Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ việt nam thái lan dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do (2006 2015)...

Tài liệu Quan hệ việt nam thái lan dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do (2006 2015)

.PDF
52
36
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TẠ THỊ NGUYỆT TRANG QUAN HỆ VIỆT NAM – THÁI LAN DƢỚI GÓC NHÌN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO (2006-2015) LUẬN VĂN THẠC SĨQUAN HỆ QUỐC TẾ Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TẠ THỊ NGUYỆT TRANG QUAN HỆ VIỆT NAM – THÁI LAN DƢỚI GÓC NHÌN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO (2006-2015) Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế Mã số: 60 31 02 06 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ QUỐC TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Khắc Nam Hà Nội - 2016 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ 4 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ................................................................... 5 MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................... 5 1.1. Nguồn gốc và các luận điểm của chủ nghĩa tự do ..................................... 5 1.1.1. Chủ nghĩa tự do cổ điển - Chủ nghĩa lý tưởng: từ Kant đến Wilson ...... 5 1.1.2. Chủ nghĩa tự do mới................................................................................ 8 1.1.3. Các luận điểm chính.............................................................................. 15 1.2. Cơ sở thực tiễn về mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan ............................ 18 1.2.1. Nhân tố nội tại của Thái Lan ................................................................ 18 1.2.2. Nhân tố nội tại của Việt Nam ................................................................ 27 1.2.3. Nhân tố bên ngoài ................................................................................. 33 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ LUẬN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM – THÁI LANError! Bookmark not defined. 2.1. Nền dân chủ chính trị của hai nước ......... Error! Bookmark not defined. 2.2. Phát triển kinh tế thị trường hai nước ...... Error! Bookmark not defined. 2.3. Sự tham gia của các chủ thể phi quốc gia Error! Bookmark not defined. 2.4. Phát triển hợp tác thay thế cho xung đột .. Error! Bookmark not defined. 2.5. Phát triển sự phụ thuộc lẫn nhau .............. Error! Bookmark not defined. 2.6. An ninh chung .......................................... Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 3: TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM THÁI LAN DƢỚI GÓC NHÌN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DOError! Bookmark not de 3.1. Điểm mạnh trong việc phát triển mối quan hệ Việt Nam – Thái LanError! Bookmar 3.2. Điểm yếu trong việc phát triển mối quan hệ Việt Nam – Thái LanError! Bookmark 3.3. Cơ hội phát triển mối quan hệ Việt Nam – Thái LanError! Bookmark not defined. 3.4. Thách thức đối với mối quan hệ Việt Nam – Thái LanError! Bookmark not define KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 37 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FTA: Hiệp định thương mại tự do GDP: Tổng sản phẩm Quốc nội QHQT: Quan hệ quốc tế TNC: Công ty xuyên quốc gia WB: World Bank (Ngân hàng Thế giới) XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2011 – 2015 Bảng 2.1: So sánh chỉ số phát triển kinh tế 2 nước năm 2014 Bảng 2.2: So sánh chỉ số phát triển 2 nước năm 2010 – 2015 Bảng 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ 2006 – 2011 Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp của Thái Lan vào Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 Bảng 3.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực ASEAN năm 2014 Biểu 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan từ 2006 – 2014 Biểu 1.2: Tốc độ tăng trưởng Thái Lan qua các năm Biểu 1.3: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam Biểu 1.4: GDP Nhật Bản từ quý 1/2007 – quý 3/2015 Biểu 1.5: GDP các nước đang phát triển từ quý 1/2007 – quý 3/2015 Biểu 2.1: Diễn biến thương mại Việt Nam – Thái Lan trong các năm 2012, 2013 và 11 tháng 2014 Biểu 2.2: Đầu tư Thái Lan vào Việt Nam giai đoạn 2012 – T2/2016 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Việt Nam và Thái Lan là hai quốc gia có mối quan hệ láng giềng lâu đời, liên tục với các liên hệ phong phú, đa tầng. Thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1976, mối quan hệ hai nước bắt đầu khởi sắc từ sau chuyến thăm chính thức Thái Lan của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào năm 1978. Trong giai đoạn 1979 – 1989, trước nguy cơ đe dọa chiến tranh ở cả hai đầu của đất nước, trước sự bạo tàn diệt chủng của Khme Đỏ đối với nhân dân Việt Nam và Campuchia. Quan hệ Việt – Thái bước sang giai đoạn mới với sự trở lại của tình trạng đối đầu. Quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn này chủ yếu xoay quanh và lên xuống theo diễn biến của sự kiện Campuchia. Năm 1985 là năm bắt đầu có nhiều thay đổi trong lịch sử quan hệ quốc tế. Đã xuất hiện những cơ hội và điều kiện mới cho việc chấm dứt chiến tranh lạnh. Thời gian từ 1985-1989, mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các diễn biến này. Sự đối đầu giảm bớt, xu thế hòa dịu và tăng cường đối thoại tăng dần, tuy nhiên hòa dịu mới xuất hiện nhưng chưa đủ để tạo ra những thay đổi cơ bản. Trong thời kỳ từ 1989 – 2000, mối quan hệ Việt – Thái đã bắt đầu thời kỳ cải thiện quan hệ và phát triển hợp tác; trong đó có dấu mốc quan trọng vào tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, đây cũng chính là nền tảng cho sự phát triển tiếp tục của mối quan hệ này. Bước sang thể kỷ XXI, sự hợp tác và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Thái Lan ngày càng bền vững và đóng góp nhiều hơn trên các lĩnh vực an ninh – chính trị và kinh tế. Một sự kiện lớn nhất trong lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam Thái Lan là ngày 16/2/2004 Bộ Ngoại giao ra thông cáo chung, sau phiên họp nội các chung giữa hai nước diễn ra tại Đà Nẵng, Việt Nam và Nakhon Phanom, Thái Lan, hai bên đã ký kết được rất nhiều văn bản quan trọng; đây là những văn kiện quan trọng làm nền tảng cho sự hợp tác trên các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hóa giáo dục giữa hai nước trong tương lai. Năm 2013, Việt Nam và Thái Lan chính thức nâng cấp mối quan hệ lên tầm “đối tác chiến lược”, đánh dấu bước phát triển quan trọng của mối quan hệ hợp tác song phương. Đặc biệt gần đây khi diễn biến về xung đột Biển Đông đang trở thành đề tài nóng của an ninh trong 1 khu vực thì việc xây dựng mối quan hệ bền chặt của hai nước càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trong các lý thuyết về QHQT chủ nghĩa tự do (liberalism) là một trong hai lý thuyết có lịch sử lâu đời nhất, theo lý thuyết này thì QHQT chịu tác động đáng kể của nhiều yếu tố đối nội (Domestic Factors). Lợi ích quốc gia (National Interest) là đa dạng và QHQT là đa lĩnh vực, sự đa dạng lợi ích này được quy định bởi quốc gia được cấu thành từ nhiềm nhóm lợi ích khác nhau và bởi sự đa dạng trong lợi ích con người. Chủ nghĩa tự do cho rằng hoàn toàn có khả năng hòa hợp lợi ích giữa người với người và từ đó là khả năng hòa hợp lợi ích giữa các quốc gia với nhau. Một điểm quan trọng nữa đó là chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của dân chủ tự do (Liberal Demoracy) như phương cách quan trọng thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh và duy trì hòa bình trong QHQT; luận điểm này được hiểu đơn giản là khi nhân dân được hưởng các quyền tự do dân chủ trong nền công hòa, nhân dân sẽ bầu ra được một chính phủ đúng với ý nguyện của mình. Nhân dân vốn yêu hòa bình nên chính phủ đó sẽ thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình. Theo chủ nghĩa tự do, với một nước có nhiều biến động về chính trị như Thái Lan thì việc thay đổi về lợi ích của các tổ chức trong quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng đến các chính sách ngoại giao và hoạt động QHQT, trong đó có mối quan hệ ngoại giao Việt Nam – Thái Lan. Cuộc khủng hoảng chính trị của Thái Lan có thể nói được bắt đầu từ cuộc đảo chính do giới quân sự tiến hành nhằm lật đổ cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra năm 2006. Quá trình thay đổi và điều chỉnh các chính sách kinh tế - xã hội của Thái Lan gắn liền với những chương trình, kế hoạch phát triển chung của toàn đất nước. Trước tiên phải nói đến các kế hoạch 5 năm phát triển xã hội và quốc gia của Thái Lan. Đặc biệt là kế hoạch phát triển xã hội và quốc gia lần thứ 10 (giai đoạn 2006-2011) với chủ trương tiếp tục phát triển nền kinh tế tự chủ, phấn đấu mang lại phúc lợi cho toàn xã hội. Kế hoạch này bao gồm năm chiến lược phát triển thuộc các lĩnh vực khác nhau, mà trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực, thiết lập các cộng đồng kinh tế lớn mạnh, và cải tiến các biện pháp sản xuất để có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Để tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề nêu trên, cũng như minh chứng cho sự tồn tại, tầm ảnh hưởng và phát triển của chủ nghĩa tự do trong 2 môi trường QHQT hiện tại, học viên đã lựa chọn đề tài luận văn “Quan hệ Việt Nam – Thái Lan dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do (2006-2015)”. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ở từng góc độ tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học, bài viết về mối quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan. Tại Việt Nam, có thể kể đến nghiên cứu của các tác giả: - Hoàng Khắc Nam với cuốn “Quan hệ Việt Nam – Thái Lan 1976 – 2000” xuất bản năm 2007. Từ việc nghiên cứu tiến trình vận động của quan hệ Việt Nam – Thái Lan trong 25 năm quan hệ, tác giả đã chỉ ranhững cơ sở lịch sử cũng như bản chất và đặc điểm của mối quan hệ, đồng thời làm sáng tỏ động lực phát triển và những yếu tố tác động tới mối quan hệ này. - Nguyễn Diệu Hùng với cuốn “Quan hệ Việt Nam – Thái Lan từ đầu thập kỉ 90 (thế kỉ XX) tới nay” xuất bản năm 2001. - Nguyễn Quốc Hùng với cuốn “Về mối quan hệ giữa các nước ASEAN với các nước Đông Dương” xuất bản năm 1990. - Nguyễn Tương Lai với cuốn “Quan hệ Việt Nam – Thái Lan trong những năm 90” xuất bản năm 2001. - Vũ Dương Ninh với đề tài nghiên cứu khoa học “Quan hệ Việt Nam –Thái Lan trong mối quan hệ khu vực” năm 1992. - Chulacheeb Chinwanno với cuốn Thailand – Vietnam Relations: an overview, Vietnam-Thailand: Traditional and Modernity, xuất bản năm 1991. - Hoàng Khắc Nam với bài báo “Chủ nghĩa tự do trong quan hệ quốc tế: những luận điểm chính và sự đóng góp” năm 2013. Trong đó có nói rõ các luận điểm chính của lý thuyết này. Có thể nói, mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan là một đề tài thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Đến nay, các công trình nghiên cứu đã bao quát được mối quan hệ này cả về lĩnh vực hợp tác và lịch sử phát triển. Tuy nhiên, việc đặt vấn đề nghiên cứu về mối quan hệ Việt – Thái dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do vẫn còn khá mới. Vì vậy, học viên hy vọng rằng đề tài luận văn “Quan hệ Việt Nam – Thái Lan theo góc nhìn của chủ nghĩa tự do (2006-2015)” sẽ góp một phần nhỏ bé 3 nhưng mới mẻ về quan hệ ngoại giao giữa hai nước nói riêng và quan hệ trong khu vực nói chung. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 1) Đối tượng nghiên cứu - Quan hệ Việt Nam – Thái Lan từ 2006 – 2015 2) Phạm vi nghiên cứu Về góc độ lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu theo các luận điểm chính của lý thuyết chủ nghĩa tự do. Về thời gian, luận văn sẽ trình bày thực trạng phát triển của mối quan hệ này trong giai đoạn 2006-2015. Về mặt nội dung, luận văn nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Thái Lan trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, ngoại giao, an ninh quân sự và kinh tế. Thêm vào đó là những nhận định, đánh giá của học viên đối với triển vọng quan hệ của hai nước, những tác động của mối quan hệ đối với khu vực và thế giới. 4. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là: 1) Nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do. 2) Tìm ra ý nghĩa của chủ nghĩa tự do trong mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan. 3) Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác những mặt tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực từ quan hệ Việt - Thái. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do cũng là một hiện tượng quan hệ quốc tế. Vì vậy, để nghiên cứu đối tượng này, bên cạnh việc sử dụng các phương pháp trên, học viên đã kết hợp các cách tiếp cận như: các cấp độ phân tích quan hệ quốc tế, lý thuyết về chủ nghĩa tự do, các lý thuyết về hợp tác và hội nhập, lý thuyết về nguyên nhân xung đột quốc tế, quan điểm về hệ thống quốc tế, các quan điểm về chủ thể và lợi ích trong quan hệ quốc tế. Mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan từ xưa đến nay là một hiện tượng xã hội mang tính quá trình. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này được dựa trên các phương 4 pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp lịch đại, đồng đại, logic – lịch sử, so sánh lịch sử, phương pháp hệ thống cấu trúc. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1.Nguồn gốc và các luận điểm của lý luận quan hệ quốc tế chủ nghĩa tự do 1.1.1. Chủ nghĩa tự do cổ điển - Chủ nghĩa lý tưởng: từ Kant đến Wilson Phong trào khai sáng bắt đầu từ thế kỉ 18 là một cuộc cách mạng tư tưởng quan trọng trong lịch sử văn minh thế giới. Trong quá trình cách tân, một nhóm các nhà tư tưởng luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa lý trí (rationalism), họ tiến hành phê phán mạnh mẽ đối với sự suy đồi của “chế độ cũ” ở Châu Âu với đại diện là chủ nghĩa chuyên chế và tôn giáo thần quyền. Chủ nghĩa lý trí và tư tưởng tôn trọng con người mang đến sức mạnh như một dòng nước lũ đã tẩy sạch nhữngtư tưởng cố hữu nằm sâu trong tâm trí con người từ vài trăm năm trước đó. Và đến thời đại này con người dường như đã tiến thêm một bước phát triển trí tuệ của bản thân. Đúng giống như lời nhà triết học nước Đức Immanuel Kant đã nói, đây chính là thời đại “mang tới ánh sáng chiếu rọi những góc khuất tối tăm trong tư tưởng con người”.[45] Dù cho trong quá trình khai sáng, đại bộ phận các nhà tư tưởng đều xuất phát từ góc độ của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa lý trí để nghiên cứu những vấn đề triết học thông thường, nhưng cũng có một vài nhà tư tưởng đã tiến hành nghiên cứu và suy ngẫm sâu sắc hơn đối với thể chế chính trị quốc tế và trật tự thế giới trên cơ sở triết học cơ bản này. Những nghiên cứu này là gốc rễ trực tiếp của lý luận quan hệ quốc tế về Chủ nghĩa lý tưởng và Chủ nghĩa tự do sau này. Những nhân vật đại diện khai sáng cho tư tưởng Chủ nghĩa tự do gồm có: John Locke, Jean-Jacques Rousseau và Kant. Những nhà tư tưởng này đã thiết lập một số nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa tự do. Khác với chủ nghĩa ngu dân và thần quyền ở giữa thế kỷ, họ cho rằng: lý trí là một tư chất bẩm sinh tự nhiên và duy nhất chỉ có ở loài người. Lý trí của cá nhân có mục đích là tự mình thực hiện, đây cũng là một loại “trạng thái tự nhiên” của con người. Còn quốc gia cũng chỉ là sản phẩm của “khế ước” được thiết lập giữa những cá thể khác nhau trong xã hội, và nó phục vụ mục đích duy nhất là 5 bảo đảm quyền lợi tự nhiên mà con người được xây dựng dựa trên cơ sở hợp tình, hợp lý. Trong những nhà tư tưởng vĩ đại này, Kant là người có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển sau này của lý luận quan hệ quốc tế. Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tự do phương Tây, tư tưởng của Kant đóng một vai trò quan trọng trong việc kế thừa những cái có trước và là tiền đề cho những cái ra đời sau. Khác với quan niệm tự do cá nhân tiêu cực trong quan điểm tự do tuyệt đối (Perfect freedom) của John Locke; trong quan niệm của Kant, cái mà quan niệm tự do cá nhân nhấn mạnh là sự tham gia tích cực của cá nhân đối với đời sống chính trị. Hoặc có thể nói, con người là tự do, họ có thể lập ra những tiêu chuẩn pháp luật riêng cho hành vi của mình. Chính phủ phải bảo vệ cho an toàn và phúc lợi của cá nhân dựa trên nguyên tắc pháp luật và chính nghĩa. Trái ngược với Machiavelli, Kant cho rằng cá nhân không phải là “thủ đoạn”mà phải là “mục đích”. Quan điểm tích cực của tự do cá nhânlà hạt nhân trong tất cả tư tưởng triết học chính trị của Kant. Trên phương diện triết học chính trị quốc tế, Kant cho rằng, chiến tranh giữa các quốc gia mang đến tổn thất vô cùng nặng nề, sự phát triển của xã hội công dân và lý trí loài người, cuối cùng sẽ khiến cho quan hệ giữa các quốc gia từ trạng thái riêng lẻ tự nhiên quá độ đến trạng thái pháp chế, từ đó thực hiện mục tiêu “hòa bình vĩnh cửu”. Tư tưởng hòa bình vĩnh cửu của Kant có ảnh hưởng trực tiếp đến lý luận quan hệ quốc tế sau đó là chủ nghĩa tự do cộng hòa, và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự ra đời và phát triển của lý luận hòa bình dân chủ. Và trước khi nổ ra trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tư tưởng quốc tế phát huy sức ảnh hưởng quan trọng nhất trong lĩnh vực chính trị quốc tế lúc đó là lý luận cân bằng quyền lực (The Balance of power theory). Các nhà chính trị học Châu Âu lấy Metternich và Bismarck làm đại diện đã trở thành những đại sứ duy trì cán cân quyền lực Châu Âu, họ cố gắng thông qua quan hệ liên minh mật thiết phức tạp để bảo vệ lợi ích quốc gia và duy trì hòa bình Châu Âu. Nhưng sự bùng nổ tàn bạo của chiến tranh thế giới lần thứ nhất vô tình đã tạo ra một sự mỉa mai lớn đối với những nỗ lực này. Vì vậy, một số nhà chính trị và học giả thời đó đã suy nghĩ lại một cách sâu sắc về lý trí của loài người, hi vọng thoát khỏi bi kịch đáng buồn của 6 lý luận cân bằng quyền lực này, điều này trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của tư tưởng quan hệ quốc tế mang ý nghĩa hiện đại hơn là chủ nghĩa lý tưởng. Từ những năm 20, 30 của thế kỷ 20, những đại diện tiêu biểu của lý luận quan hệ quốc tế Chủ nghĩa lý tưởng hiện đại chủ yếu có tổng thống Mỹ kiêm học giả Woodrow Wilson, JohnMurray, Parker TMoon, học giả người Anh Alfred Ezimmern, Philip Noel Baker và David Mitrany …. Chủ nghĩa lý tưởng phủ nhận quan điểm cho rằng bản chất cái ác trong con người là nguồn gốc dẫn đến chiến tranh và xung đột giữa các quốc gia của chủ nghĩa hiện thực. Alfred Ezimmern cho rằng bản tính của con người không có cái gì là thiện hay ác, quan trọng nó được quyết định bởi sự giáo hóa sau này. Chiến tranh xảy ra không phải vì con người thiếu quan niệm về cộng đồng quốc tế, mà là vì sự hạn chế về kiến thức khiến họ chưa ý thức được điều này[29]. Giống như Wilson đã nói “thiện ác lẫn lộn, vàng thỏi cũng bị ăn mòn”. Cũng có thể nói rằng, dù bản tính của con người tồn tại sự ngu muội và vô tri, những kẻ độc tài có thể lợi dụng điểm yếu này để thực hiện dã tâm của bản thân, nhưng sức mạnh của giáo dục và tuyên truyền có thể khắc phục được điểm cực đoan này. Vì vậy, những người theo Chủ nghĩa lý tưởng vô cùng coi trọng sự giáo hóa đối với quần chúng nhân dân. Đồng thời, sự giao lưu qua lại giữa nhân dân thế giới cũng giúp cho nhận thức lý trí và trí tuệ của con người được phát huy một cách toàn diện, qua đó hình thành quan niệm về thể cộng đồng thế giới và tinh thần chủ nghĩa quốc tế, từ đó loại bỏ những nguyên nhân cơ bản của chiến tranh. Trên lĩnh vực chính trị quốc tế, tư tưởng cơ bản của Chủ nghĩa lý tưởng là dựa vào sức mạnh của tổ chức quốc tế và pháp luật quốc tế để theo đuổi công lý và hòa bình lâu dài của xã hội quốc tế. Điều này được tập trung thể hiện trong phương án “Mười bốn điểm” của Wilson về sự sắp xếp sau hậu chiến, và thành quả trực tiếp của phương án này chính là sự thành lập của liên minh quốc tế. Với vai trò vừa là nhà chính trị vừa là học giả của mình đã giúp Wilson có thể thực hiện được phương án hòa bình theo Chủ nghĩa lý tưởng của mình. Ngày 08/01/1918 trong quá trình diễn thuyết tại quốc hội Mỹ, Wilson đã lần đầu tiên đưa ra kế hoạch “Mười bốn điểm” để làm cương lĩnh cơ bản tạo nên hòa bình thế giới sau chiến tranh. Nhắm 7 vào những nguyên nhân cực đoan của chính trị quốc tế đã dẫn đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất, kế hoạch “Mười bốn điểm” chủ trương các quốc gia nên từ bỏ ngoại giao bí mật, loại bỏ rào cản thương mại, thực hiện tự do hàng hải trên biển, cổ vũ sự tự trị dân tộc, cắt giảm vũ khí...; điểm cốt lõi trong kế hoạch “Mười bốn điểm” là việc Wilson nhấn mạnh sau chiến tranh phải thiết lập một tổ chức quốc tế lấy việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới làm mục tiêu. Phương án thành lập tổ chức quốc tế này cùng nguyên tắc an toàn tập thể của Wilson đã thay thế hoàn toàn nguyên tắc cân bằng lực lượng, là một tiên phong vĩ đại trong lịch sử phát triển của lý luận quan hệ quốc tế. Nó cũng tập trung phản ánh được quan niệm về trật tự quốc tế của Chủ nghĩa lý tưởng. Chủ nghĩa lý tưởng cho rằng sự sụp đổ của cán cân quyền lực trước chiến tranh và sự bùng nổ của thế chiến thứ nhất là hậu quả của việc các quốc gia không coi trọng nguyên tắc đạo đức chính nghĩa và pháp luật quốc tế, và việc thiết lập một tổ chức quốc tế mang tính phổ biến là con đường tốt nhất để giải quyết vấn đề này. Liên minh quốc tế (Hội Quốc liên) được thành lập sau chiến tranh là một thử nghiệm vĩ đại của quan niệm Chủ nghĩa lý tưởng này[30]. Nó mang tới những ý nghĩa vô cùng to lớn về cả mặt lý luận và thực tiễn cho Chủ nghĩa lý tưởng, mang đến cho sự phát triển của lý luận quan hệ quốc tế Chủ nghĩa tự do sau này những kinh nghiệm và bài học vô cùng phong phú. 1.1.2.Chủ nghĩa tự do mới Lý luận quan hệ quốc tế những năm 50 và 60 thế kỉ 20 là lý luận được phát triển trong quá trình biện luận giữa chủ nghĩa khoa học hành vi và chủ nghĩa truyền thống. Cuộc tranh luận này dù rất khốc liệt nhưng về cơ bản thì lại là “một cuộc chiến giả tạo”[44], sự tranh luận của hai bên chỉ là sự khác biệt về phương pháp nghiên cứu. Dẫu sao thì nó cũng có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy việc nghiên cứu sâu hơn đối với tư tưởng và quan niệm cơ bản của lý luận quan hệ quốc tế. Từ những ý nghĩa này, sau chiến tranh thì tiến bộ lớn nhất của hoạt động nghiên cứu lý luận quan hệ quốc tế đến vào giai đoạn những năm 60 và 70 của thế kỷ 20 là sự xuất hiện của chủ nghĩa tự do mới và chủ nghĩa hiện thực mới, và cả sự đối đầu của hai lý luận này. Những nghiên cứu này đã tạo nên trào lưu chủ đạo trong sự phát triển lý luận quan hệ quốc tế và được duy trì đến ngày nay. Cái được gọi là “Chủ nghĩa tự do 8 mới” và “Chủ nghĩa hiện thực mới” là cái dùng để phân biệt với Chủ nghĩa tự do cũ là Chủ nghĩa lý tưởng và Chủ nghĩa hiện thực kinh điển truyền thống. Cái tên “Chủ nghĩa tự do mới” chỉ là một sự ám chỉ, bởi sự khác biệt của quan niệm cụ thể và trọng điểm nghiên cứu nằm trong bản thân nó, trong nó vẫn còn tồn tại những trào lưu khác nhau. Tại đây, chúng ta có thể tóm gọn thành 3 trào lưu mang tính tiêu biểu: a. Lý luận phụ thuộc lẫn nhau Lực sát thương vô cùng lớn của vũ khí hạt nhân đã khiến cho con người đang trong thời kỳ chiến tranh lạnh nhận ra rằng, hậu quả của chiến tranh hạt nhân không khác gì sự hủy diệt toàn bộ của loài người; sự phát triển toàn cầu hóa của kinh tế và thương mại khiến cho thế giới trở nên ngày càng “nhỏ”, những vấn đề chung mà các quốc gia toàn cầu phải đối mặt như môi trường sinh thái ngày càng nhiều hơn. Những điều này giúp các nhà nghiên cứu chính trị quốc tế nhận thức sâu sắc hơn phụ thuộc lẫn nhau trong chính trị thế giới, cũng từ đó mà cuối cùng lí luận phụ thuộc lẫn nhau được ra đời.[55, 54, 53] Những người đại diện cho lí luận phụ thuộc lẫn nhau bao gồm: Robert Keohane, Joseph Nye và Richard Rosecranse… Robert Keohane hiện là giáo sư tại Đại học Duke của Mỹ, Joseph Nye là hiệu trưởng học viện chính phủ Kennedy trường Harvard, hai người đã có sự hợp tác nghiên cứu lâu dài và có những thành quả vô cùng phong phú. Tình hữu nghị sâu sắc giữa họ được giới lý luận quan hệ quốc tế học gọi là một giai thoại. Lý luận phụ thuộc lẫn nhau chính là lý luận được sáng lập bởi hai người họ, và những kiệt tác của họ cũng là hợp tác hoàn thành. Chủ yếu gồm có Quan hệ xuyên quốc gia và chính trị thế giới, Quyền lực và phụ thuộc lẫn nhau…Tác phẩm thứ hai là tác phẩm xuất sắc nhất của lý luận phụ thuộc lẫn nhau. Ngoài ra còn có Rosecranse, hiện là một giáo sư tại Đại học California, Los Angeles. Tác phẩm mang tính tiêu biểu phản ánh tư tưởng phụ thuộc lẫn nhau của ông là Sự phát triển của mậu dịch quốc gia. Lý luận về phụ thuộc lẫn nhau đã thách thức một số giả định cơ bản của Chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa hiện thực cho rằng, chính phủ quốc gia là thể hành vi quan trọng duy nhất trong chính trị quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia tạo nên 9 những nội dung cơ bản trong chính trị quốc tế, thể hành vi phi chính phủ dù có tồn tại cũng không thể phát huy tác dụng thiết thực nào, mà chỉ là cái phụ thuộc vào quyền lực chính trị của chính phủ quốc gia[39]. Lý luận phụ thuộc lẫn nhau phản đối chủ nghĩa trung tâm quốc gia, nó cho rằng chính phủ quốc gia không phải là thể hành vi duy nhất trong chính trị thế giới, ngày càng có nhiều những tổ chức siêu quốc gia và xuyên quốc gia phát huy tác dụng to lớn trên bình diện quốc tế, ví dụ: tổ chức quốc tế liên hợp quốc, tổ chức phi chính phủ, công ty xuyên quốc gia…Lý luận phụ thuộc lẫn nhau coi trọng việc nghiên cứu quan hệ xuyên quốc gia, chú trọng việc phân tích hậu quả và ảnh hưởng của việc nhất thể hóa. Chủ nghĩa hiện thực cho rằng, mục tiêu đầu tiên của chính phủ quốc gia là theo đuổi sự an toàn trên lĩnh vực quân sự, tiếp đó mới đến kinh tế, môi trường… Lý luận phụ thuộc lẫn nhau cho rằng, sự phát triển của nhất thể hóa không chỉ khiến sự ỷ lại lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc, mà còn làm cho “sự phụ thuộc lẫn nhau phù hợp” (Complex Interdependence) trong các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, môi trường và sinh thái…ngày càng gia tăng. Sự sắp xếp cao thấp trong chính trị quốc tế theo chủ nghĩa hiện thực lấy quyền lực và lợi ích quốc gia chủ quyền đặt lên trên sau đó mới đến kinh tế và môi trường đã bị phá vỡ, các sự vụ trên thế giới ngày càng trở nên thành một chỉnh thể. Mô hình chính trị quốc tế lấy chính phủ quốc gia và lợi ích làm hạt nhân đã phải dần nhường chỗ cho những nghiên cứu về các vấn đề xuyên quốc gia. Sự xuất hiện của lý luận phụ thuộc lẫn nhau đã phá vỡ trạng thái chiếm lĩnh trong lý luận quan hệ quốc tế của chủ nghĩa hiện thực, mở rộng góc nhìn trong nghiên cứu lý luận, mang đến những vấn đề nghị sự và con đường tư duy hoàn toàn mới về sự biến động trong chính trị thế giới, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển nhanh chóng của lý luận quan hệ quốc tế về Chủ nghĩa tự do hiện đại. Cũng trên chính cơ sở của lý luận phụ thuộc lẫn nhau hoặc lý luận phụ thuộc phù hợp, thì Chủ nghĩa chế độ tự do mới mới có thể được sinh ra, và tạo nên ảnh hưởng trực tiếp đối với những lý luận chính trị thế giới ra đời sau chiến tranh lạnh như lý luận toàn cầu trị và lý luận chủ nghĩa tự do mới. Kiệt tác tiêu biểu của lý luận phụ thuộc lẫn nhau là cuốn quyền lực và sự phụ thuộc lẫn nhaunó được coi là “tác phẩm cột mốc 10 quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu chính trị kinh tế học quốc tế và quan hệ quốc tế”.[55] b. Chủ nghĩa thể chế tự do mới Trên cơ sở lí luận phụ thuộc lẫn nhau phù hợp, một nhóm các nhà lý luận quan hệ quốc tế học phương Tây trong đó lấy Robert Keohane làm trung tâm, đã tiến thêm một bước nghiên cứu một cách sâu sắc và phong phú hơn lý luận Chủ nghĩa tự do trong quan hệ quốc tế. Họ đã đưa ra lý luận chủ nghĩa chế độ tự do mới được gọi là “lý luận thể chế” (institution theory) hoặc “lý luận chế độ” (regime theory). Ngoài Robert Keohane, những đại diện tiêu biểu trong lĩnh vực nghiên cứu lí luận chủ nghĩa chế độ tự do mới còn có: Oran Young, Ernst Hass…[36, 64, 57, 58, 51, 42] Khác với lý luận phụ thuộc lẫn nhau, lý luận Chủ nghĩa chế độ tự do mới đã tiếp nhận một vài giả thiết cơ bản của lý luận chủ nghĩa hiện thực mới, ví dụ như: chính phủ quốc gia là chủ thể quan trọng duy nhất trong chính trị quốc tế hay trạng thái vô chính phủ của xã hội quốc tế…mặc dù cũng có nhiều cách giải thích khác nhau về hậu quả và sự hiểu biết của những khái niệm này. Đồng thời, lý luận này còn hấp thu cả lý thuyết trò chơi (Game Theory), lựa chọn lý trí...bên cạnh đó là những phương pháp nghiên cứu mới, khiến cho phân tích lý luận của mình càng chặt chẽ và thực tế hơn. Căn cứ vào định nghĩa được đại đa số học giả đồng thuận của Stephen Crasner, cái được gọi là “chế độ” chính là “sự tập hợp của một loạt những cá thể với thứ tự sắp xếp rõ ràng hoặc mơ hồ về các nguyên tắc, qui phạm, qui tắc và quyết sách...đối với những vấn đề đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ quốc tế”[65]. Dù những học giả khác nhau có những định nghĩa không giống nhau về “thể chế” hay “chế độ”, nhưng khái niệm cơ bản của nó đều được bao hàm trong định nghĩa này, cường điệu thể chế trong hành động quy phạm của các cá thể. Đây cũng là điểm xuất phát và gốc rễ của những nghiên cứu về chủ nghĩa chế độ tự do mới. Lý luận lựa chọn lí trí(Rational Choice Theory) được xây dựng trên nền tảng của thuyết trò chơi là công cụ chủ yếu trong việc nghiên cứu chủ nghĩa chế độ tự do mới. Lý luận lựa chọn lí trí hay còn gọi là lý luận lựa chọn công cộng, xuất hiện 11 sớm nhất bắt nguồn từ phương pháp phân tích, nghiên cứu kinh tế học; quan điểm cơ bản của nó bao gồm: coi cá thể trong hành động tập thể là đối tượng hành vi có lý trí, mục đích của những cá thể này là tìm kiếm lợi ích tối đa cho riêng mình, trong quá trình hành động của bản thân họ có thể lựa chọn những gì có lợi nhất cho mình sau khi đã cân nhắc kĩ càng [31, 60, 61]. Từ đó mà tạo nên tính logic thông thường trong hành động của một tập thể. Những hành vi lý trí này được thiết lập thông qua sự kết hợp của sự học tập, trò chơi và công năng. Lý luận chủ nghĩa chế độ tự do mới đã tham khảo tiền đề và phương pháp phân tích lý trí của chủ nghĩa hiện thực, nhưng lại rút ra được một kết luận ngược lại.Nó cho rằng hợp tác dưới trạng thái vô chính phủ là có thể, từ đó tạo nên một thái độ chủ nghĩa lạc quan trong thế giới quan. Nó nắm bắt một cách rõ ràng các xu thế phát triển và vấn đề mới của chính trị thế giới, từ đó đưa ra một cách giải thích hoàn toàn mới. Sự vươn lên của chủ nghĩa chế độ tự do mới trong những năm 70, 80 thế kỷ 20 có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển lý luận quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong lịch sử phát triển lý luận quan hệ quốc tế Chủ nghĩa tự do. Mặc dù bản thân Robert Keohane cũng thừa nhận nó vẫn tồn tại không ít những khuyết điểm, nhưng ý nghĩa mà nó mang lại cho lý luận và thực tiễn của lý luận quan hệ quốc tế đương đại là rõ ràng và chắc chắn. Là một trường phái quan trọng trong lý luận quan hệ quốc tế chủ nghĩa tự do, tranh luận giữa nó và chủ nghĩa hiện thực mới đã tạo nên những nội dung chủ yếu trong lịch sử phát triển lý luận quan hệ quốc tế trước khi chiến tranh lạnh kết thúc. Đương nhiên, chủ nghĩa thể chế không phải là tất cả trong sự phát triển lý luận quan hệ quốc tế chủ nghĩa tự do vào thời gian này, cụ thể là sự“tái phát hiện” của lý luận hòa bình dân chủ (Theory of Democracy Peace) trước khi chiến tranh lạnh kết thúc ở những năm 70 thế kỉ 20 là một minh chứng. c. Chủ nghĩa tự do cộng hòa: lý luận hòa bình dân chủ Mặc dù “lý luận hòa bình dân chủ” được coi là thành quả có ý nghĩa nhất đối với việc nghiên cứu chính trị thế giới sau chiến tranh lạnh [67]. Nhưngnó đóng vai trò là tư tưởng của một loại mô hình an toànthì nó đã sớm tồn tại, vì thế nó được gọi là lý luận “tái khám phá” (Rediscoverd)[35]. Người sớm nhất đưa ra lý luận tương 12 tự là Kant, ông đã đề cập và thảo luận đến mô hình an toàn được gọi là “hòa bình vĩnh cửu” (Perpetual Peace). Những thể cộng đồng được mở rộng liên tụccủa các quốc gia cộng hòa, có tinh thần dân chủ và pháp chế thì cuối cùng sẽ có thể đạt được “hòa bình vĩnh cửu” dưới nguyên tắc pháp luật quốc tế chung. Vì cơ chế kiểm soát của thể chế chính trị cộng hòa có thể ngăn chặn các quốc gia cộng hòa mạo hiểm tiến hành chiến tranh, còn các quốc gia phi dân chủ có tiến hành chiến tranh hay không lại hoàn toàn dựa vào quan điểm không chịu bất cứ kiểm soát nào của một kẻ độc tài[41, 40]. Tư tưởng của Kant được gọi là “chủ nghĩa quốc tế của chủ nghĩa tự do”[46], và nó được phát triển thêm một bước sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất; trong “Mười bốn điểm” của mình tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã nói rằng: “dựa vào phương thức sinh hoạt của bản thân để quyết định chế độ riêng của quốc gia”, “yêu hòa bình”, “có thể đạt được sự đảm bảo của chính nghĩa”, và nhận được sự đối đãi công bằng của những dân tộc khác trên thế giới, từ đó tránh được việc nhận tổn thất lợi ích hay phải chịu bạo lực”. Năm 1919, Schumpeter đã đưa ra mệnh đề “Chủ nghĩa tư bản của dân chủ có thể dẫn đến hòa bình”[43]. Học giả đương đại từ những năm 70 thế kỉ 20 đã bắt đầu nhận thức lại vấn đề hòa bình dân chủ, và từng bước lý luận hóa, hệ thống hóa nó. Vào năm 1976 Mekvin Small và David Singer đã lần đầu tiên tiến hành mô tả hiện tượng thực nghiệm hòa bình dân tộc[48]; Vào năm 1983 Michael Doyle trong Kant, di sản chủ nghĩa tự do và ngoại giao đã chính thức đề cập đến “hòa bình dân tộc” như một lý luận[49]; Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, “hòa bình dân tộc” đã trở thành một trong những điểm nghiên cứu chính của giới lý luận quan hệ quốc tế phương Tây, ví dụ Bruce Russett trong tác phẩm của mình nắm vững hòa bình dân chủ: nguyên tắc của thế giới sau chiến tranh lạnh đã nghị luận một cách hệ thống đối với nó[32]. Là một giả thiết có liên quan đến mô hình an ninh quốc tế, quan điểm chủ yếu của “lý luận hòa bình dân chủ” hiện đại bao gồm[47, 32, 46, 66]: (1) Một nguyên tắc trong quan hệ quốc tế: giữa các quốc gia dân chủ không hoặc rất ít khi xảy ra xung đột; (2) Dù cho giữa các quốc gia có xảy ra xung đột, hai bên cũng không sử dụng vũ lực hoặc lấy vũ lực để uy hiếp, bởi điều này trái với nguyên tắc dân chủ và lý tính; 13 (3) Giữa các quốc gia chuyên chế hoặc giữa các nước dân chủ và chuyên chế rất dễ phát sinh xung đột, hơn nữa càng dễ dàng sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Có những học giả còn cho rằng so với các nước dân chủ các quốc gia phi dân chủ càng hiếu chiến hơn[34]. Đóng vai trò là một loại kinh nghiệm pháp chế, một trong những căn cứ quan trọng của “lý luận hòa bình dân chủ” là: “kinh nghiệm thực tế” của “các quốc gia dân chủ ít chiến tranh”. Nếu nói “hòa bình vĩnh cửu” của Kant chỉ là một lý tưởng, thì “lý luận hòa bình dân chủ” lại cố gắng thông qua các thống kê và phân tích để chứng minh hiện tượng này tồn tại phổ biến trong những giai đoạn khác nhau. Mekvin Small và David Singer và Michael Doyle cho rằng, từ năm 1816 đến nay giữa các quốc gia dân chủ hầu như không xảy ra chiến tranh thực sự [47, 63]. Có hai nguyên nhân dẫn tới “lý luận hòa bình dân chủ”, một là sự ràng buộc chế độ (institutional restraints) trong nội bộ quốc gia dân chủ, hai là qui phạm dân chủ và văn hóa chung (normand culture) trong cộng đồng giữa các quốc gia dân chủ[62]. Một mặt khác, “lý luận hòa bình dân chủ” cho rằng, trong sự phát triển chính trị trong nước thì sẽ có một vàithể chế và qui phạm ảnh hưởng tới mô thức đối ngoạicủa quốc gia, sự khác biệt về chính trị trong nước giữa các nước dân chủ và phi dân chủ dẫn đến sự khác biệt về chính sách đối ngoại của đôi bên. Chính trị dân chủ nhấn mạnh việc thông qua phương thức hòa bình để tiến hành những cạnh tranh chính trị một cách có qui tắc. Như vậy, cách giải quyết những mâu thuẫn chính trị trong nước của các nước dân chủ không được thực hiện bằng cách loại bỏ đối thủ, điều này khiến cho xã hội dân chủ bất luận là quốc gia, khu vực hay cá nhân đều rất ổn định. Còn trong cạnh tranh chính trị của các quốc gia phi dân chủ, kẻ thắng sẽ có tất cả, kẻ bại không có cơ hội vực dậy được; sự ổn định của các nước phi dân chủ bắt buộc được tạo nên trên cơ sở không có phe phản đối chính trị nào hiệu quả[67]. Nói một cách cụ thể, sự ràng buộc chế độ được thể hiện như sau: Đầu tiên, chế độ bầu cử của các nước dân chủ quyết định chính phủ phải chịu trách nhiệm đối với cử tri. Thứ hai, nguyên tắc phân quyền (Power Division) và cân bằng chế độ (Checkand Balance) trong chính trị quốc gia dân chủ khiến cho trách nhiệm quyết 14 sách ngoại giao được đa dạng hóa, từ đó có thể tránh khỏi việc đưa ra những quyết định cực đoan. Ngoài ra, do các quốc gia dân chủ muốn tiến hành chiến tranh phải thông qua việc tranh luận công khai và cần nhận được sự đồng thuận của các nhà chính trị dân chủ, thời gian chuẩn bị chiến tranh lâu dài; những điều này mang đến cơ hội hòa hoãn trong thời gian thông qua con đường ngoại giao để giải quyết tranh chấp. Đối với nhân tố văn hóa và qui phạm của dân chủ, lý luận hòa bình dân chủ cho rằng khí chất tinh thần (ethos) mà các quốc gia dân chủ có chung cũng khiến cho giữa các nước dân chủ ít xảy ra chiến tranh, đặc trưng căn bản của tinh thần này nằm ở cạnh tranh hòa bình và thỏa hiệp chính trị. Một quốc gia dân chủ sẽ nghĩ rằng các quốc gia dân chủ khác cũng sẽ giải quyết các tranh chấp bằng những biên pháp cạnh tranh hòa bình có nguyên tắc, hơn nữa sẽ vận dụng nó trong cả quan hệ đối ngoại; vì vậy, ấn tượng của quốc gia dân chủ đối với các quốc gia dân chủ khác là tích cực, họ cho rằng đôi bên là hòa bình, từ đó tạo nên quan hệ tôn trọng lẫn nhau. Ngược lại, giữa các quốc gia dân chủ và phi dân chủ lại thiếu tinh thần tôn trọng nhau này[62]. Dù “lý luận hòa bình dân chủ” từ khái niệm, thực tế đến logic đều tồn tại rất nhiều thiếu xót, bị không ít những học giả phê phán, nhưng hàm ý logic của nó lại là cơ sở ổn định của hòa bình thế giới với chế độ dân chủ đã được phương Tây thừa nhận, cho nên nó có sức ảnh hướng rât lớn đối với giới chính trị và giới lý luận quan hệ quan hệ quốc tế phương Tây, nó mở ra một con đường khiến mọi người phải coi trọng trong sự phát triển của tư tưởng lý luận quan hệ quốc tế về chủ nghĩa tự do. 1.1.3.Các luận điểm chính Chủ nghĩa Tự do được xây dựng trên một số cơ sở lý luận và thực tiễn. Các cơ sở này bao gồm quan niệm về mối quan hệ giữa môi trường vô chính phủ và xung đột trong QHQT, tính đa nguyên về chủ thể QHQT, bản chất của con người, chủ nghĩa duy vật kết hợp duy tâm chủ quan, quan điểm về sự vận động của thực tiễn lịch sử, quan niệm về tự do. Chủ nghĩa Tự do có những luận điểm cơ bản về QHQT như sau[16]: 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan