Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh nam định...

Tài liệu Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh nam định

.PDF
103
438
140

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN VĂN ĐỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, được trích dẫn rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào./. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Văn Đức 2 LỜI CẢM ƠN Sau 2 năm học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia - Bộ Nội vụ, được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS.TS. Vũ Đức Đán; sự giúp đỡ của các đồng chí Lãnh đạo Sở Tư pháp Nam Định, các đồng chí Lãnh đạo các đơn vị thuộc Sở Tư pháp và đồng nghiệp cơ quan Sở, đến nay, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ Quản lý công, đề tài “Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định”. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo của các Giáo sư, Tiến sỹ, các thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia – Bộ Nội vụ; Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia – Bộ Tư pháp; Văn phòng UBND tỉnh Nam Định; các đồng chí Lãnh đạo Sở Tư pháp Nam Định, các đồng chí Lãnh đạo các đơn vị thuộc Sở Tư pháp và đồng nghiệp cơ quan Sở trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này. Mặc dù, bản thân đã có nhiều cố gắng song không tránh khỏi những hạn chế khi thực hiện Luận văn. Kính mong quý thầy, cô tiếp tục giúp đỡ; các nhà nghiên cứu và các đồng nghiệp tham gia, đóng góp ý kiến để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn./. Tác giả 3 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1 Mục lục 3 Danh mục chữ viết tắt 5 MỞ ĐẦU 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP 12 1.1 Những khái niệm cơ bản 12 1.2 Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 17 1.3 Nội dung quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 22 1.4 Quy định pháp luật của một số nước về Lý lịch tư pháp 36 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 2.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định 2.2 42 42 Kết quả quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định 45 2.3 Đánh giá quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định 66 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 3.1 Dự báo công tác Lý lịch tư pháp trong thời gian tới 3.2 Phương hướng bảo đảm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định 73 73 74 4 3.3 Giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định 75 KẾT LUẬN 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 PHỤ LỤC 99 5 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT LLTP Lý lịch tư pháp CSDL Cơ sở dữ liệu CSDL LLTP Cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp CNTT Công nghệ thông tin UBND Uỷ ban nhân dân 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Trong quản lý Nhà nước về trật tự xã hội nói chung và trong hoạt động tư pháp nói riêng, việc ghi nhớ án tích của những người bị kết án là rất cần thiết. Bất cứ Nhà nước nào cũng cần có sự “phân loại” công dân của mình theo tiêu chí thái độ của công dân đối với pháp luật. Một công dân gương mẫu chấp hành pháp luật cần phải được cộng đồng xã hội trân trọng. Trái lại, một công dân thường xuyên vi phạm pháp luật thì Nhà nước và xã hội ngoài việc áp dụng những dạng, mức trách nhiệm pháp lý tương ứng, cũng cần có chính sách theo dõi, quản lý đặc biệt hơn, hạn chế hơn việc tham gia một số quan hệ nhất định đối với người đó. Những quan hệ pháp luật mà người chưa được xóa án tích không được phép tham gia thường là những quan hệ dễ có khả năng bị những công dân này phương hại, gây hậu quả xấu cho các chủ thể khác trong mối quan hệ đó và thậm chí ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Có thể nói, phần lớn các vi phạm hình sự đều bị coi là tội phạm. Vì vậy, bất kỳ Nhà nước nào cũng có những hạn chế và thử thách nhất định đối với những người vi phạm pháp luật hình sự sau khi thi hành xong bản án. Trong hoạt động tư pháp, việc ghi nhớ án tích có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định nhân thân của người bị tình nghi phạm tội. Chính sách hình sự của các quốc gia thường có sự phân hóa đường lối xử lý với người tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Trong lịch sử thế giới, có những hình thức ghi nhớ án tích rất khác nhau. Thời cổ đại, có những cách ghi nhớ án tích của những người bị kết án bằng việc để lại dấu tích trực tiếp trên thân thể kẻ phạm tội. Ví dụ việc thích chữ lên mặt phạm nhân là hình thức ghi nhớ án phạm để tất cả mọi người đều biết. Cũng có trường hợp hình phạt đồng thời là ghi nhớ án tích như chặt ngón tay, chặt bàn tay của người phạm tội trộm cắp, biển thủ công quỹ… 7 Như vậy, việc lập ra LLTP với tư cách là một loại văn bản của Nhà nước xác định việc công dân có hay không có án tích là hình thức ghi nhớ án tích của thời kỳ văn minh, là sản phẩm của văn minh. Là hình thức ghi nhớ án tích một cách văn minh, tính chất văn minh của án tích được thể hiện ở hai phương diện: Tiết kiệm được thời gian, nhân lực, vật lực của bộ máy Nhà nước, bảo đảm cho công tác thống kê, lưu trữ, tra cứu được gọn nhẹ hơn, khoa học hơn. Thể hiện được tính nhân văn của Nhà nước khi không cắt bỏ hay gây biến dạng cơ thể người phạm tội để khắc ghi dấu ấn phạm tội của người đó, giúp cho người phạm tội không bị đau đớn về thể xác và quan trọng hơn, giúp cho họ không bị mặc cảm và kỳ thị để tái hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. Ở bình diện chung, LLTP có thể được coi là một công cụ giúp Nhà nước quản lý trật tự xã hội, quản lý con người, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bởi những người đã từng có những hành vi tiêu cực đối với xã hội ở mức độ nghiêm trọng. Quản lý con người qua LLTP giúp cho các quan hệ xã hội được phát triển lành mạnh, bền vững, theo khuôn khổ của pháp luật, qua đó góp phần phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Ở góc độ cá nhân, LLTP cũng là cách để công dân đòi hỏi sự đối xử công bằng, minh bạch từ phía các cơ quan Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền dân sự - chính trị, yêu cầu Nhà nước phải đảm bảo cho họ được làm các công việc mà pháp luật không cấm nếu họ xuất trình được LLTP chứng minh họ không có án tích. LLTP là một hình thức quản lý con người hiện đại trong một xã hội dân sự khi mà quyền công dân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ. Thực tế cho thấy, việc quản lý LLTP ở nước ta còn có những hạn chế. Việc thông tin LLTP nằm rải rác ở nhiều các cơ quan khác nhau như cơ quan 8 Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Công an, cơ quan Thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan đã gây khó khăn cho việc quản lý thông tin LLTP thống nhất, đầy đủ. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nam Định, thông tin LLTP của những người bị kết án cư trú tại địa phương cũng không phải ngoại lệ, dẫn đến việc tra cứu, xác minh thông tin LLTP về án tích của công dân gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc cấp Phiếu LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do đó, để quản lý LLTP tại tỉnh Nam Định được thống nhất, đầy đủ, việc xây dựng CSDL LLTP tập trung tại Sở Tư pháp Nam Định là công việc đặc biệt quan trọng, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, duy trì ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định”, qua đó đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về LLTP tại tỉnh Nam Định làm đề tài tốt nghiệp cao học, chuyên ngành quản lý công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong những năm qua, lĩnh vực LLTP đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý. Đã có nhiều công trình khoa học được công bố trên các Tạp chí liên quan đến LLTP như: Tác giả Đào Thị Minh Thủy về “Công tác cung cấp thông tin Lý lịch tư pháp của Tòa án, thực trạng và một số kiến nghị”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 4/2014. Tác giả Nguyễn Minh Đức về “Lý lịch tư pháp, nhìn từ góc độ công tác thống kê tội phạm của Ngành Kiểm sát”, đăng trên Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 10/2008. 9 Tác giả Nguyễn Văn Hoàn về “Quy định của pháp luật thi hành án hình sự với công tác quản lý Lý lịch tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp 2012. Tác giả Nguyễn Huy Mạ về “Vai trò của cơ quan Công an trong tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp 2014. Tác giả Đỗ Thị Thúy Lan về “Thực tiễn công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 4/2014. Qua đó thấy rằng, các nghiên cứu về lĩnh vực LLTP tập trung chủ yếu đề cập dưới góc độ của các ngành liên quan, hoặc một số nội dung cơ bản của pháp luật về LLTP, có ít nghiên cứu toàn diện các nội dung quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP tại một địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó đã có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt nhiều nội dung về công tác LLTP của các nghiên cứu sẽ được kế thừa, hoặc được tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ trong quá trình nghiên cứu công tác LLTP tại một địa phương cụ thể của Luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP trên địa bàn tỉnh Nam Định. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống cơ sở lý luận quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP. - Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP trên địa bàn tỉnh Nam Định; những kết quả đạt được và hạn chế cần khắc phục. - Đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP trên địa bàn tỉnh Nam Định. 10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về lĩnh vực LLTP và thực tiễn quá trình quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP trên địa bàn tỉnh Nam Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Nam Định. - Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực LLTP để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp khái quát hóa, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử và lôgic. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn được thể hiện qua một số nội dung chính như sau: 6.1. Ý nghĩa lý luận Hệ thống hóa để làm rõ những cơ sở lý luận công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian qua, những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại. 11 - Đưa ra được một số phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực LLTP tại tỉnh Nam Định. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy về lĩnh vực LLTP. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về lĩnh vực Lý lịch tư pháp. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định. Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định. 12 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÝ LỊCH TƯ PHÁP 1. 1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1. Án tích và việc ghi nhớ án tích Thông thường, LLTP được hiểu là lý lịch về một cá nhân công dân trong đó có những thông tin chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định việc người đó có án tích hay không. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có những quy định giải thích về khái niệm án tích. Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nước ta không có sự giải thích thuật ngữ án tích nhưng tại chương IX của Bộ luật hình sự có quy định về xóa án tích. Theo đó, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Như vậy, sự khác nhau giữa người có án tích và người không có án tích (kể cả người đã được xóa án tích) là ở chỗ người đó có bị coi là đã bị kết án hay chưa. Nội dung này liên quan đến một khái niệm khác trong pháp luật về hình sự, đó là khái niệm tiền án. Khoản 2, Điều 224 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trong bản án cần phải ghi rõ:…họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo…”. Người có tiền án là người đã bị kết án và chưa được xóa án, đang bị coi là có án tích. Khái niệm án tích cũng liên quan đến các khái niệm “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” quy định tại Điều 49 Bộ luật hình sự. Án tích là một khái niệm dùng để chỉ việc phạm tội trong quá khứ của một người đã bị Tòa án có thẩm quyền tuyên bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật và chưa được xóa án. Nói cách khác, án tích là dấu tích thể hiện việc một người đã từng bị kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật mà chưa được xóa án. Trong quản lý Nhà nước về trật tự xã hội nói chung và trong hoạt động tư pháp nói riêng, việc ghi nhớ án tích của những người bị kết án là rất cần thiết. Bất cứ Nhà nước nào cũng cần có sự “phân loại” công dân của mình theo tiêu 13 chí thái độ của công dân đối với pháp luật. Một công dân gương mẫu chấp hành pháp luật cần phải được cộng đồng xã hội trân trọng. Trái lại, một công dân thường xuyên vi phạm pháp luật thì Nhà nước và xã hội ngoài việc áp dụng những dạng, mức trách nhiệm pháp lý tương ứng, cũng cần có chính sách theo dõi, quản lý đặc biệt hơn, hạn chế hơn việc tham gia một số quan hệ nhất định đối với người đó. Những quan hệ pháp luật mà người chưa được xóa án tích không được phép tham gia thường là những quan hệ dễ có khả năng bị những công dân này phương hại, gây hậu quả xấu cho các chủ thể khác trong mối quan hệ đó và thậm chí ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Có thể nói, phần lớn các vi phạm hình sự đều bị coi là tội phạm. Vì vậy, bất kỳ Nhà nước nào cũng có những hạn chế và thử thách nhất định đối với những người vi phạm pháp luật hình sự sau khi thi hành xong bản án. Trong hoạt động tư pháp, việc ghi nhớ án tích có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định nhân thân của người bị tình nghi phạm tội. Chính sách hình sự của các quốc gia thường có sự phân hóa đường lối xử lý với người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, ví dụ, Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng…”. Cụ thể hóa đường lối xử trên, Điều 45 Bộ luật hình sự quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Trong lịch sử thế giới có những hình thức ghi nhớ án tích rất khác nhau. Thời cổ đại, có những cách ghi nhớ án tích của những người bị kết án bằng việc để lại dấu tích trực tiếp trên thân thể kẻ phạm tội. Ví dụ việc thích chữ lên mặt phạm nhân là hình thức ghi nhớ án phạm để tất cả mọi người đều biết. Cũng có 14 trường hợp hình phạt đồng thời là ghi nhớ án tích như chặt ngón tay, chặt bàn tay của người phạm tội trộm cắp, biển thủ công quỹ… Như vậy, việc lập ra LLTP với tư cách là một loại văn bản của Nhà nước xác định việc công dân có hay không có án tích là hình thức ghi nhớ án tích của thời kỳ văn minh, là sản phẩm của văn minh. Là hình thức ghi nhớ án tích một cách văn minh, tính chất văn minh của án tích được thể hiện ở hai phương diện: Thứ nhất, nó tiết kiệm được thời gian, nhân lực, vật lực của bộ máy Nhà nước, bảo đảm cho công tác thống kê, lưu trữ, tra cứu được gọn nhẹ hơn, khoa học hơn. Thứ hai, nó thể hiện được tính nhân văn của Nhà nước khi không cắt bỏ hay gây biến dạng cơ thể người phạm tội để khắc ghi dấu ấn phạm tội của người đó, giúp cho người phạm tội không bị đau đớn về thể xác và quan trọng hơn, giúp cho họ không bị mặc cảm và kỳ thị để tái hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. 1.1.2. Khái niệm Lý lịch tư pháp LLTP (trong tiếng Pháp: Le casier judiciaire) có nghĩa là cái tủ có nhiều ngăn chứa đựng những phán quyết của Tòa án. Một Thẩm phán người Pháp đã nghĩ ra cách ghi nhớ các án tích của người bị kết án bằng cách lưu trữ các phán quyết của Tòa án đối với người đó và trong một ngăn tủ riêng ghi tên của người đó (để tránh nhầm lẫn án tích của người này với người khác). LLTP là một khái niệm mang tính lịch sử xã hội. Trước đây, LLTP chủ yếu được hiểu là LLTP về án tích của công dân nhằm xem xét việc người đó đã từng bị kết án bởi một bản án hình sự hay không. Criminal record trong tiếng Anh có nghĩa là lý lịch (hồ sơ) về hình sự, là hồ sơ ghi nhớ các phán quyết về hình sự của Tòa án đối với một người cụ thể. Nhìn chung, khái niệm LLTP của nhiều nước đồng nhất với khái niệm lý lịch hình sự, nói cách khác, là lý lịch ghi nhớ các phán quyết về hình sự của Tòa án đối với người phạm tội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của 15 xã hội, đặc biệt khi các giao dịch kinh doanh – thương mại ngày một thể hiện vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại, việc lưu giữ, theo dõi và sử dụng các thông tin về một cá nhân công dân trong quá khứ đã từng bị Tòa án cấm hành nghề hoặc đảm nhiệm một số chức vụ, công việc như thành lập, quản lý doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, khái niệm LLTP được mở rộng ra khỏi lĩnh vực tư pháp hình sự mà bao gồm cả các lĩnh vực tư pháp phi hình sự. Cũng như pháp luật của nhiều quốc gia có nền hành chính – tư pháp phát triển và phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật LLTP của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đưa ra khái niệm LLTP như sau: LLTP là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nhiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Khái niệm trên xác định hai nội dung chính của LLTP: - LLTP là lý lịch về án tích của người bị kết án; - LLTP là lý lịch về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Ở nội dung thứ nhất, LLTP là nguồn thông tin chính thức về tình trạng tiền án của bị cáo để Tòa án xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với họ khi giải quyết những vụ việc cụ thể. Xét theo góc độ này, thì những thông tin về LLTP có giá trị chứng minh bị cáo tái phạm hay không tái phạm, có thể coi LLTP là một công cụ góp phần bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tố tụng hình sự. Khẳng định một người không có án tích khi đã được xóa án tích, LLTP góp phần bảo đẳm nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” được quy định tại Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự, qua đó, thể hiện tính chất nhân đạo của pháp luật. 16 Trong giai đoạn thi hành án hình sự, LLTP giúp cho cơ quan thi hành án biết được quá khứ nhân thân của người thụ án, những đặc điểm phạm tội của họ… để có biện pháp giáo dục, cải tạo họ một cách thích hợp. Đặc biệt, LLTP giúp cho các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục đối với những người phải thi hành các hình phạt khác không phải là hình phạt tù như: Cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân… thuận lợi hơn khi thực hiện nhiệm vụ. Ở nội dung thứ hai, LLTP còn là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế… xem xét đạo đức, tư cách của cá nhân trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể liên quan đến cá nhân đó như bầu cử, ứng cử, tuyển dụng nhân sự, đăng ký kinh doanh, làm thủ tục xuất, nhập cảnh… Chính vì vậy, ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong những năm gần đây, pháp luật thường quy định việc công dân phải xuất trình Phiếu LLTP khi tham gia vào một số quan hệ xã hội cụ thể. Ở bình diện chung, LLTP có thể được coi là một công cụ giúp Nhà nước quản lý trật tự xã hội, quản lý con người, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bởi những người đã từng có những hành vi tiêu cực đối với xã hội ở mức độ nghiêm trọng. Quản lý con người qua LLTP giúp cho các quan hệ xã hội được phát triển lành mạnh, bền vững, theo khuôn khổ của pháp luật, qua đó góp phần phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Ở góc độ cá nhân, LLTP cũng là cách để công dân đòi hỏi sự đối xử công bằng, minh bạch từ phía các cơ quan Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các quyền dân sự - chính trị, yêu cầu Nhà nước phải đảm bảo cho họ được làm các công việc mà pháp luật không cấm nếu họ xuất trình được LLTP chứng minh họ không có án tích. LLTP là một hình thức quản lý con 17 người hiện đại trong một xã hội dân sự khi mà quyền công dân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ. 1.2. Quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp 1.2.1. Chủ thể quản lý Lý lịch tư pháp Ch nh phủ Theo quy định của Hiến pháp, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân. Mặt khác, khoản 1, Điều 9 Luật LLTP quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp” [1]. Như vậy, chủ thể cao nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động LLTP thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao Khoản 2, Điều 9 Luật LLTP quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm phối hợp với Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp” [1]. 1 3 Bộ Tư pháp Khoản 3, Điều 9 Luật LLTP giao Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về LLTP. Theo đó, Bộ Tư pháp có các nhiệm vụ, quyền hạn như: - Trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực LLTP. 18 - Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về LLTP; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về LLTP; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác LLTP. - Thực hiện việc quản lý CSDL LLTP tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Trung tâm. - Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về LLTP; kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về LLTP. Ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về LLTP. - Triển khai thực hiện việc ứng dụng CNTT trong xây dựng CSDL LLTP. Hợp tác quốc tế về lĩnh vực LLTP. Báo cáo Chính phủ về hoạt động quản lý LLTP. 1.2.1.4. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ Khoản 4, Điều 9 Luật LLTP quy định: “Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về Lý lịch tư pháp [1]. 5 Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Theo quy định khoản 5, Điều 9 Luật LLTP, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về LLTP tại địa phương. Theo đó, UBND cấp tỉnh có các nhiệm vụ, quyền hạn như: - Thực hiện chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về LLTP; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực LLTP. - Bảo đảm về biên chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho hoạt động quản lý LLTP tại địa phương. - Thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về LLTP theo thẩm quyền. 19 - Triển khai việc ứng dụng CNTT trong hoạt động xây dựng CSDL LLTP và quản lý LLTP theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp; báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động quản lý LLTP tại địa phương. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư Pháp, Bộ Nội vụ xác định Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác LLTP tại địa phương. Sở Tư pháp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, trong đó có lĩnh vực LLTP. Sở Tư pháp có 34 nhiệm vụ và quyền hạn về công tác Tư pháp tại địa phương, trong đó có công tác LLTP theo quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV. 6 Ủy ban nhân dân cấp huyện Trong việc thực hiện công tác Tư pháp, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư Pháp, Bộ Nội vụ, Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; hộ tịch… và công tác Tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Phòng Tư pháp có 26 nhiệm vụ và quyền hạn về công tác Tư pháp, trong đó có các nhiệm vụ liên quan đến công tác LLTP như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về LLTP; tham mưu UBND cấp huyện ban hành và gửi Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên cho cơ quan quản lý CSDL LLTP. 7 Ủy ban nhân dân cấp xã 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan