Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ việt nam liên bang nga giai đoạn 2000 2011...

Tài liệu Quan hệ việt nam liên bang nga giai đoạn 2000 2011

.PDF
126
51
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------*----------- TRẦN HỒNG VÂN QUAN HÖ VIÖT NAM - LI£N BANG NGA GIAI §O¹N 2000 - 2011 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: QUAN HỆ QUỐC TẾ Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------*----------- TRẦN HỒNG VÂN QUAN HÖ VIÖT NAM - LI£N BANG NGA GIAI §O¹N 2000 - 2011 Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế Mã số: 60 31 02 06 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thúy Hà Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Thúy Hà. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 2014. Tác giả Trần Hồng Vân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA (GIAI ĐOẠN 2000 - 2011)........................................12 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ Việt Nam Liên bang Nga (giai đoạn 2000 - 2011) .............................................................12 1.1.1. Bối cảnh quốc tế ......................................................................................12 1.1.2. Tình hình khu vực ....................................................................................16 1.1.3. Tình hình mỗi nước .................................................................................25 1.2. Khái quát lịch sử mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga.......................30 1.2.1. Quan hệ truyền thống Việt Nam - Liên Xô (1950 - 1991) ......................30 1.2.2. Những thay đổi trong quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (1991 - 2000) .....35 * Tiểu kết chương 1 .............................................................................................40 Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA (GIAI ĐOẠN 2000 – 2011) .....................................................................................41 2.1. Sự điều chỉnh chính sách của hai nước đối với nhau ................................41 2.1.1. Chính sách của Liên bang Nga ................................................................41 2.1.2. Chính sách của Việt Nam ........................................................................45 2.2. Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trên một số lĩnh vực ........................46 2.2.1. Chính trị - đối ngoại, an ninh - quốc phòng.............................................46 2.2.2. Kinh tế......................................................................................................58 2.2.3. Văn hóa - khoa học kỹ thuật ....................................................................69 2.3. Đánh giá thực trạng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (giai đoạn 2000 - 2011) ........................................................................................78 * Tiểu kết chương 2 .............................................................................................80 Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA ĐẾN 2020 .....................................83 3.1. Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga ..............83 3.1.1. Thuận lợi ..................................................................................................83 3.1.2. Khó khăn ..................................................................................................87 3.2. Triển vọng đến 2020 .....................................................................................96 3.2.1. Phát triển theo hướng tốt lên ....................................................................96 3.2.2. Phát triển theo hướng bình thường, ổn định ..........................................100 3.2.3. Phát triển theo hướng xấu đi ..................................................................100 3.3. Kiến nghị .....................................................................................................103 3.3.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước ..............................................................103 3.3.2. Kiến nghị với Bộ Ngoại giao .................................................................108 * Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................110 KẾT LUẬN ............................................................................................................111 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................114 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1 Hội Nghị Bộ trưởng Quốc ADMM+ phòng ASEAN mở rộng 2 APEC Asia - pacific Economic Coopertion Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương 3 ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn khu vực ASEAN 4 ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 5 ASEM The Asia - Europe Meeting 6 BRICS Group Brasil, Russia, Diễn đàn hợp tác Á - Âu India, Nhóm 5 nền kinh tế mới nổi: China, South Afica Braxin, Liên bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi 7 CIS Commonweath of Inthependence Cộng đồng các quốc gia độc lập States 8 EAS East Asia Summit Hội nghị cấp cao Đông Á 9 EC European Community Cộng đồng châu Âu EU European Union Liên minh châu Âu 10 GATT General Agreement on Tariffs and Hiệp định buôn bán mậu dịch Trade tự do và thuế quan chung 11 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm kinh tế quốc nội 12 G - 7 Group of Seven Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển nhất thế giới 13 G - 8 Group of Eight countries Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển nhất thế giới và Liên bang Nga 14 G - 20 Group of Twenty countries Nhóm 20 nền kinh tế mới nổi và phát triển nhất thế giới 15 IMF International Monetary Fund Quĩ tiền tệ quốc tế 16 FDI Foreign Direct Investment Tổng vốn đầu tư trực tiếp 17 NATO North Atlantic Treaty Organization Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương 18 NICs Newly Industrialized Countries Các nước công nghiệp mới 19 OPEC Organization of the Petroleum Tổ chức các nước xuất khẩu Exporting Countries dầu mỏ Organization for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển Cooperation and Development kinh tế Organization for security and Co- Tổ chức an ninh và hợp tác operation in Europe châu Âu 22 PCI Provincial Competiveness Index Chỉ số năng lực cạnh tranh 23 SAARC South Asian Association for Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á 20 OECD 21 OSCE Regional Cooperation 24 SCO Shanghai Cooperation Tổ chức hợp tác Thượng Hải Organization 25 SNG Sodruzhestvo Nezavisimykh Cộng đồng các quốc gia độc lập Gosudarstv 26 TNCs Trans national Cooperations Công ty xuyên quốc gia 27 USD United States dollar Đô la Mỹ 28 UN United Nations Liên Hợp Quốc Xã hội Chủ nghĩa 29 XHCN 30 WB World Bank Ngân hàng thế giới 31 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm của Liên bang Nga (tỷ lệ % so với năm trước).......................................................................59 Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng của Liên bang Nga qua các năm ...............................60 Bảng 2.3: Những số liệu về trữ lượng, khai thác, sử dụng và nhập khẩu dầu khí của các nước Nam Á, Đông Nam Á và Viễn Đông (*) ............................62 Bảng 2.4: Xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga 3 tháng đầu năm 2008 .............................................................................66 Bảng 2.5: Thương mại dịch vụ Nga với một số nước ASEAN 2002 - 2005 ............67 Bảng 2.6: Số khách du lịch từ Liên bang Nga đến một số nước ASEAN ................76 DANH MỤC ẢNH Ảnh 2.1: Mô hình nhà máy điện hạt nhân Liên bang Nga sẽ xây dựng tại Việt Nam, tại triển lãm điện hạt nhân ở Hà Nội năm 2013. ......................................64 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam và Liên bang Nga hiện nay (Liên Xô trước đây), là hai quốc gia có mối quan hệ truyền thống gắn bó từ lâu (hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào ngày 30/1/1950). Mối quan hệ này được xây dựng bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh (Việt Nam), Lenin, Stalin (Liên Xô) và các thế hệ lãnh đạo tiền bối của hai nước. Trong suốt thời kỳ Việt Nam tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc chống Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ và những năm đầu đất nước thống nhất tiến lên xây dựng CNXH, mối quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật… Trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1976 - 1991 và các kì Đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI đã từng xác định rõ: Liên Xô là “hòn đá tảng” trong quan hệ chiến lược của Việt Nam. Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, sau những biến động chính trị to lớn ở Liên Xô và Đông Âu, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước trên. Liên Xô tan rã dẫn đến sự ra đời của nước Liên bang Nga (12/6/1990). Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga bước sang một trang mới. Tuy vậy, mối quan hệ này ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của những biến động chính trị do Liên Xô tan rã trước đó: Với Việt Nam: Chúng ta đã mất đi một đối tác chiến lược, toàn diện, cực kỳ quan trọng, một người bạn truyền thống lâu năm của dân tộc Việt Nam. Với Liên bang Nga: Liên bang Nga đã không còn coi trọng vị trí, vai trò của Việt Nam như trước. Các nhà lãnh đạo khai sáng ra nước Nga như Yeltsin đã đưa ra đường lối chiến lược đối ngoại theo định hướng Đại Tây Dương thân Mỹ và phương Tây, chứ không trú trọng tới những quốc gia vừa và nhỏ như Việt Nam. Thể hiện qua các chiến lược ngoại giao “xuyên Đại Tây Dương” hay “Chim ưng hai đầu”… nên quan hệ hai nước giai đoạn trước năm 2000 có phần ngưng trệ. Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, cùng với những biến động và sự thay đổi to lớn của tình hình chính trị, kinh tế… của khu vực và quốc tế, đặc biệt là những chuyển biến của tình hình mỗi nước. Ở Việt Nam: Công cuộc “Đổi mới” do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng tại Đại hội VI (12/1986) đang được đẩy mạnh và phát triển. 1 Ở Liên bang Nga: Sau một thập niên trì trệ dưới thời Tổng thống Yeltsin, Liên bang Nga đã có sự thay đổi lãnh đạo. Ông Putin - Vị Tổng thống thứ 2 của nước Nga đã đưa ra một loạt các chiến lược về đối ngoại, an ninh, quốc phòng, kinh tế… nhằm mục tiêu “chấn hưng” nước Nga, qua đó sẽ lấy lại hình ảnh của nước Nga là một siêu cường như thời Liên Xô. Những thay đổi của hai nước đã góp phần làm cho vai trò, vị thế trong khu vực, quốc tế của Việt Nam cũng như Liên bang Nga từng bước được nâng cao. Đặc biệt, Liên bang Nga đã từng bước khẳng định mình là một cường quốc có vai trò, vị trí rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề an ninh, chính trị, quân sự của khu vực và quốc tế: Vấn đề hạt nhân Iran, Bắc Triều Tiên, cuộc nội chiến ở Syria… Những thành công của công cuộc “Đổi mới” ở Việt Nam và đặc biệt sự vươn lên của nước Nga trong thập niên đầu của thế kỷ XXI đã làm cho chủ đề về quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam trở thành đề tài có sức hấp dẫn, thu hút nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi và tìm hiểu về mối quan hệ này. Việc nghiên cứu một cách toàn diện về quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga hiện nay, để làm rõ sự vận động, phát triển, những vấn đề đặt ra, cũng như triển vọng của nó có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn đối với Việt Nam. Đặc biệt kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn để tài: “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga giai đoạn 2000 - 2011” làm luận văn tốt nghiệp Cao học, chuyên ngành Quốc tế học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có nhiều đề tài, bài viết, công trình nghiên cứu, sách, tạp chí trong và ngoài nước nghiên cứu về Liên bang Nga, Việt Nam và mối quan hệ hai nước trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao; kinh tế; văn hóa, khoa học - kỹ thuật, đặc biệt các tạp chí, bài viết của: Viện Nghiên cứu Châu Âu, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, tạp chí Nghiên cứu quốc tế của Bộ Ngoại giao… 2.1. Những công trình nghiên cứu về Việt Nam, Liên bang Nga và mối quan hệ hai nước trên lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao Tác phẩm “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga: 50 năm một chặng đường lớn” (10/2000), (Bùi Khắc Bút, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 5) đã đề cập và làm 2 nổi bật mối quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây, Việt Nam và Liên bang Nga giai đoạn 1950 - 2000. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1950 - 1975), Liên Xô (trong đó có nước CHXHCN Xô viết Nga) đã trở thành đồng minh chính trị, quân sự quan trọng bậc nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với sự giúp đỡ to lớn về quân sự, chính trị cùng với sự ủng hộ ngoại giao quan trọng trên các diễn đàn quốc tế đối với nhân dân Việt Nam. Sự ủng hộ này đã giúp Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (30/4/1975). Trong giai đoạn nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp xây dựng CNXH và hàn gắn vết thương chiến tranh (1975 - 1991), Liên Xô đã trở thành đối tác chiến lược chính trị, quân sự hết sức quan trọng. Điều này được thể hiện rõ thông qua Hiệp định “Hợp tác toàn diện Xô - Việt” (7/11/1978). Bản Hiệp định này đã đưa quan hệ chính trị hai nước lên một tầm cao mới. Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ (25/12/1991), mối quan hệ Việt Nam Liên bang Nga (người kế thừa Liên Xô) có bị ảnh hưởng do sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Moscow trong những năm đầu thập niên 90. Tuy nhiên, mối quan hệ hợp tác hữu nghị, truyền thống này đã được cải thiện vào những năm cuối của thập kỉ này, khi lãnh đạo hai nước cam kết sẽ đưa quan hệ Việt - Nga trở lại quỹ đạo của thời kì trước đây. Sự phát triển của mối quan hệ Việt - Nga trong giai đoạn này chính là nền tảng, cơ sở quan trọng để hình thành nên mối quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” Việt - Nga trong những năm đầu thế kỉ XXI. Trong ấn phẩm “Nga gia nhập WTO và một số vấn đề xã hội” (2006), (Trần Phương Hoa, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 8 (74), Hà Nội, tr.55 - 63). Trong bài viết, tác giả đã đi sâu tìm hiểu những biến chuyển về mặt xã hội trong lòng nước Nga trong quá trình nước này hướng tới gia nhập WTO. Những biến chuyển này được thể hiện rõ trong các vấn đề di dân, lực lượng lao động, sở hữu trí tuệ và mức sống của người dân. Những tác động trên được dự báo không phải là quá lớn. Bởi nước Nga đang từng bước chuyển giao vai trò quản lý và giám sát nhà nước về các vấn đề xã hội sang cho chính quyền địa phương, nhóm xã hội, các tổ chức xã hội và cho chính các công dân. Tuy nhiên, việc xây dựng một xã hội và nhà nước phúc lợi với các thiết chế của nó đòi hỏi một quá trình lâu dài. 3 “Khủng hoảng tài chính thế giới và những tác động tới Liên bang Nga” (2008), (Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 12.(99), Hà Nội, tr.8 - 17). Tác giả đã đi sâu phân tích và làm rõ những tác động to lớn của khủng hoảng tài chính châu Á (1997 - 1998) và cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 tới nền kinh tế của nước Nga. Cuộc khủng hoảng tài chính 1998 đã làm cho nền kinh tế Liên bang Nga đứng bên bờ vực của sự sụp đổ. Còn cuộc khủng hoảng kinh tế lần 2, dù chỉ diễn ra ở nước Nga trong một thời gian tương đối ngắn (nửa cuối năm 2008) nhưng nó đã gây ra những hậu quả vô cùng to lớn tới nền kinh tế Liên bang Nga. Trong vòng 3 tháng, dự trữ ngoại tệ của nước Nga đã từ mức đỉnh 597,5 tỉ USD (8/2008) xuống còn 453,5 tỉ USD vào giữa tháng 11, giảm 144 tỉ USD hay 24%... Bên cạnh đó, chủ đề về Việt Nam, Liên bang Nga và quan hệ Việt - Nga cũng thu hút nhiều học giả nước ngoài quan tâm, nghiên cứu. Đáng chú ý là cuốn sách “From Stalin to Yeltsin” (2000), Baibakov.N.G, (Publiser by Moscow, Russia) đã đề cập đến bức tranh chính trị, kinh tế, xã hội... của nước Nga, từ khi quốc gia này còn nằm trong thành phần của Liên bang Xô viết dưới sự lãnh đạo của Tổng bí thư Stalin (1924) tới khi Liên bang Nga trở thành một quốc gia độc lập (12/6/1990) với vị Tổng thống đầu tiên là Yeltsin. Đây cũng là nhân vật đã lãnh đạo nước Nga trong suốt thập niên 90 của thế kỷ XX (12/6/1990 - 31/12/1999). Một thập kỷ được đánh giá là đầy sóng gió trong lịch sử của nước Nga hiện đại. Trong cuốn “The foreign policy from Post - Soviet to Russia now. The leason from the conflic with Gruzia” (2008), (A.V.Lukin, “Russia in the world policy” Magazine, No 6, Russia), đã phân tích về sự thay đổi chính sách đối ngoại của nước Nga tại các khu vực trên thế giới, ở không gian hậu Xô viết, Nam Kavkaz… Sự thay đổi này thể hiện rất rõ trong thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Yeltsin và Putin. Thời kỳ Yeltsin là giai đoạn nhượng bộ trong chính sách đối ngoại của Nga với phương Tây ở nhiều khu vực, vùng lợi ích của Moscow trên khắp thế giới. Trong khi thời kỳ Putin, nước Nga đã trở lại vị thế cường quốc, giành giật ảnh hưởng với Mỹ, phương Tây tại các quốc gia, khu vực vốn trước đây thuộc vùng ảnh hưởng truyền thống của Moscow. Nhằm phác họa sự kiện “19/8/1991” dẫn đến sự tan rã của Liên Xô, cuốn sách “Gorbachev - Riot: August even from inside” (1994), của nhóm tác giả 4 Lukianov.A, Pavlov.V, Cruiskov.V, (Publisher Moscow, Russia) đã đi sâu phân tích cuộc chính biến ngày 19/8/1991 của những người muốn đảo chính lật đổ Tổng thống Liên Xô Gorbachev, nhằm duy trì Liên bang Xô viết khỏi bị sụp đổ. Nhưng những nỗ lực này của họ đã bị thất bại. Bởi Gorbachev và phe cánh đã nắm trước diễn biến tình hình, chờ cơ hội cho những người tiến hành đảo chính rồi mới ra tay. Đây là cái cớ hợp pháp mà kẻ phản bội Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô này chờ đợi từ lâu để có cớ tuyên bố sự giải tán của Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên bang Xô viết. Cuộc chính biến 19/8/1991 thất bại, đã dẫn đến một sự thực là: chủ nghĩa xã hội không còn tồn tại ở Liên Xô nữa. Đây là tổn thất vô cùng to lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như phong trào cách mạng trên thế giới. 2.2. Công trình nghiên cứu về Liên bang Nga, Việt Nam và mối quan hệ hai nước trên lĩnh vực kinh tế Trong ấn phẩm “Liên bang Nga trong nền kinh tế thế giới trước thềm thế kỷ XXI” (2000), (Nguyễn An Hà, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4, Hà Nội, tr.43 48). Tác giả đã nêu ra những khó khăn kinh tế mà Moscow gặp phải sau khi tách khỏi Liên Xô trở thành một quốc gia độc lập năm 1991. Tiềm lực kinh tế suy giảm, sản xuất giảm sút, lại chịu ảnh hưởng của những bất ổn chính trị trong nước và khủng hoảng kinh tế kéo dài trong thập niên 90 của thế kỷ XX đã làm cho nền kinh tế nước này đứng bên bờ vực của sự sụp đổ. Những khó khăn, thách thức trên sẽ là những chướng ngại vật rất lớn cho nền kinh tế của Liên bang Nga khi quốc gia này bước vào thế kỉ XXI. Trong bài viết “Sự vươn lên của nước Nga dưới thời Tổng thống Putin” (2007), Nguyễn Thanh Hiền, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 11 (86), Hà Nội, tr.57 - 61), tác giả đã nêu ra được những thành tựu to lớn mà nước Nga đã đạt được trong 7 năm (2000 - 2007) dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin. Những thành tựu này được thể hiện rất rõ nét trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... Điều đó đã góp phần rất quan trọng giúp nước Nga dần lấy lại được hình ảnh của một cường quốc kinh tế, chính trị, quân sự như Liên Xô đã từng có. Trong bài viết “Quan hệ đối tác chiến lược Liên bang Nga - Việt Nam (từ tháng 3/2001 đến nay)” (2010), Đinh Công Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3; tác giả đã làm nổi bật mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Liên bang Nga trên lĩnh 5 vực kinh tế trong giai đoạn 2001 - 2010. Trên cơ sở của quan hệ “đối tác chiến lược”, hai nước đã có sự hợp tác sâu rộng trên lĩnh vực kinh tế, bên cạnh các lĩnh vực hợp tác truyền thống như: khai thác dầu khí, khai khoáng, luyện kim... Hà Nội và Moscow đã triển khai các hình thức hợp tác mới, thông qua các Hiệp định đã được kí kết giữa lãnh đạo hai bên như: Hợp tác phát triển năng lượng hạt nhân, nghiên cứu khoa học, hợp tác kinh tế - quốc phòng (sản xuất vũ khí, đóng tàu, xây dựng các cảng và sân bay quân sự). Sự hợp tác kinh tế sâu rộng trên đã đưa quan hệ hai nước trở nên thực chất hơn. Trong những năm tới đây, trên cơ sở của mối quan hệ chính trị ngày càng phát triển tốt đẹp, lĩnh vực kinh tế sẽ trở thành hướng ưu tiên quan trọng bậc nhất. Bởi đây sẽ là đòn bẩy và động lực quyết định sự phát triển của mối quan hệ hai nước trong bối cảnh mới. Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng có những công trình nghiên cứu về hai nước trên lĩnh vực kinh tế. Trong bài viết “Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp của Liên bang Nga vào Việt Nam” (2003), Rostislav Shimanovsky, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 2 (56), tác giả đã nêu ra những khó khăn, thách thức trong chiến lược đầu tư của Liên bang Nga và Việt Nam. Những khó khăn này được thể hiện thông qua quan hệ thương mại - đầu tư giữa hai nước. Đặc biệt là kim ngạch thương mại đầu tư Liên bang Nga vào Việt Nam còn rất thấp. Mặc dù có mối quan hệ chính trị hai nước rất tốt đẹp, nhưng chính sách đầu tư của phía Liên bang Nga vào Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Kim ngạch thương mại hai nước chỉ đạt khoảng 1,2 tỉ USD (2002). Sự hạn chế trong chính sách đầu tư của Liên bang Nga sang Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân: Moscow đang gặp khó khăn về kinh tế, khủng hoảng chính trị - xã hội diễn ra triền miên. Các nhà đầu tư Liên bang Nga chưa hiểu hết thị trường Việt Nam, họ vẫn cho rằng thị trường Việt Nam nhỏ, hiệu quả kinh tế thấp. Trong khi, chính sách kinh tế - đối ngoại của Moscow chỉ chú trọng vào các nền kinh tế lớn: EU, Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ... Điều này đã làm ảnh hưởng đến chính sách đầu tư, thương mại của Liên bang Nga với Việt Nam. Cuốn sách “The way the Russian Empire out of the crisis” (March 2010), (Jeffrey Mankoff, Russie. Nei.Visions Magazine, No 48, United States) tác giả đã phân tích những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới (2007 2010) tới nền kinh tế Liên bang Nga. 6 “Why Russia don’t join WTO?” (March 2010), (Anders Aslund, “The Washington Quarterly” Magazine, No 4, United States). Tác giả đã làm rõ những nguyên nhân chính mà Liên bang Nga không gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) bao gồm cách tiếp cận của giới lãnh đạo chính trị nước Nga, vấn đề thể chế, thái độ nước lớn và những mâu thuẫn trong nội bộ giới chính trị Moscow. Một nguyên nhân quan trọng nữa mà nước Nga chưa thể gia nhập tổ chức WTO sớm được là do những cản trở từ Mỹ, EU và Gruzia. Những căng thẳng chính trị với Gruzia (đặc biệt là sau cuộc chiến tranh 5 ngày Liên bang Nga - Gruzia tháng 8/2008) đã ảnh hưởng tiêu cực đến vòng đàm phán WTO của Moscow với nước này. Đây là những lý do chính khiến Liên bang Nga không gia nhập WTO. Trong bài viết “Russia, accession prospect increasingly fragile” (August 2008), (Sergey Minaev, business report, Russia), tác giả đã phân tích những khó khăn của Liên bang Nga khi gia nhập WTO bởi giữa Moscow và EU, Mỹ vẫn bất đồng với nhau trong nhiều vấn đề: nước Nga chưa hủy bỏ biện pháp thu phí hai lần với máy bay nước ngoài bay trên lãnh thổ Liên bang Nga, trợ giá cho nông nghiệp… Moscow vẫn tiếp tục tuyên bố chỉ gia nhập WTO theo điều kiện của mình, còn phương Tây thì tiếp tục nghi ngờ thành tâm của Liên bang Nga thực hiện những thỏa thuận đã đạt được. Những trở ngại này sẽ làm cho triển vọng gia nhập WTO của nước Nga ngày càng mong manh. “Russia: Resulf of 4 working years of President Medvedev” (15 October 2011), (Pavel Danillin, Independent Newspaper, Russia). Tác giả đã nêu bật được những thành tựu mà ông Medevedev đạt được sau 4 năm làm tổng thống Liên bang Nga. Đó là: giành thắng lợi trong “cuộc chiến 5 ngày” với Gruzia (8/2008), giành quyền đăng cai Olimpic mùa đông Sochi năm 2014, giải vô địch khúc côn cầu thế giới năm 2016, vòng chung kết World Cup 2018. Cùng với hàng loạt các thành tựu khác về chính trị, kinh tế, xã hội như: đưa nước Nga ra thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính (2008), nâng cao tuổi thọ của người dân, thực hiện thành công chính sách tăng dân số Nga, tăng thu nhập cho người dân, tỉ lệ tội phạm giảm, kinh tế tăng trưởng khá ổn định, Liên bang Nga được kết nạp vào WTO (17/12/2011), nợ công thấp, dự trữ ngoại tệ cao thứ 3 thế giới đạt 517 tỉ USD năm 2008, chương trình hiện đại hóa nền kinh tế nước Nga đã bắt đầu phát huy hiệu quả, hệ thống chính trị ở 7 nước Nga được duy trì ổn định, vai trò của Đảng nước Nga thống nhất được củng cố vững chắc… Những thành tựu trên đã đưa nước Nga trở thành 1 trong 10 nền kinh tế lớn nhất, vị thế chính trị nước Nga được củng cố vững chắc trên trường quốc tế. 2.3. Công trình nghiên cứu về Liên bang Nga, Việt Nam và mối quan hệ hai nước trên lĩnh vực văn hóa, khoa học - kỹ thuật Trong bài viết “Nhìn lại quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam thời gian qua và một số vấn đề đặt ra” (2004), Nguyễn Văn Lan, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 3. Tác giả đã nêu lên bức tranh khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn 1991 - 2004, tác giả đã đi sâu phân tích những tồn tại và hạn chế trong quan hệ văn hóa hai nước. Để hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn trên, đòi hỏi lãnh đạo hai nước phải tăng cường hơn nữa sự phát triển mối quan hệ Việt – Nga, truyền đạt những giá trị văn hóa đến người dân, nhằm giúp họ nâng cao khả năng hiểu biết nền văn hóa mỗi nước. Làm được những điều trên, cũng có nghĩa là sẽ góp phần quan trọng đưa quan hệ hai quốc gia có những bước phát triển mới trong thế kỉ XXI. Trong bài viết “Hợp tác Liên bang Nga - Việt Nam: Thực trạng và triển vọng” (2006), Vũ Đình Hòe, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 9, tác giả đã nêu lên thực trạng và triển vọng mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trên lĩnh vực văn hóa. Sau khi Liên Xô sụp đổ, quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bởi những thay đổi trong chính sách và chiến lược phát triển của chính quyền Tổng thống Yeltsin. Vấn đề này đã ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ văn hóa hai nước, khi các hoạt động giao lưu, trao đổi văn hóa cùng với vị thế của tiếng Nga ở Việt Nam bị suy giảm (tiếng Nga đã không còn là ngoại ngữ chính được giảng dạy trong các trường phổ thông, trung học, cao đẳng, đại học ở Việt Nam). Bước sang thế kỉ XXI, cùng với sự phát triển của mối quan hệ hai nước trên lĩnh vực chính trị, kinh tế (Việt Nam và Liên bang Nga đã kí Hiệp định “đối tác chiến lược” 3/2001). Quan hệ văn hóa hai nước đã có những dấu hiệu phục hồi và phát triển trở lại, thông qua các hoạt động của những viện nghiên cứu, trường đại học, các trung tâm văn hóa của Liên bang Nga ở Việt Nam và ngược lại. Các nhà lãnh đạo hai nước đã coi văn hóa là cầu nối quan trọng để đưa hai dân tộc Việt, Nga xích lại gần nhau. Điều này cũng phù hợp với lịch sử phát triển của hai nước trong 8 lĩnh vực văn hóa, bởi hai nước đã có sự hợp tác sâu rộng trong gần 60 năm và mối quan hệ này cũng được hi vọng sẽ làm đòn bẩy nâng quan hệ Việt - Nga lên tầm cao mới trong thế kỉ XXI. Trong ấn phẩm “Liên bang Nga: Hai thập niên đầu thế kỷ XXI” (2011) do Nguyễn An Hà (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nhóm tác giả đã nêu ra những thuận lợi và thách thức mà nước Nga đang gặp phải trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI trên các lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... Nêu ra được những mục tiêu, tham vọng mà chính quyền của Tổng thống Putin và Medvedev đã đề ra trong nỗ lực đưa Moscow trở thành một cường quốc có tiếng nói ngày càng quan trọng trong các vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế của thế giới. Qua đó dần lấy lại hình ảnh của một nước Nga siêu cường như thời Liên Xô đã đạt được. Bên cạnh đó, các tác giả nước ngoài cũng có công trình nghiên cứu về nước Nga, Việt Nam và mối quan hệ hai nước trên lĩnh vực văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Trong bài viết “Analysis of the new strategy, “modernization” of Russia” (June 2011), (Peace and development”, China) tác giả đi sâu phân tích về chiến lược “hiện đại hóa” của nước Nga do Thủ tướng Nga Putin đề xuất ý tưởng vào cuối năm 2008, đưa ra những qui hoạch tương đối rõ ràng đối với mục tiêu, đường lối, phương thức phát triển cho nền kinh tế Liên bang Nga trước năm 2020. Làm rõ chiến lược hiện đại hóa nước Nga của “tổ hợp Medvedev - Putin” với 5 phương hướng để hiện đại hóa kỹ thuật trong tương lai: nâng cao hiệu quả hiệu xuất nguồn năng lượng, trong đó bao gồm nguồn năng lượng mới; công nghệ hạt nhân, công nghệ du hành vũ trụ, trước hết là thông tin vệ tinh (hệ thống thông tin định vị toàn cầu GLONASS); kỹ thuật chữa bệnh, kỹ thuật thông tin chiến lược, phổ biến rộng rãi truyền hình kỹ thuật số và mạng thông tin di động thế hệ thứ tư (4G). Đồng thời nêu ra được triển vọng tương lai của nước Nga trong việc thực hiện sự hiện đại hóa này. Như vậy, có thể thấy với các góc độ tiếp cận và ở nhiều mức độ khác nhau, tất cả các công trình trên đã phân tích một số nội dung về tình hình nước Nga, Việt Nam và mối quan hệ hai nước đề cập trên một số lĩnh vực: chính trị, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... Đồng thời nêu ra được những thuận lợi, khó khăn mà cả hai nước gặp phải trong suốt thập kỷ đầu thế kỷ 9 XXI (2000 - 2011). Tình hình nghiên cứu trên cho thấy cần thiết phải có sự nghiên cứu, khảo sát một cách toàn diện về kết quả quan hệ hợp tác giữa hai nước và vấn đề đặt ra triển vọng của mối quan hệ này, nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ lên bước phát triển mới, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của mỗi nước trong tình hình mới. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Làm rõ thực trạng quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam trên các lĩnh vực: chính trị - đối ngoại, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật từ năm 2000 đến năm 2011. Đồng thời đánh giá triển vọng quan hệ Liên bang Nga Việt Nam đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là: Phân tích làm rõ những nhân tố cơ bản tác động đến quan hệ Việt Nam Liên bang Nga. Đánh giá, làm rõ kết quả hợp tác giữa Việt Nam - Liên bang Nga trên các lĩnh vực: chính trị, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật từ năm 2000 đến năm 2011. Đề cập, làm rõ những thuận lợi, khó khăn trong quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga, từ đó đưa ra dự báo triển vọng của mối quan hệ này đến năm 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trên các lĩnh vực chính trị - đối ngoại, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2011. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu luận văn dựa trên nhiều phương pháp tổng hợp, trong đó chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận Mác xít. Trong quá trình xử lý tài liệu tham khảo và nghiên cứu đề tài, vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời đại, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, 10 về đoàn kết và hợp tác quốc tế. Đề tài luôn bám sát các quan điểm nội dung về chính sách đối ngoại đa phương đa dạng hóa của Đảng từ Đại hội VI đến nay. Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, dự báo… để nghiên cứu và trình bày nội dung đề tài. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (giai đoạn 2000 - 2011 ) Chương 2: Thực trạng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (giai đoạn 2000 - 2011 ) Chương 3: Triển vọng và một số kiến nghị nhằm phát triển quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga đến 2020 11 Chương 1 CÁC NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA (GIAI ĐOẠN 2000 - 2011) 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga (giai đoạn 2000 - 2011) 1.1.1. Bối cảnh quốc tế Bối cảnh quốc tế đầu thế kỉ XXI được thể hiện rõ qua những xu thế và đặc điểm sau: Xu thế hòa bình hợp tác và phát triển trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế hiện nay. Nó đã thay thế cho xu thế “đối đầu” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh” và trở thành xu thế chính chi phối đời sống chính trị trên thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế trở thành một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Tuy nhiên, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên quốc gia gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường trên toàn cầu diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Toàn cầu hóa thúc đẩy hợp tác, phân công lao động quốc tế sâu rộng, kích thích tăng trưởng kinh tế, các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế trở nên rất phong phú về nội dung. Mặt khác, những lợi ích và bất lợi do toàn cầu hóa tạo ra không được chia sẻ một cách đồng đều, làm tăng thêm khoảng cách phát triển giữa các quốc gia và trong từng quốc gia. Toàn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẫn không chỉ thuần túy là một quá trình kinh tế - kỹ thuật, mà còn là cuộc đấu tranh kinh tế - xã hội, kinh tế - chính trị và văn hóa - tư tưởng rất gay gắt với thời cơ và thách thức đan xen nhau đối với nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa lôi cuốn tất cả các nước tham gia và mỗi nước cần xác định cho mình đường lối hội nhập toàn cầu hóa một cách thích hợp. 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất