mức chi ngân sách hàng năm cho KHCN từ 2 trở lên và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ. Việc giao kinh phí sẽ áp dụng cơ chế khoán, cơ chế Nhà nước đặt hàng và cơ chế Quỹ để triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ. Do vậy, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung cũng như của tỉnh Quảng Ninh nói riêng, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như về quản lý, nhân lực, tài chính, cơ chế, quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ,... Thiếu bất kỳ giải pháp nào cũng đồng nghĩa với việc lĩnh vực khoa học và công nghệ của quốc gia, địa phương sẽ không phát huy được tối đa hiệu quả. Chính vì lý do trên tác giả xin chọn vấn đề “Quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, việc nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã được nghiên cứu rất nhiều, ở các mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã được thành lập với nhiệm vụ chính là nghiên cứu xây dựng các chiến lược, chính sách về phát triển khoa học và công nghệ và quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Bên cạnh những nghiên cứu của Viện 7 Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu nhằm đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ, quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ nói chung và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học nói riêng, như sau: + “Nghiên cứu cơ chế, biện pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển sau nghiệm thu” – Nguyễn Lan Anh, 2004. + “Vấn đề gắn kết nghiên cứu với sản xuất hiện nay” – TS. Hoàng Xuân Long (Tạp chí Cộng sản số 57 – 2004); + “Ứng dụng công nghệ vào sản xuất: Nghiên cứu phải theo thị trường” – TS.Vũ Đình Nghĩa (Website http://www.nhandan.com.vn/ ngày 13/11/2004); + “Nghiên cứu một số giải pháp thúc đẩy chuyển giao công nghệ ở địa phương” – TS. Hoàng Xuân Long, 2006. + “Tác động của cơ chế, chính sách công đến việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào khoa học và công nghệ” – Nguyễn Việt Hoà, 2007. - “Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách tài chính của Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động đổi mới (công nghệ )”- TS. Đặng Duy Thịnh, Đề tài cấp bộ, Hà Nội, 2009. - “Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển KH&CN địa phương thời gian qua và những định hướng cho thời gian tới”- TS. Hồ Ngọc Luật, Tạp chí chính sách và quản lý KH&CN, số 1, Hà Nội, 2012. … Trong các nghiên cứu kể trên, những nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ: đổi mới hệ thống khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới cơ chế tài chính, kế hoạch hóa hoạt động khoa học và công nghệ, xây dựng thị trường khoa học và công nghệ đã được đề cập và phân tích từ các góc độ khác nhau. Kết quả những nghiên cứu này đã từng bước làm sáng tỏ các vấn đề về quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ và thúc đẩy quá trình đổi mới nó để đáp ứng nhu cầu của thực tế. Tuy nhiên đây là những nghiên cứu hoặc ở tầm vĩ mô, mang nặng tính lý thuyết hoặc chưa có những nghiên cứu ứng dụng cụ thể về đẩy mạnh quản lý nhiệm vụ khoa 8 học và công nghệ phù hợp với điều kiện của tỉnh Quảng Ninh. Trong thời gian qua, các nghiên cứu về đổi mới chính sách trong quản lý khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thực hiện rất hạn chế. Ở phạm vi một địa phương, những vấn đề nghiên cứu về phương pháp luận thường ít được chú ý. Những nghiên cứu liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ của Quảng Ninh trong những năm gần đây có thể kể đến là: + “Điều tra, đánh giá và xây dựng cơ sở dữ liệu về trình độ công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” – Trần Mạnh Ẩm, 2006; + Năm 2007, tác giả Trần Văn Minh đã thực hiện luận văn thạc sỹ “Nghiên cứu phương pháp xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ cấp tỉnh, áp dụng cho tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006 ÷2020”; + Năm 2010, Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ đã chủ trì nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu chính sách hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong điều kiện hội nhập quốc tế”; + Năm 2010, tác giả Trần Văn Minh đã chủ trì thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng Chợ công nghệ và thiết bị tỉnh Quảng Ninh trên mạng Internet”, đây cũng là một phần trong nghiên cứu Luận văn tiến sỹ “Nghiên cứu phát triển thị trường công nghệ cấp tỉnh, áp dụng cho tỉnh Quảng Ninh”. Những nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở tập hợp các số liệu thực ở Quảng Ninh, tuy nhiên nó cũng chỉ ở tầm vĩ mô hoặc chủ yếu nghiên cứu nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý khoa học không nhiều và liên quan đến quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ lại càng ít. Về vấn đề quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ, có thể kể đến các công trình nghiên cứu xây dựng quy chế quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của các tỉnh, thành phố trong cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Cao Bằng, Đà Nẵng… Những công trình nghiên cứu này tương đối sát thực và gần gũi với hoạt động quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng Ninh, tuy nhiên do đặc thù điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội khác nhau nên chỉ có thể là tài liệu tham khảo quý trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh 9 Quảng Ninh. Qua những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài tỉnh đã đề cập ở trên, có thể nói, đến nay, chưa có tác giả nào công bố các kết quả nghiên cứu về vấn đề quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng Ninh. Việc nghiên cứu quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ là nhiệm vụ cấp bách và cần thiết. Ở nước ngoài, các quy định quản lý, triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã được chú trọng. Các nước phát triển về khoa học và công nghệ như Mỹ, Ấn Độ, Singapor, Nhật Bản,... được coi là những nước đi tiên phong và đã giành được nhiều thành công trong việc nghiên cứu, quản lý, ban hành và sử dụng hiệu quả cơ chế chính sách về khoa học và công nghệ. Ở Việt Nam, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật về đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học vào trong các hoạt động thực tiễn nhằm góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong đó việc quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ là một trong những nội dung quan trọng có tính chất quyết định đến sự thành công của các chính sách, cơ chế cũng như các chương trình, đề án. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đang triển khai xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn để triển khai hoạt động khoa học và công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Nghị định số 08 của Chính phủ. Một số địa phương như Đà Nẵng, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hòa Bình,... đã xây dựng những quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ để ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào đời sống và sản xuất, tạo ra những sản phẩm mới, có giá trị kinh tế cao, đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế. Tuy nhiên, tại Quảng Ninh những quy định quản lý ban hành vẫn còn ở tầm vĩ mô, chưa thực sự sát với thực tiễn, do đó việc giải quyết, hướng dẫn cũng như triển khai thực hiện quản lý nhiệm vụ KH&CN trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn. Trong khuôn khổ đề tài, tác giả xin lựa chọn vấn đề quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh và cấp cơ sở có sử dụng ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ tỉnh để nghiên cứu. 10 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm đề xuất một số giải pháp quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có sử dụng ngân sách từ nguồn sự nghiệp khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh phục vụ cho phát triển khoa học và công nghệ nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung trong giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến 2030. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Những vấn đề lý luận và thực tiễn chung về quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở. - Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015. - Đề xuất một số giải pháp quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến 2030. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (nghiên cứu hồi cứu giai đoạn 2011-2015 để làm cơ sở cho việc xây dựng quy định quản lý nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến 2030). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát thực tế: Khảo sát thực tế tại các địa phương và một số đơn vị triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh và cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Nghiên cứu tài liệu: Các Nghị quyết và Chính sách của Đảng và Nhà nước về KH&CN; Cơ sở dữ liệu thống kê về kinh tế, hoạt động khoa học của Việt Nam và một số tỉnh thành cũng như Quảng Ninh về phát triển KH&CN. - Phương pháp phân tích, so sánh. - Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các nhà quản lý. 11 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa các lý luận về quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ cho công tác quản lý và triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ khác liên quan. - Ý nghĩa thực tiễn: + Đối với nhà quản lý: Là tài liệu tham khảo hữu ích để các nhà quản lý cụ thể hóa các chính sách cho việc quản lý nhiệm vụ KH&CN phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. + Đối với người lao động: Là tài liệu tham khảo hữu ích để triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cũng như cơ chế, chính sách liên quan đến lĩnh vực của mình, phục vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 7. Cơ cấu của luận văn Toàn bộ nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương, gồm có 6 hình và 4 bảng. Cụ thể: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn chung về quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ; - Chương 2: Thực trạng quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2015; - Chương 3: Đề xuất một số giải pháp quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2030. 12 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Chương này sẽ trình bày một cách có chọn lọc những vấn đề lý luận cũng như các quy định của nhà nước về quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Đây là những vấn đề lý thuyết cơ bản về đối tượng nghiên cứu, từ đó có thể hệ thống hóa và làm rõ đối tượng nghiên cứu, làm cơ sở cho việc đánh giá và đề xuất các vấn đề về quản lý nhiệm vụ KH&CN trong những chương tiếp theo. 1.1. Các khái niệm công cụ 1.1.1. Khoa học và công nghệ (KH&CN) Theo UNESCO, khoa học là một tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy luật khách quan, về sự tồn tại và phát triển của chúng trên cơ sở thực tiễn. Các lĩnh vực KH&CN bao gồm: Khoa học tự nhiên; Khoa học xã hội, Nhân văn; Khoa học kỹ thuật và công nghệ; Khoa học Nông nghiệp; Khoa học Y dược. Theo Luật Khoa học và Công nghệ của Việt Nam (2013), khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo ESCAP: Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Theo Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam (2017), công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Các thành phần công nghệ gồm các yếu tố: Kỹ thuật (Technoware), Con người (Humanware), Thông tin (Inforware) và Tổ chức (Organware). 1.1.2. Hoạt động khoa học và công nghệ Theo UNESCO và OECD, hoạt động KH&CN là hoạt động có hệ thống, có liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức KH&CN vào đời sống, xã hội. Hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT) và dịch vụ KH&CN. Theo nghĩa hẹp hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động NC&PT và dịch vụ KH&CN. 13 1.1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ Theo UNESCO và OECD, hoạt động NCKH&PTCN là tập hợp các hoạt động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức bao gồm các kiến thức có liên quan đến con người, tự nhiên và xã hội, nhằm sử dụng các kiến thức mới để để tạo ra những áp dụng mới. Hoạt động NCKH&PTCN bao gồm hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động triển khai thực nghiệm. Luật Khoa học và Công nghệ (2013) đưa ra quy định, hoạt động KH&CN bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ. 1.1.4. Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) Theo UNESCO và OECD: NCKH có thể xác định là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức khoa học và nhằm áp dụng chúng vào thực tiễn. NCKH bao gồm hai hoạt động kế tiếp nhau: Nghiên cứu cơ bản (NCCB) và Nghiên cứu ứng dụng (NCƯD). Trong đó, NCCB có thể xác định là bất kỳ công tác thực nghiệm hoặc lý thuyết nào được tiến hành nhằm đạt được những kiến thức mới về các hiện tượng, thực tế quan sát được mà chưa có một NCƯD hoặc vận dụng đặc biệt nào. NCƯD được xác định như là một nghiên cứu đầu tiên được tiến hành nhằm đạt được những kiến thức mới nhưng chủ yếu có một mục đích hoặc một mục tiêu thực tiễn đặc thù. 1.1.5. Hoạt động triển khai thực nghiệm (TKTN) Theo UNESCO và OECD, triển khai thực nghiệm có thể xác định như là một hoạt động có hệ thống nhằm vận dụng các kiến thức NCKH đạt được và/hoặc kinh nghiệm thực tiễn có được để tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới, phương pháp tiến hành mới, hệ thống dịch vụ mới và nhằm cơ bản hoàn thiện những gì đã hoặc đang sử dụng hoặc sản xuất. Hoạt động triển khai thực nghiệm gồm: chế thử đầu tiên; pilốt; sản xuất thử nghiệm,.. 1.1.6. Hoạt động sản xuất thử nghiệm Theo Luật KH&CN (2013), sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới 14 trước khi đưa vào sản xuất và đời sống. 1.1.7. Hoạt động phát triển công nghệ Theo Luật KH&CN (2013), phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. 1.1.8. Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ (DVKH&CN) Theo UNESCO, DVKH&CN có thể được xác định như là tập hợp tất cả các hoạt động liên quan đến hoạt động NCKH&PTCN và góp phần vào việc tạo ra, truyền bá và áp dụng các kiến thức KH&CN. Theo Luật KH&CN (2013), DVKH&CN là các hoạt động phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức KH&CN và kinh nghiệm thực tiễn. 1.1.9. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ Nhiệm vụ KH&CN là những vấn đề KH&CN cần được giải quyết, được tổ chức thực hiện dưới hình thức Đề tài, Dự án sản xuất thử nghiệm, Chương trình do một người hoặc một nhóm người thực hiện. Mỗi hình thức có mục đích và công năng khác nhau. Đề tài KH&CN là nhiệm vụ KH&CN có nội dung chủ yếu là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn, bao gồm đề tài nghiên cứu cơ bản, đề tài nghiên cứu ứng dụng, đề tài triển khai thực nghiệm hoặc kết hợp nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm. Dự án sản xuất thử nghiệm là nhiệm vụ KH&CN nhằm ứng dụng kết quả NC&PT để thử nghiệm các giải pháp, phương pháp, mô hình quản lý kinh tế - xã hội hoặc sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống. Dự án KH&CN là nhiệm vụ KH&CN giải quyết các vấn đề KH&CN chủ yếu phục vụ việc sản xuất một sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm trọng điểm, chủ lực có tác động nâng cao trình độ công nghệ của một ngành, một lĩnh vực và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được triển khai dưới hình thức đề tài 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan