Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh đăk nông...

Tài liệu Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh đăk nông

.PDF
121
472
124

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH THỊ CÁT TƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH THỊ CÁT TƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. ĐINH VĂN TIẾN HÀ NỘI - NĂM 2017 LỜI CẢM ƠN Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công với đề tài: "Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông" là kết quả của quá trình cố gắng, nghiên cứu không ngừng của bản thân tác giả và được sự giúp đỡ nhiệt tình, sự động viên khích lệ từ Ban lãnh đạo Học viện Hành chính Quốc gia, cùng các thầy giáo, cô giáo khoa sau đại học và các khoa, phòng, của Học viện. Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban lãnh đạo Học viện Hành chính quốc gia cùng các thầy giáo, cô giáo ở Học viện đã chỉ dạy và tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành khóa học. Đặc biệt, tác giả xin tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đối với GS.TS Đinh Văn Tiến đã hết lòng tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu, thông tin khoa học cần thiết để tác giả có thể hoàn thành tốt đẹp công trình nghiên cứu khoa học này. Tác giả hy vọng rằng những kiến thức đã được học tập và nghiên cứu sẽ giúp tác giả rất nhiều trong cuộc sống. Rất mong nhận được sự cảm thông cùng những ý kiến đóng góp chân thành của các thầy giáo cô giáo cùng các bạn học viên đang học tập tại Học viện. Đắk Lắk, ngày 23 tháng 3 năm 2017 Tác giả Huỳnh Thị Cát Tường LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tác giả, các số liệu trong luận văn là trung thực, khách quan, khoa học, dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế và các tài liệu đã được công bố. Đắk Lắk, ngày 23 tháng 3 năm 2017 Tác giả Huỳnh Thị Cát Tường MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục Bảng danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.2. Các loại hình lễ hội theo quy định hiện hành 1.3. Những vấn đề chung về lễ hội 1.3. Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội 1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội ở một số tỉnh, thành phố và những bài học rút ra cho tỉnh Đắk Nông TIỂU KẾT CHƯƠNG I Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG 2.1. Khái quát chung về tỉnh Đắk Nông 2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông 2.3. Đánh giá chung TIỂU KẾT CHƯƠNG II Chương 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG 3.1. Quan điểm của Đảng đối với hoạt động lễ hội 3.2. Định hướng của Nhà nước và của tỉnh Đắk Nông đối với hoạt động lễ hội 3.3. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông 3.4. Một số kiến nghị TIỂU KẾT CHƯƠNG III KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 9 9 16 16 23 33 39 40 40 49 64 77 79 79 83 88 97 100 101 103 108 BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐND Hội đồng nhân dân QLNN Quản lý nhà nước VHTT Văn hóa Thông tin VHTT&DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc dân tộc độc đáo riêng. Là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc anh em nên Việt Nam có một hệ thống đồ sộ và đặc sắc về các lễ hội. Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam thì hoạt động về lễ hội là lĩnh vực văn hóa rất nổi bật, bởi lẽ nó giúp cho người dân Việt Nam ta nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng cuộc sống an lành, yên vui. Đắk Nông là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên của Việt Nam, cũng có đông dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn, nên hoạt động về lễ hội ở đây cũng hết sức độc đáo và nổi bật mang nhiều nét đặc sắc, đậm nét truyền thống và bản sắc riêng của các dân tộc tại chỗ là M’Nông, Ê Đê, Mạ với nhiều lễ hội như: Lễ hội đâm trâu, Lễ mừng nhà mới, Lễ cúng thần nước, Lễ hội cồng chiêng… Nét đặc sắc trong kho tàng văn hóa của Đắk Nông có nhiều điểm tương đồng với tỉnh Đắk Lắk (do được tách ra từ tỉnh Đắk Lắk) và mang đặc trưng của khu vực Tây nguyên như: những bộ sử thi (trường ca Đam san, Xinh Nhã, Đam Kteh…), những phong tục cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông, tượng nhà mồ, các nhạc cụ truyền thống (cồng chiêng, đàn đá, đàn T’rưng…). Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Nông đã có sự quan tâm và chỉ đạo sâu sắc đến các hoạt động về lễ hội trên địa bàn tỉnh, đã đề ra nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách đúng đắn để nhằm gìn giữ, phát huy và bảo tồn các hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh. Bởi lẽ, lễ hội mang trong mình tính giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương, tự hào dân tộc, xây dựng tinh thần đoàn kết trong cộng đồng. Vì thế mà, lễ hội được xem là một hoạt động văn hóa đặc biệt và nhạy cảm, nên rất cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, nhằm đảm bảo 1 các hoạt động này diễn ra lành mạnh, đúng bản chất, không bị biến tướng, lợi dụng và xuyên tạc nội dung. Công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh đã gặt hái được nhiều kết quả khả quan, đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm và đã đạt được thì vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra trước mắt cần phải quan tâm. Quan trọng nhất là các hình thái tổ chức lễ hội ngày càng mai một dần, nét đặc trưng, đặc sắc vốn có làm nên tinh thần của lễ hội dần dần được chuyển đổi hoặc thay thế, người dân đặc biệt là lớp trẻ hiện nay không còn mặn mà với truyền thống, không biết tiếp thu và giữ gìn các truyền thống quý báu của cha ông đi trước đã để lại, và hơn hết thảy đó là dựa vào các hoạt động lễ hội của đồng bào các dân tộc, kẻ xấu đã lợi dụng xuyên tạc và kích động. Điều đó đặt ra cho công tác QLNN là làm sao phải đưa các lễ hội hết sức đặc trưng này diễn ra đúng với giá trị cao đẹp vốn có của nó. Điều này có ý nghĩa chiến lược tới sự phát triển của văn hóa tỉnh Đắk Nông nói riêng và của cả nước nói chung trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong tiến trình hội nhập với thế giới, đồng thời làm cho nền tảng tinh thần của xã hội ngày càng vững chắc, tiến bộ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của nhân dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông” làm đề tài viết luận văn thạc sĩ Quản lý công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Vấn đề về QLNN về hoạt động lễ hội nói chung trên phạm vi quốc gia và phạm vi địa phương cụ thể là đề tài được nhiều cơ quan, ban ngành, học giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều đề tài khoa học có giá trị về lý luận cũng như thực tiễn cao góp phần bổ sung, ứng dụng vào việc tăng cường công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên phạm vi cả nước nói chung và của từng 2 địa phương cụ thể nói riêng. Chúng ta có thể điểm qua một số công trình, đề tài tiêu biểu đã được công bố sau đây: Lê Như Hoa (2004), “Quản lý lễ hội dân gian cổ truyền - thực trạng và giải pháp”, đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài đã nêu lên được cơ sở lý luận về lễ hội dân gian cổ truyền - một di sản văn hóa của dân tộc. Đề tài cũng đã phân tích rõ thực trạng và những nhận thức về quản lý lễ hội dân gian cổ truyền ở nước ta hiện nay. Và điểm nhấn mạnh của đề tài là những giải pháp cụ thể và mang tính vận dụng cao đối với công tác quản lý lễ hội góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa - du lịch. TS. Nguyễn Quang Lê (2009), “Nhận diện bản sắc văn hóa qua một số lễ hội truyền thống của người Việt”, đề tài khoa học cấp Bộ. Nội dung công trình gồm 7 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản; Chương 2: Lớp văn hóa bản địa - nền tảng của bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt; Chương 3: Lớp giao lưu văn hóa với phật giáo trong bản sắc văn hóa: Lễ hội chùa; Chương 4: Lớp giao lưu văn hóa với Đạo giáo trong bản sắc văn hóa: Lễ hội thờ các vị thánh bất tử và Đức Thánh Trần; Chương 5: Lớp giao lưu văn hóa với Nho giáo trong bản sắc văn hóa: Thể chế hóa hệ thống nghi lễ trong lễ hội; Chương 6: Lớp giao lưu văn hóa với tín ngưỡng Chăm trong bản sắc văn hóa người Việt; Chương 7: Việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội Việt Nam hiện đại. GS.TS. Lê Hồng Lý (2014), “Vai trò của Nhà nước đối với lễ hội dân gian hiện nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số (6), tr. 3-7. Bài viết đã khái quát chung nhất về hình thức của các lễ hội dân gian cũng như thống kê về các lễ hội dân gian tại Việt Nam. Nêu lên được vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức các lễ hội dân gian. Tuy nhiên sự tham gia của Nhà nước vào công tác tổ chức lễ hội dân gian cũng có những bất cập từ việc tham gia này. Tác giả, đã nêu lên được những bất cập ấy, thông qua đó giúp đề cao được vai trò của nhà 3 nước, tránh những sai sót xảy ra trong công tác quản lý lễ hội dân gian của Nhà nước. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (2015), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Đây là công trình miêu tả khá toàn diện và có hệ thống. Nội dung cuốn sách được chia là 3 phần: Phần 1: miêu tả lễ hội của người Việt và lễ hội của các dân tộc thiểu số; Phần 2: bao gồm các câu ca, hội hè thường được trình diễn trong các lễ hội; Phần 3: Miêu tả các trò diễn, trò chơi, cuộc thi tài trong lễ hội. Thông qua đó, người đọc một lần nữa có cái nhìn hệ thống lại những trò diễn trong dân gian giữa các vùng miền trên cả nước. PGS.TS. Bùi Hoài Sơn (2012), “Lễ hội truyền thống - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, số 1(831), tr. 72-77. Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc sắc. Trong những năm vừa qua, đã có không ít người vội vã cho rằng, xã hội hiện đại với nhịp sống hối hả không còn phù hợp cho việc tổ chức các lễ hội truyền thống, các lễ hội này sẽ biến mất... Thực tế đã cho thấy điều ngược lại, các lễ hội truyền thống ngày càng được phục hồi, kịch bản được phục dựng và được tổ chức nhiều hơn, quy mô hơn, có tác động đến nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội. Bài viết đã nêu khá rõ thực trạng của các hoạt động lễ hội truyền thống hiện nay ở nước ta. Đồng thời bài viết cũng đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa. PGS.TS. Bùi Quang Thanh (2016), “Quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đối với lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng Sản, số 2(880), tr. 95-101. Đây là một bài viết khá hay, tác giả đã chỉ ra được thực trạng văn hóa lễ hội cổ truyền ở nước ta hiện nay, tài liệu còn có những số liệu thống kê về số lượng lễ hội cổ truyền ở nước ta, những điểm tích cực mới, những bất cập, những vấn đề phản văn hóa nào đang diễn ra, bài viết 4 cũng đề cập khá rõ. Tác giả bước đầu đi sâu khảo sát thực trạng hoạt động quản lý văn hóa tại một số di tích và địa phương tổ chức lễ hội mang tính phổ biến, đại diện, hiện hữu trong không gian văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, cho phép nhận diện một số vấn đề (cả lý luận lẫn thực tiễn) liên quan đến công tác quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đã và đang đặt ra ở Việt Nam lâu nay. Tác giả cũng nêu lên những nhận định sâu sắc từ những vấn đề đã và đang đặt ra đối với việc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý văn hóa với văn hóa quản lý trong phạm vi lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay. Nguyễn Thị Tuyến (2016) “Một số vấn đề đặt ra trong quản lý lễ hội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 4(382), tr. 3-6, 11. Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, có thể thấy việc tổ chức và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả cho cả nhà quản lý và cộng đồng. Bài viết đã nêu lên được thực tiễn quản lý lễ hội ở nước ta hiện nay. Cùng với những kết quả đạt được, việc quản lý lễ hội ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tác giả Nguyễn Thị Tuyến cũng phân tích rõ những hạn chế cùng nguyên nhân của những hạn chế đồng thời đưa ra được những nhận định về một số vấn đề đặt ra trong quản lý lễ hội ở nước ta hiện nay. PGS. Lê Trung Vũ, PGS.TS. Lê Hồng Lý (2000), Lễ hội Việt Nam, Nxb. Văn hóa - thông tin. Đây là công trình tập thể của nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu, biên khảo... Sách tập trung một cách hệ thống các bài viết về những lễ hội hiện còn duy trì trên đất nước Việt Nam, mặc dù trong số đó có một phần ngày nay đã thay đổi hoặc không còn được duy trì thường xuyên nữa. Thông qua những mô tả sinh động của các bài khảo cứu trong sách, chúng ta sẽ có một nhận thức khá đầy đủ về lễ hội Việt Nam ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Đây có thể xem là công trình biên khảo lớn nhất hiện nay về chủ để này. Ngoài ra, sách còn có thêm một phần phụ lục biên soạn về các 5 lễ hội lớn ở vùng Đông Nam Á. Những công trình nghiên cứu, các đề án, các bài viết, các cuộc hội thảo khoa học liên quan đến hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại Việt Nam đã nêu lên được cơ sở lý luận cũng như đánh giá được thực trạng công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại Việt Nam. Các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tư liệu quý giá để tham khảo, áp dụng và kế thừa rất đáng để trân trọng. Tuy nhiên, đề tài “Quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông” là một đề tài mới mang tính đặc thù riêng, nghiên cứu cụ thể mà chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu và làm rõ hơn nữa về lý luận cũng như thực tiễn công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông hiện nay, nhằm góp phần đưa công tác QLNN về hoạt động lễ hội của tỉnh vào vòng quay ổn định, bền vững hòa nhập với công cuộc phát triển văn hóa của các tỉnh Tây nguyên nói riêng và của cả nước nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xu hướng hội nhập góp phần xây dựng một bền văn hóa tinh thần ổn định và bền vững. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận chung về QLNN đối với hoạt động lễ hội như khái niệm, vai trò, chức năng... - Nghiên cứu kinh nghiệm của hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội của một số tỉnh, thành phố lân cận. - Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua, nêu lên những kết quả khả quan đã 6 đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất phương hướng, giải pháp phù hợp, khả thi với điều kiện vốn có của tỉnh nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông hiện nay, tầm nhìn đến năm 2030. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN có hiệu quả và hiệu lực về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội. - Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tinh Đắk Nông. - Về Thời gian: Nghiên cứu công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có sử dụng số liệu của giai đoạn trước để so sánh. Phương hướng, giải pháp cho QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới, tầm nhìn đến năm 2030. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê, so sánh. - Phương pháp điều tra, khảo sát, thực tiễn. Ngoài ra luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công tŕnh nghiên cứu khoa học đã được công bố. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung và cơ bản của hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. - Phân tích, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông, nêu ra những kết quả khả quan đã đạt được cũng như làm rõ những mặt khó khăn, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản, khả thi để áp dụng vào thực tiễn, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh trong thời gian tới. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan và cá nhân trong việc nghiên cứu, hoạch định chính sách bảo tồn, giữ gìn và phát huy các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. Chương 3: Quan điểm, định hướng và một số giải pháp quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. 8 Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về lễ hội Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam, thì lễ hội là nét văn hóa rất đặc trưng. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn được duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Đó là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng một cuộc sống tốt lành, yên vui. Lễ hội là những hoạt động, những sinh hoạt văn hóa mà ở đó có sự gắn kết không thể tách rời của cả nội dung và hình thức của cả hai thành tố cơ bản là Lễ và Hội. - Khái niệm về nghi lễ: Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu linh mà người ta thờ cúng [46, tr. 28]. - Khái niệm về hội: Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội của một cộng đồng dân cư nhất định, là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người dân tham dự theo phong tục truyền thống hoặc nhân những dịp đặc biệt. Những hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều kiện, khả năng và trình độ phát triển của địa phương, đất nước ở vào thời điểm diễn ra các sự kiện đó [46, tr. 31]. 9 Ngoài ra trong hoạt động lễ hội còn bao gồm một số thành tố khác như: hệ thống các tục hèm, các trò diễn dân gian, hoạt động hội chợ triển lãm, văn hóa ẩm thực… Các thành tố này luôn có sự gắn kết mật thiết, tương hỗ lẫn nhau, sự gắn kết này luôn có trục trung tâm là định hướng phát triển. Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục trung tâm đó để đạt được những mục tiêu nhất định, những mục tiêu này nhằm phục vụ lợi ích của cả cộng đồng, chứ không chỉ phục vụ lợi ích riêng của những người tổ chức lễ hội. Lễ hội là một hoạt động tập thể do quần chúng nhân dân tiến hành, bất kỳ lễ hội nào cũng gắn với các địa bàn dân cư cụ thể, là hoạt động văn hóa của một địa phương. Về cơ bản, lễ hội tại Việt Nam là những lễ hội làng nhưng cũng có nhiều lễ hội do nội dung và tính chất của nó nên được diễn ra trong một không gian rộng lớn hơn, có tính liên làng, liên vùng. Những hoạt động lễ hội này diễn ra không thường xuyên mà chỉ ở một vài thời điểm nhất định là vào mùa Thu hay mùa Xuân trong năm. Đây là thời điểm chuyển giao thời tiết, cũng là thời điểm chuyển giao mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Vào thời điểm này, người ta tổ chức hoạt động lễ hội nhằm các mục đích khác nhau. Trước hết, những hoạt động mang tính nghi lễ nhằm nhắc lại sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại đã diễn ra trong quá khứ. Đây chính là biểu hiện đạo lý truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc, thể hiện cách ứng xử văn hóa với thiên nhiên, thần thánh, con người thông qua các hoạt động trong lễ hội. Đó là những ứng xử của tập thể, của cộng đồng dân cư với cả hai đối tượng: siêu hình (thần thánh) và hữu hình (con người). Nó cũng phản ánh mối quan hệ giao thoa giữa siêu và thực, giữa con người với con người trong những hoàn cảnh và hoạt động cụ thể. Có nhiều khái niệm để nói về lễ hội như sau: Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của các tầng lớp nhân dân, diễn ra trong những chu kỳ 10 về không gian và thời gian nhất định để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trưng về sự kiện, nhân vật được thờ cúng. Những hoạt động này nhằm để tỏ rõ những ước vọng của con người, để vui chơi giải trí trong tính cộng đồng cao [46, Tr. 34]. Lễ hội chính là một hình thức “diễn xướng dân gian” mà ở đó bảo lưu các phong tục tập quán, lối sống, nếp sống. Các nghi thức, trình tự, nội dung và những hình thức diễn xướng trong các lễ hội mang đặc trưng văn hóa dân tộc vừa hàm chứa các nét đặc sắc của yếu tố bản địa, mang sắc thái địa phương, vùng miền. Phong tục tập quán của mỗi địa phương thể hiện nhịp điệu của cuộc sống xã hội [46, tr. 44]. Lễ hội là sự mô phỏng, tái hiện lại hình ảnh các nhân vật, sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ thông qua các hình thức diễn xướng dân gian, các trò diễn dân gian. Ở trong các hoạt động đó có sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân [46, tr. 82]. Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức như là một trò diễn, được thăng hoa, được liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, của tư tưởng và của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới hiện thực [52, tr. 330]. Từ các khái niệm nêu trên, có thể hiểu một cách khái quát nhất về lễ hội đó là: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong một khoảng thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện các ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên - thần thánh và con người trong xã hội” [46, tr. 35]. 1.1.2. Khái niệm về lễ hội truyền thống Muốn nghiên cứu về lễ hội truyền thống với tư cách là một thành tố đặc sắc của văn hóa dân gian, phải đặt nó trong môi trường nảy sinh ra nó đó 11 là môi trường đã sản sinh, nuôi dưỡng và sử dụng nó trong suốt chiều dài lịch sử. Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã. Lễ hội là nơi mà ở đó các yếu tố văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hóa truyền thống đó không ngừng được bổ sung và hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó là kết quả của cả quá trình lịch sử không chỉ của một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc kết, kiểm chứng và hoàn thiện trong suốt chiều dài lịch sử của bất kỳ cộng đồng dân cư nào. Tính cộng đồng và cố kết cộng đồng là đặc trưng cơ bản và là nét giá trị tiêu biểu của lễ hội truyền thống. Tính cộng đồng biểu hiện dưới nhiều cấp độ: Cộng đồng gia tộc - Cộng đồng làng xã, địa phương, vùng miền - Cộng đồng quốc gia, quốc tế hoặc cộng đồng theo các tổ chức tôn giáo tín ngưỡng... Tính cộng đồng là yếu tố quyết định, là sợi dây liên kết thống nhất và bền vững trong chu trình phát triển, gắn kết giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Bản chất của lễ hội là một sinh hoạt cộng đồng, trong môi trường như vậy, nó có điều kiện thể hiện vai trò tập hợp và quy tụ, gắn kết và điều phối mọi tầng lớp người trong một không gian văn hóa vốn thuộc về cộng đồng. Như vậy: “Lễ hội truyền thống còn được gọi là lễ hội dân gian hay lễ hội cổ truyền, thường tổ chức ở đình, chùa (chùa mang chức năng hội làng), đền, miếu, phủ, điện... trong các làng gọi là Hội làng, hoặc ngày nay ở thị trấn, tỉnh thành thì gọi là Hội đình, Hội đền, Hội phu, do dân làng, trước hết là các cụ - đại biểu của những tầng lớp trong cộng đồng làng, phường, phố tổ chức” [55, tr. 252]. Khái niệm trên đã phản ánh bản chất và nội dung của lễ hội truyền thống Việt Nam. Trước hết lễ hội truyền thống là sinh hoạt văn hóa cộng đồng, bởi vì đây là hoạt động văn hóa tập thể, thuộc về tập thể, do tập thể tổ chức tiến hành. Không bao giờ lễ hội chỉ thuộc về một nhóm người nào đó 12 trong xã hội. Dù ở bất cứ đâu, vào bất kỳ thời gian nào lễ hội cũng phải do đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành. Chính họ là những người sáng tạo chân chính những giá trị bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Họ là chủ nhân, đồng thời là người đánh giá, cảm nhận và hưởng thụ những thành quả sáng tạo văn hóa ấy. 1.1.3. Khái niệm về lễ hội hiện đại Lễ hội hiện đại chỉ ra đời kể từ sau năm 1945, những lễ hội này thường gắn với việc kỷ niệm các sự kiện có liên quan đến cách mạng, kháng chiến hoặc các danh nhân, anh hùng dân tộc có liên quan, tiêu biểu nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Hay nói một cách chung thì lễ hội hiện đại là những lễ hội được ra đời từ sau năm 1945 ở Việt Nam mà nội dung và tính chất của nó liên quan đến các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa xã hội nổi bật trong tiến trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lễ hội hiện đại là sinh hoạt văn hóa, đồng thời là một sinh hoạt chính trị rộng khắp chứa đựng những giá trị hiện sinh đồng thời phản ánh trình độ, điều kiện và xu hướng phát triển của xã hội vào thời điểm diễn ra lễ hội. Lễ hội hiện đại có sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, các yếu tố của đời sống hiện đại như nghi thức, phương tiện, âm thanh, hình ảnh, ánh sáng, trang phục, ngôn ngữ, biểu tượng… Lễ hội hiện đại được truyền thông, truyền hình rộng rãi và nhanh chóng, đầy đủ, chi tiết các hoạt động của lễ hội như các hoạt động diễn ra trong và bên lề của lễ hội. Các phương tiện như vô tuyến truyền hình, cầu truyền hình trực tiếp, tường thực trực tiếp qua radio, qua các phương tiện nghe nhìn hiện đại. Nghi thức tiến hành có sự kết hợp giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, tùy theo tính chất và nội dung của lễ hội. Khi tiến hành lễ hội, bên cạnh việc tham gia tự nguyện của đông đảo quần chúng nhân dân còn có sự sắp đặt của Ban tổ chức đối với các cá nhân 13 và tập thể tham gia, những người tham dự được tổ chức thành khối, đội hình chặt chẽ và khoa học, phục vụ những mục đích khác nhau của lễ hội theo chương trình định sẵn. Đội ngũ đại biểu, quan chức, quan khách tham dự lễ hội thường được bố trí khu vực dành riêng như trên lễ đài, khán đài. Lễ hội hiện đại là những hoạt động mang ý nghĩa xã hội có liên quan đến các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa xã hội như các hoạt động chào mừng những sự kiện nào đó, lễ khai mạc hay bế mạc các sự kiện quan trọng gắn với một tổ chức hay rộng hơn là trên phạm vi quốc gia - dân tộc. Lễ hội thường diễn ra do các cơ quan chính quyền, đoàn thể tổ chức. Thường gắn với một cơ quan tổ chức đoàn thể vào thời điểm nào đó có ý nghĩa với sự ra đời tồn tại, phát triển của cơ quan, tổ chức đó. Không gian của lễ hội hiện đại thường diễn ra ở các trung tâm đô thị, thủ đô và các thành phố lớn của đất nước [46, tr. 244]. 1.1.4. Khái niệm quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội - Khái niệm về quản lý : Như C.Mác đã nói: “quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động”. Như vậy, quản lý là một hoạt động tất yếu khách quan, diễn ra ở mọi tổ chức dù quy mô nhỏ hay lớn, có cấu trúc đơn giản hay phức tạp. Do quản lý gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý. Những quan điểm này có lịch sử ra đời khác nhau và gắn với mỗi tổ chức hoạt động trong từng lĩnh vực, thậm chí với mỗi quá trình trong từng tổ chức. Tuy nhiên, khi đề cập đến quản lý có một cách tiếp cận nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học và nhà quản lý thực tiễn đó là: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có đích hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu dự kiến” [29, tr. 9]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan