Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh ninh bình...

Tài liệu Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh ninh bình

.PDF
82
110
123

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH .............................................................................. 9 1. 1. Khái quát chung về quản lý nhà nước về du lịch ........................................ 9 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch ....................................................... 22 1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về du lịch ............................... 25 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH Ở TỈNH NINH BÌNH .......................................................................................... 31 2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở tỉnh Ninh Bình và những tiềm năng, thế mạnh du lịch của tỉnh ....................................... 31 2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình hiện nay ............ 43 2.3. Đánh giá về quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình ...................... 51 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH ........... 64 3.1. Quan điểm về quản lý nhà nước phát triển du lịch .......................................... 64 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình ......................................................................................... 66 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 79 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, những năm qua, ngành du lịch thế giới nói chung, ngành du lịch Việt Nam nói riêng tiếp tục đà tăng trưởng bền vững và khẳng định vai trò quan trọng trong việc đóng góp trở lại vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm và thúc đẩy thương mại, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng... Do đó, du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia, các vùng lãnh thổ, và Việt Nam hiện nay cũng không phải ngoại lệ. Trong thời gian gần đây, hàng năm tổng thu từ khách du lịch của Việt Nam ngày càng tăng, thậm chí doanh thu từ du lịch năm 2000 (17,4 nghìn tỷ đồng) cho đến năm 2016 đạt 382,6 nghìn tỷ đồng. Tỉnh Ninh Bình là tỉnh có rất nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng và hấp dẫn, với nhiều tài nguyên vật thể, phi vật thể thuộc các thể loại chính như: Tự nhiên, văn hóa/lịch sử...Các địa điểm nổi tiếng có thể được kể đến như Tam Cốc - Bích Động, rừng quốc gia Cúc Phương, quần thể Tràng An, khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long... Đặc biệt, quần thể danh lam thắng cảnh Tràng An hiện là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới do UNESCO công nhận. Tỉnh còn có nhiều điểm tham quan văn hóa, đem đến những trải nghiệm về văn hóa và lịch sử cho du khách như Cố đô Hoa Lư, Nhà thờ đá Phát Diệm, chùa Bái Đính, phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn... Đây chính là những điều kiện rất tốt cho việc hình thành và phát triển những khu du lịch trọng điểm, có sức hấp dẫn và thu hút đối với nhiều du khách trong và ngoài nước. Với thế mạnh đó trong những năm qua, Ninh Bình đã tập trung vào phát triển du lịch đồng bộ trên cả ba nội dung: Xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển chất lượng cũng như sản phẩm du lịch và xây dựng hệ thống đội ngũ nhân viên ngành du lịch chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, dù được thiên nhiên ưu đãi, đồng thời có tiềm năng lớn để trở thành một vùng hấp dẫn, là nguồn thu đóng góp vào ngân sách địa phương 1 nhưng thực tế, kết quả của hoạt động du lịch đạt được chưa tương xứng, hiện nay vẫn còn đứng ở vị trí khá khiêm tốn so với các tỉnh ở miền Bắc nói riêng và du lịch cả nước nói chung. Nguyên nhân dễ thấy đó chính là chất lượng dịch vụ chưa cao, số lượng khách lưu trú đặc biệt là khách quốc tế còn ít, doanh số kinh doanh du lịch còn khiêm tốn... Thêm vào đó, tỉnh còn có quá ít các khu nghỉ dưỡng, khách sạn, khu vui chơi giải trí cao cấp đạt chuẩn quốc tế. Về quản lý nhà nước, các ban ngành còn đang lúng túng, thực hiện kém hiểu quả, thiếu sáng tạo, thiếu dứt khoát ở tất cả các khâu, đặc biệt là công tác truyền thông, quảng bá du lịch, quản lý các cơ sở, quản lý chất lượng, uy tín còn chưa cao... Tất cả những hạn chế nêu trên đang cản trở sự phát triển của ngành du lịch tỉnh Ninh Bình, điều này dù chủ quan hay khách quan cũng đều xuất phát từ sự yếu kém, thiếu nhanh nhạy trong công tác quản lý nhà nước về du lịch. Thực tiễn này đòi hỏi phải có nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa để đi sâu, đi rộng vào việc tìm ra những giải pháp, những bước đi đúng đắn thúc đẩy vai trò của quản lý nhà nước về du lịch, giúp tỉnh Ninh Bình có thể tận dụng được tối đa những lợi thế của mình, trở thành điểm đến, điểm khám phá được nhiều du khách lựa chọn, tìm đến hơn nữa. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Du lịch và quản lý nhà nước về du lịch là vấn đề được rất nhiều chuyên gia, nhà khoa học và cả các nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Tại Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở nhiều cấp độ khác nhau: - “Phát triển nhân lực ngành Du lịch Thủ đô và các địa phương phụ cận”Báo cáo tham luận Hội thảo quốc gia lần II "Đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội" tháng 11/2011 của ThS. Mai Tiến Dũng, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội. Trong Báo cáo tham luận của mình, ông đã tập trung vào lĩnh vực quản lý nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch ở Hà Nội, và nghiên cứu rộng ra địa bàn xung quanh Hà Nội như một mạng 2 lưới liên kết vùng mà tâm điểm là Hà Nội. Tác giả vừa là người nghiên cứu đồng thời vừa là nhà quản lý với cương vị Phó Giám đốc Sở Văn hóa – thể thao và du lịch thành phố Hà Nội đã đưa ra những nhận định, đánh giá dựa trên sự kết hợp giữa nhãn quan khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn mà ông tích lũy được trong quá trình công tác về nhu cầu, thực trạng, xu hướng phát triển nguồn nhân lực cho ngành kinh tế du lịch của Thủ đô và các vùng phụ cận, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm góp phần từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực này trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng. Ninh Bình cũng là một tỉnh được nhắc đến trong công trình nghiên cứu này, và quản lý nhà nước tỉnh Ninh Bình cũng cần kết hợp với những tỉnh lân cận để có những bước phát triển một cách thống nhất, bền vững. - Trịnh Đăng Thanh (2004) “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Công trình này nêu lên cơ sở lý luận của sự cần thiết phải quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch và thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam trong thời gian tới và các giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý đó. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu toàn diện vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch nói chung và ở từng địa phương nói riêng. Ninh Bình là một tỉnh của Việt Nam. Do đó, để đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Ninh Bình nói riêng cũng cần phải căn cứ vào thực trạng và giáp pháp chung ở Việt Nam nói chung, phải đi từ cái chung đến cái riêng. - Trần Xuân Ảnh (2007) “Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường du lịch”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 132. Cũng như tên đề tài, tác giả bài viết này đi sâu vào nghiên cứu và đề ra những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường du lịch. Những giải pháp mà tác giả đưa ra là những tham khảo quý báu để đưa ra những giải pháp cho quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình. 3 - Đỗ Thị Nhài (2008), “Hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội” - Luận văn Thạc sỹ Du lịch học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch và doanh nghiệp du lịch; nghiên cứu tập trung thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở Hà Nội hiện nay dưới các góc độ: tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, tổ chức các doanh nghiệp du lịch, thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch. Trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá về thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách thức và giải pháp, kiến nghị về chính sách vĩ mô đối với các cấp có thẩm quyền từ Trung ương đến chính quyền và các ban ngành của Thành phố Hà Nội. - Nguyễn Minh Đức (2007), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công trình nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch ở một địa phương cụ thể. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ; đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm góp phần đổi mới và nâng cao trình độ quản lý nhà nước về thương mại, du lịch ở tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch thuộc khu vực Tây Bắc Bộ, bao gồm các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Sơn La, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa, tiềm năng phát triển du lịch khác nhiều so với khu vực Đông Bắc Bộ, trong đó có tỉnh Ninh Bình. - Nguyễn Thị Thanh Hiền (1995) “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích đặc điểm, vai trò của ngành du lịch trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về du lịch nói chung và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước về du lịch 4 ở một địa phương cụ thể. - Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững sau khi gia nhập WTO”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 115. Bài viết này nghiên cứu về tình hình phát triển của ngành du lịch không chỉ ở phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi thế giới. Tác giả nhấn mạnh ngành du lịch là ngành kinh tế đi tắt và đón đầu để đuổi kịp trình độ các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu nhanh nhất. Đồng thời, tác giả đưa ra những giải pháp cần thiết để Việt Nam – khi đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO – phát triển nhanh và bền vững trong điều kiện phải thực hiện tốt các cam kết với WTO. Có thể thấy rằng, hội nhập phát triển là quá trình tất yếu của sự phát triển. Do đó, quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình cũng cần phải phát triển sao cho đảm bảo thực hiện tốt các cam kết quốc tế. - TS. Đỗ Thanh Hoa (2005) “Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm”, Đề tài cấp nhà nước, Viện nghiên cứu phát triển du lịch. Công trình này tập trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp và lộ trình thực hiện đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam đến 2010 tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm nhằm thu hút nhiều thị phần khách du lịch từ các thị trường này. - Ths. Lê Văn Minh (2006), “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu du lịch”, Đề tài cấp bộ, Viện nghiên cứu phát triển du lịch. Tác giả đã xây dựng và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm khuyến khích và thu hút đầu tư ban đầu để phát triển các khu du lịch (không đi sâu nghiên cứu các giai đoạn kinh doanh sau đầu tư), khai thác sử dụng có hiệu quả và bảo tồn các nguồn tài nguyên ở các khu du lịch, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, tăng thời gian lưu trú của khách và khắc phục tính mùa vụ trong hoạt động du lịch. Đối với tỉnh Ninh Bình nói riêng, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước về du lịch ở những khía cạnh khác nhau, cụ thể: 5 - Tạ Minh Phương (2006) “Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài đã nghiên cứu cơ sở khoa học phát triển du lịch sinh thái, chỉ ra những yêu cầu cơ bản đối với phát triển du lịch sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường nói chung và ở tỉnh Ninh Bình nói riêng; Đánh giá tiềm năng và phân tích một số yếu tố tác động đến phát triển du lịch sinh thái; Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển du lịch sinh thái ở Ninh Bình. - “Hướng đột phá phát triển du lịch Ninh Bình trong Vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông bắc”, Than luận tại Hội thảo: “Ninh Bình - 20 năm đổi mới và phát triển”, tại thành phố Ninh Bình ngày 25/7/2012, website www.itdr.org.vn thứ tư, 22 tháng 8 năm 2012, 7:00 của Viện nghiên cứu phát triển du lịch. Bài viết tập trung vào đánh giá sơ lược về hiện trạng du lịch và quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình, qua đó, đánh giá chung và đưa ra những hướng đột phá để phát triển du lịch. - Lâm Thị Hồng Loan (2012), “Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở tỉnh Ninh Bình”, Luận văn thạc sĩ ngành Kinh tế chính trị, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị. Tác giả đề xuất các giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững ở tỉnh Ninh Bình. Khác với các nghiên cứu trên, bài luận văn này sẽ nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thời gian gần đây nhất từ 2013 tới 2017, một cách trực diện và toàn diện nhất, tức là chúng ta đề cập một cách trực tiếp và đầy đủ về thực trạng công tác quản lý nhà nước từ trung ương đến các cấp ủy, chính quyền, ban ngành, đoàn thể của tỉnh Ninh Bình và hệ quả của nó trên tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế du lịch của tỉnh và ở các cấp độ từ chung đến riêng, từ vĩ mô đến vi mô, cả ngắn hạn và dài hạn. Đây cũng chính là điểm mới của luận văn này so với các công trình, đề tài khoa học từ trước tới nay. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Phân tích về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Ninh Bình, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh nhằm khắc phục những tồn tại, phát huy những hạn chế, thúc đẩy ngành du lịch của tỉnh phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng nhu cầu của thời kì đổi mới hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn xác định có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu lý luận về quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Phân tích thực trạng phát triển hoạt động du lịch ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2013 đến nay - Phân tích quan điểm và đề xuất những giải pháp đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Ninh Bình, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế, tiềm năng ngành du lịch của tỉnh đến năm 2030. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Tỉnh Ninh Bình, đồng thời khái quát một số điểm tổng quát về quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn cả nước. Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước về du lịch từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển 7 kinh tế, thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; các văn bản pháp luật đã ban hành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu như: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, đánh giá, dự báo, so sánh và phương pháp luật học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hệ thống hóa, làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch. - Phân tích, đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn từ 2013 đến 2017 về cả những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đến năm 2030. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan và các cá nhân trong việc nghiên cứu hoạc định chính sách phát triển du lịch nói chung và du lịch tỉnh Ninh Bình nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần chung là phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục... thì nội dung chính của luận văn được kết cấu như sau: CHƯƠNG 1. Những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước về du lịch CHƯƠNG 2. Thực trạng quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Ninh Bình CHƯƠNG 3. Quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước về du lịch 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH 1. 1. Khái quát chung về quản lý nhà nước về du lịch 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại du lịch 1.1.1.1. Khái niệm du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến ở mọi quốc gia. Tuy nhiên, do bối cảnh về không gian, thời gian khác nhau hoặc dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người, mỗi thời đại, mỗi tổ chức lại có một các hiểu khác nhau về du lịch. Theo nghĩa chung nhất, “Du lịch” được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian nhất định đến một nơi nào đó để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh [12, tr17]. Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Tonos nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được đưa vào hệ ngữ La Tinh thành Turnur và sau đó thành Tour trong tiếng Pháp với nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert Langquar (1980), từ Tourism (Du lịch) lần đầu tiên được sử dụng trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800 và được quốc tế hóa, nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch là một từ gốc Hán Việt, tạm hiểu là đi chơi, trải nghiệm [29, tr 17]. Ngày nay, khi du lịch phát triển mạnh, trở thành lĩnh vực không thể thiếu trong đời sống con người (từ giữa thế kỉ XX đến nay), người ta đưa ra những khái niệm cụ thể hơn về du lịch. Có quan niệm cho rằng: Du lịch là một hoạt động của dân cư trong thời gian dỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa [29, tr15]. Định nghĩa du lịch còn được hiểu như sau: 9 Tại Hội nghị quốc tế về thông kê du lịch ở Ottawa - Canada (6/1991) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” [11]. Tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp tại Rome – Italia (21/8 – 5/9/1963) định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải nơi làm việc của họ” [14, tr2]. Theo khoản 1, Điều 3, Luật du lịch Việt Nam năm 2017 định nghĩa: “Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”. Khác với các quan điểm trên, các học giả biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (1996) đã tách du lịch thành hai phần riêng biệt: xét dưới góc độ mục đích của chuyến đi, du lịch là một dạng nghỉ dưỡng, sự tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật...Còn xét dưới góc độ kinh tế, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ. Như vậy, từ những quan điểm trên, có thể rút ra định nghĩa cơ bản về du lịch như sau: Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên, ở tại một địa điểm đến mang tính tạm thời trong một khoảng thời gian ngắn với mục đích là thỏa mãn nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng hoặc kết hợp du lịch với 10 giải quyết những công việc của cơ quan và nghiên cứu thị trường nhưng không vì mục đích định cư hoặc tìm kiếm việc làm nơi đến thăm. 1.1.1.2. Đặc điểm của du lịch Xuất phát từ những khái niệm về du lịch, có thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu của du lịch như sau: Một là, du lịch là hoạt động mang tính chất một ngành kinh tế dịch vụ. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, khoa học - kỹ thuật, xã hội...du lịch dần trở thành một ngành kinh tế độc lập, cung cấp các dịch vụ tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng... Tỉ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới đều tăng lên. Sở dĩ nói đây là một ngành dịch vụ, bởi lẽ du lịch là hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể và cũng không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Các hoạt động dịch vụ du lịch bao trùm lên tất cả các lĩnh vực với trình độ cao, chuyên nghiệp, chi phối lớn đến quá trình phát triển kinh tế nói chung. Hai là, du lịch là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch khác với ngành dịch vụ khác ở chỗ: dịch vụ du lịch nhằm thỏa mãn những nhu cầu hàng hóa đặc thù của du khách trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ về ăn, ở, nghỉ ngơi, tham quan, đi lại, thông tin về văn hóa, lịch sử, tập quán, vui chơi giải trí và các nhu cầu khác chứ không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi người dân. Thực tế trên toàn thế giới cho thấy, ở nhiều quốc gia, khi thu nhập của người dân càng tăng lên, đủ nhu cầu ăn mặc thì du lịch trở thành không thể thiếu, bởi vì nó vừa thỏa mãn nhu cầu tình cảm và lý trí, vừa là một hình thức nghỉ dưỡng tích cực, nhằm tái tạo lại sức lao động của con người. Ba là, thời gian và không gian xảy ra việc tiêu dùng và cung ứng dịch vụ du lịch là đồng nhất. Trong du lịch, việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (đồ uống, 11 thức ăn...) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng; người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho khách hàng, mà tự khách du lịch phải đi đến nơi có dịch vụ, hàng hóa. Do vậy, vai trò của việc xúc tiến truyền thông, quảng bá du lịch là hết sức quan trọng. Bốn là, du lịch góp phần mang lại lợi ích thiết thực về chính trị, kinh tế xã hội cho quốc gia làm du lịch và cá nhân người làm du lịch. Hiện nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới, du lịch vừa đem lại lợi ích thiết thực về kinh tế, lại vừa mang lại cả lợi ích về chính trị, văn hóa - xã hội... Thế nhưng, lợi ích kinh tế vẫn là lơi ích chi phối mạnh nhất đối với ngành du lịch. Do vậy, ở nhiều quốc gia đã ưu tiên phát triển ngành du lịch với tốc độ cao, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nguồn thu nhập lớn trong nền kinh tế quốc dân. Vì thế, dịch vụ du lịch không những phải thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch mà còn phải đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho quốc gia làm du lịch; cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động du lịch. Năm là, điều kiện để du lịch phát triển khi môi trường hòa bình và ổn định. Du lịch là lĩnh vực liên đới sâu sắc bởi những vấn đề chính trị và xã hội. Chiến tranh và biến động chính trị xã hội ở các vùng, các quốc gia có thể gây ảnh hưởng lớn tới các hoạt động du lịch, tạo nên tình trạng mất an ninh, di chuyển khó khăn, tàn phá các công trình du lịch, làm ảnh hưởng xấu đến cả môi trường tự nhiên. Do đó, du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Hòa bình là đòn bẩy đẩy mạnh hoạt động du lịch và ngược lại, du lịch cũng có tác động trở lại đến việc cùng tồn tại với hòa bình. Thông qua du lịch quốc tế con người thể hiện nguyện vọng được sống và làm việc trong hòa bình và tình hữu nghị. Mặt khác, tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... cũng là những nhân tố rất quan trọng tác động đến khách du lịch. 1.1.1.3. Các loại hình du lịch cơ bản Hoạt động du lịch rất phong phú và đa dạng, căn cứ vào mỗi tiêu chí 12 khác nhau có các cách phân loại loại hình du lịch khác nhau. Mỗi loại hình du lịch đều có những tác động nhất định lên môi trường. Tùy theo các tiêu chí mà du lịch được phân thành nhiều loại hình khác nhau [26, tr11]: Du lịch Quốc tế: Là sự di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, du khách phải ra khỏi vùng lãnh thổ biên giới và tiêu bằng ngoại tệ nơi họ đến du lịch. Du lịch nội địa: Là sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác trong cùng một phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Du lịch văn hóa: là du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tò mò, nâng cao hiểu biết của du khách về những khu di tích lịch sử, những công trình kiến trúc, chế độ xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán của nơi đến du lịch. Du lịch lễ hội, tôn giáo: Lễ hội là một nét truyền thống văn hóa, tâm linh không thể thiếu được trong đời sống của con người, nó chứa đựng những giá trị tinh thần, văn hóa, phong tục, tập quán đặc trưng, riêng biệt, đồng thời đem lại cho du khách sự bình yên, sự khám phá, sự hòa quyện vào văn hóa với người dân địa phương, quên đi những khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Du lịch tham quan, sinh thái: là loại hình du lịch giúp du khách mở mang sự hiểu biết hữu hạn của con người về thế giới vật thể bên ngoài. Đối tượng tham quan là các khu di tích lịch sử, tài nguyên du lịch tự nhiên, hoặc các công trình kiến trúc cổ... Du lịch nghỉ ngơi, giải trí, chữa bệnh: là loại hình du lịch mà ngoài thời gian tham quan, du khách còn được thư giãn, nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe, do đó, loại hình du lịch này thường gắn liền với việc vui chơi giải trí, thư giãn cùng các khu vui chơi, chương trình giải trí, spa, mát xa... ra đời. Du lịch thể thao: Loại du lịch này nhằm đáp ứng sự năng động, đam mê thể thao của một bộ phận khách du lịch. Họ đi du lịch kết hợp giữa tham quan thiên nhiên - nơi có những môn thể thao họ yêu thích và chơi những môn thể thao đó. Du lịch khám phá: Loại hình du lịch này gần giống với du lịch tham quan, 13 tuy nhiên về tính chất nhu cầu của khách du lịch thì khác nhau: một loại du lịch với nhu cầu của khách du lịch chỉ là vãn cảnh, tham quan(du lịch tham quan), còn một loại du lịch với nhu cầu của khách du lịch là khám phá chuyên sâu, nghiệp vụ sự hiểu biết thế giới bên ngoài. Du lịch khám phá được chia thành du lịch tìm hiểu và du lịch mạo hiểm. Du lịch tìm hiểu là du khách có thể tìm hiểu về tài nguyên thiên nhiên, về phong tục tập quán, văn hóa lịch sử, môi trường, điều kiện tự nhiên... nơi họ đến du lịch. Du lịch mạo hiểm chủ yếu dành cho giới trẻ họ thích mạo hiểm, rèn luyện bản thân, thường họ hay chọn những nơi có nhiều rừng núi để khám phá. Loại du lịch này khá nguy hiểm, đòi hỏi du khách phải có kinh nghiệm và hiểu biết sâu về địa hình, khí hậu... Du lịch kết hợp với hội thảo, hội nghị, triển lãm, tổ chức các sự kiện (du lịch MICE/ meeting, Incentive, Convention, Exhibition): Đây là loại hình du lịch tiềm năng và ngày càng phát triển, là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam bởi lẽ đây là một loại hình du lịch cao cấp, có tổ chức chặt chẽ, kinh phí tổ chức cho chương trình thường cao hơn so với du lịch thông thường, tùy thuộc vào yêu cầu của từng đối tượng khách hàng, đòi hỏi các công ty lữ hành phải cung ứng dịch vụ trọn gói từ lưu trú, cho đến vận chuyển và xây dựng các chương trình. Đây là cơ hội để các công ty khẳng định được vị thế và thương hiệu của mình về ngành dịch vụ này. Như vậy, nhìn chung để khai thác hết tiềm năng của các loại hình du lịch, các cơ quan tổ chức du lịch cần nghiên cứu cách thức tổ chức các loại hình du lịch đan xen nhằm đáp ứng nhu cầu tối đa của khách du lịch. 1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch Quản lý là tiến trình, hoạt động hoặc giám sát việc thực thi nhiệm vụ để đảm bảo rằng các hoạt động trong tổ chức - đặc biệt là nhiệm vụ tạo ra và duy trì các điều kiện để thực hiện tốt mục tiêu thông qua việc kết hợp những nỗ lực của các nhóm khác nhau trong tổ chức, cũng là một nhóm người trong tổ chức liên quan đến việc quản lý tổ chức đó. Quản lý nhà nước có thể được hiểu theo hai bình diện: 14 Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp [12, tr 27]. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành của các cơ quan hành chính nhà nước, đó là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước [12, tr 27]. Trong luận văn, khái niệm quản lý nhà nước theo cả hai nghĩa rộng và hẹp đều được khai thác tùy theo từng vấn đề, phạm vi, góc độ tiếp cận khác nhau để xem xét và giải quyết vấn đề. Xuất phát từ những trình bày trên về du lịch và quản lý nhà nước, có thể định nghĩa: Quản lý nhà nước về du lịch là quá trình tác động của Nhà nước đến du lịch qua các công cụ quản lý nhằm đảm bảo cho lĩnh vực này phát triển phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội, phát triển đúng định hướng của Nhà nước, tạo nên sự công bằng trong hoạt động du lịch để du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan nhà nước, đặc biệt chủ yếu là các cơ quan nhà nước chuyên ngành thực hiện sự quản lý đối với hoạt động du lịch. Cơ quan nhà nước chuyên ngành là cơ quan được nhà nước thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy. Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ở Trung ương; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng Văn hóa - Thông tin các huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố là các cơ quan nhà nước chuyên ngành thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch. Về chủ thể quản lý nhà nước về du lịch: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan Trung ương tham mưu và quản lý trực tiếp về hoạt động du lịch trong cả nước; Sở Văn hóa, Thể 15 thao và Du lịch là cơ quan quản lý về du lịch ở phạm vi cấp tỉnh; Phòng Văn hóa - Thông tin quản lý trực tiếp các hoạt động du lịch ở phạm vi cấp huyện. Do đó, Nhà nước là chủ thể của tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch. Sự quản lý của Nhà nước phải đảm bảo cho hoạt động du lịch có tính tổ chức cao, công bằng, ổn định, và có định hướng rõ rệt. Về đối tượng quản lý nhà nước về du lịch: Đối tượng quản lý trong hoạt động du lịch khá phức tạp, nhiều thành phần, từ các doanh nghiệp đến cộng đồng dân cư và khách du lịch trong quá trình khai thác tài nguyên du lịch. Nhà nước phải quản lý các đối tượng này nhằm đảm bảo khai thác tài nguyên và phát triển du lịch một cách hợp lý, theo đúng định hướng, quy hoạch của Nhà nước; giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác với các nền văn hóa trên thế giới; quản lý để giữ vững an ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội trong hoạt động du lịch… Nói cách khác là phát triển du lịch theo một trật tự chung, đảm bảo về an ninh, trật tự trên địa bàn, bảo vệ môi trường sinh thái và bản sắc văn hóa dân tộc… Về nội dung quản lý nhà nước về du lịch: Quản lý nhà nước về du lịch có những đặc thù so với nội dung quản lý của các lĩnh vực khác. Hoạt động du lịch luôn vận động và biến đổi, chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau trong cùng một thời điểm như về tình hình kinh tế, an ninh, dịch bệnh...của từng quốc gia, từng khu vực. Tùy vào nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí, tham quan của tổ chức, cá nhân mà nội dung quản lý phải điều chỉnh sao cho phù hợp. Về phương pháp quản lý: Nhà nước phải đồng thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo hành vi xử sự cần thiết của đối tượng quản lý nhằm duy trì theo đúng chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định; tại địa điểm du lịch, Nhà nước phải làm công tác tuyên truyền, vận động cư dân địa phương và du khách thực hiện những nội dung nhất định nhằm bảo vệ môi trường, khôi phục lại các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương…Nhà nước chỉ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để bắt buộc thực hiện, nếu không 16 thực hiện thì sẽ tiến hành xử lý bằng nhiều hình thức, trong đó có cả biện pháp cưỡng chế. Về mức độ xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, mức độ này trong lĩnh vực du lịch tương đối nhiều hơn so với các lĩnh vực khác. Một số doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao quyền quản lý đối với một số hoạt động nghỉ dưỡng như khai thác tài nguyên du lịch, quản lý các khu, địa điểm vui chơi - giải trí, nghỉ dưỡng… Vì thế, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch được xã hội hóa một cách tối đa nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác quản lý các hoạt động du lịch. 1.1.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch Một là, Nhà nước là chủ thể tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch. Hai là, Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động du lịch bằng phương thức, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch… nhằm phát triển du lịch. Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một bộ máy Nhà nước mạnh mẽ, nhất quán, hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có trình độ, năng lực, đạo đức thật sự và không ngừng trau dồi. Bốn là, quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch còn xuất phát từ chính nhu cầu khách quan của sự gia tăng vai trò của chính sách, pháp luật… với tư cách là công cụ quản lý. 1.1.4. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về du lịch Nhà nước ra đời với tư cách là một công cụ quyền lực chung để duy trì trật tự xã hội, do đó, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều phải được quản lý bởi Nhà nước, kể cả du lịch nói riêng. Sự quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch là đòi hỏi khách quan cần thiết, bởi lẽ: - Chính sách, pháp luật của Nhà nước giúp tạo dựng môi trường thuận lợi, an toàn cho du lịch phát triển nhanh và hiệu quả hơn. 17 - Nhà nước điều tiết sự phối hợp đồng bộ du lịch với các ngành kinh tế khác, đảm bảo phát triển ngành du lịch phù hợp với định hướng và yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân. - Sự quản lý của Nhà nước nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực có thể phát sinh từ hoạt động du lịch như: Bảo tồn các công trình văn hóa, hạn chế suy thoái, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động, kinh doanh du lịch... 1.1.5. Vai trò của hoạt động du lịch và vai trò quản lý nhà nước về du lịch 1.1.5.1. Vai trò của hoạt động du lịch Một là trong lĩnh vực phát triển kinh tế: Du lịch phát triển thì nguồn thu ngân sách cho các địa phương có hoạt động du lịch sẽ tăng từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của các địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn. Trước hết hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành, là cơ sở cho các ngành khác (giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp...) phát triển. Do đó, ngành du lịch là ngành thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Đối với nền sản xuất xã hội, du lịch còn mở ra thị trường tiêu thụ hàng hóa. Mặt khác, sự phát triển của du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác. Hai là trong lĩnh vực chính trị: Bởi lẽ du lịch là ngành chỉ phát triển trong hòa bình, ổn định, và là cầu nối cho du khách các quốc gia trên thế giới thông qua du lịch để tìm hiểu văn hóa, khám phá thế giới…nên du lịch có vai trò to lớn như một nhân tố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Trong lịch sử đã có nhiều hoạt động du lịch dưới vai trò là cầu nối 18 hòa bình với những chủ đề khác nhau như: "Du lịch là giấy thông hành của hòa bình" (1967), "Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của mỗi người" (1983)... các chủ đề này đã kêu gọi hàng triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Ba là trong lĩnh vực văn hóa, xã hội: Việc khai thác đưa những tài nguyên du lịch vào sử dụng luôn đòi hỏi phải đầu tư về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế, văn hóa - xã hội... Vì thế mà việc phát triển du lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở những vùng đó, giảm đi sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng trong cả nước, đồng thời cũng góp phần làm giảm đi sự tập trung dân cư ở một nơi. Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo rất hiệu quả cho đất nước chủ nhà về tất cả mọi phương diện, lĩnh vực mà không phải tốn kém nhiều tiền bạc. Dưới góc độ kinh tế: du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua du khách bằng phương thức tuyên truyền cho bạn bè, người thân... Nếu mặt hàng đó được yêu thích, trở thành nhu cầu của con người tại các quốc gia khác, các hàng hóa này sẽ được cung ứng cho họ qua các thương nhân, cá nhân đi du lịch, công tác….Dưới góc độ xã hội: du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu về các thành tựu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giới thiệu về con người, phong tục, tập quán... nơi họ đã đến. Thông qua du lịch con người được thỏa mãn được trí tò mò, thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới, đồng thời mở mang kiến thức, do đó góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong mơ ước sáng tạo, trong kế hoạch cho tương lai của con người – du khách. Trong thời gian tiếp xúc với người bản địa khi đi du lịch, văn hóa của cả khách và người bản xứ được trao đổi, hòa hợp. Du lịch còn làm phong phú thêm khả năng thẩm mỹ của con người khi họ được tham quan các kho tàng mỹ thuật của một đất nước. Du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan