Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quan hệ thương mại việt nam – singapore thực trạng và triển vọng...

Tài liệu Quan hệ thương mại việt nam – singapore thực trạng và triển vọng

.DOC
126
129
100

Mô tả:

Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của chính tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Tạ Kim Ngọc - Viện Kinh tế Thế Giới Các số liệu được trích dẫn hoàn toàn trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Tác giả Phan Đặng Xuân Quý 0 MỤC LỤC Trang 0NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT...........................................................3 LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................4 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-SINGAPORE..................................7 1.1. Cơ sở lý luận của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore .......................................................................................................7 1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế...................7 1.1.2 Vai trò của thương mại quốc tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.....................................................................................14 1.2. Cơ sở thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam Singapore....................................................................................15 1.2.1 Nhân tố bên ngoài............................................................15 1.2.2. Nhân tố bên trong...........................................................16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-SINGAPORE VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA 1 NÓ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM .....................................................................................224 2.1. Quan hệ thương mại Việt nam- Singapore.....................224 2.1.1. Kim ngạch trao đổi thương mại...................................224 2.1.2. Hiện trạng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore.....25 2.1.3 Hiện trạng nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore..........42 2.2. Nhận xét về quan hệ thương mại Việt Nam -Singapore..48 2.2.1. Đánh giá về xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore....49 2.2.2. Đánh giá về nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore ....557 2.3. Những tác động của quan hệ thương mại Việt Nam Singapore đối với sụ phát triển kinh tế của Việt Nam.......................................................................54 2.3.1. Những chính sách thương mại ưu đãi của Singapore với Việt nam................. 54 2.3.2. Tác động của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam..................................................................56 2.3.3. Tác động của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore đối với chính trị ngoại giao và các mặt kinh tế xã hội khác ở Việt Nam............................58 2 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-SINGAPORE 3.1.Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt namSingapore 3.1.1. Phương hướng phát triển quan hệ thương mại Việt NamSingapore..................................................................................65 3.1.2. Phương hướng phát triển xuất khẩu................................68 3.1.3. Phương hướng phát triển nhập khẩu...............................69 3.2. Giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam Singapore....................................................................................70 3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất nhập khẩu......................70 3.2.2. Định hướng thị trường tiêu thụ.......................................72 3.2.3. Nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá........................73 3.2.4. Tiếp cận phương thức mua bán mới...............................76 3.2.5. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại.......................................77 3.2.6. Chính sách tài chính tín dụng ưu đãi..............................78 3.2.7...................................................Điều chỉnh chính sách thuế 79 3.2.8.......................................................Biện pháp phi quan thuế 82 KẾT LUẬN....................................................................................... .......................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................90 3 4 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM: CNH: EU: Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu Công nghiệp hoá Liên minh châu Âu GDP: Tổng sản phẩm quốc nội HĐH: Hiện đại hoá WTO: Tổ chức thương mại thế giới XNK : Xuất nhập khẩu XN : Xuất nhập XK : NK : Xuất khẩu Nhập khẩu 5 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, xu thế đa phương hoá, toàn cầu hoá thương mại đã và đang tác động sâu sắc đến nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Sự tồn tại và phát triển của các nền kinh tế đang ngày càng trở nên lệ thuộc lẫn nhau nhiều hơn trong những mối quan hệ thương mại đa phương phức tạp. Để tránh nguy cơ tụt hậu và tiến tới hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới Việt Nam cũng phải mở rộng và đa dạng hoá các hình thức thương mại song phương và đa phương. Thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam được mở rộng tới trên 100 quốc gia trên thế giới. Nước ta đã chính thức là thành viên của nhiều tổ chức và thể chế thương mại khu vực và quốc tế quan trọng như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) và đang tích cực xúc tiến gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - là tổ chức quốc tế tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng để thuận lợi hoá các hoạt động thương mại giữa các thành viên. Lợi ích của tham gia vào thương mại quốc tế là vô cùng to lớn. Nó là con đường duy nhất để Việt Nam có thể thu hút đầu tư, phát triển kinh tế và tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất. Song cái gì cũng có tính hai mặt của nó, hoạt động thương mại càng mở rộng và tự do hoá bao nhiêu thì càng gây nhiều áp lực cho những 6 nước có nền kinh tế yếu kém, chưa phát triển như Việt Nam bấy nhiêu do chưa đủ sức để cạnh tranh trên thị trường. Việc lựa chọn một thị trường quốc tế thích hợp để mở rộng quan hệ mua bán, kích thích xuất khẩu, phát triển sản xuất và thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài không phải là một việc dễ dàng. Chính vì đòi hỏi bức xúc này nên tôi chọn vấn đề: “Quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore thực trạng và triển vọng“ làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Mục đích nghiên cứu - Phân tích thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore và đánh giá tác động đối với sự phát triển kinh tế đất nước. - Đề xuất các giải pháp hữu hiệu để phát triển hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore cả chiều rộng và chiều sâu, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3. Phương pháp nghiên cứu - Vận dụng phương pháp khoa học trong nghiên cứu kinh tế chính trị học, lấy phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm lý luận cơ bản. - Kết hợp với các phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp, logíc, thống kê, so sánh... để làm rõ vấn đề nghiên cứu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 - Luận văn tập trung nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore từ khi Việt nam tiến hành đổi mới nền kinh tế đến nay. 5. Những đóng góp của luận văn - Hệ thống hoá lý thuyết, luận giải rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore. - Trên cơ sở phân tích thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam Singapore, luận văn sẽ đưa ra những đánh giá về tác động của mối quan hệ này - cả những nhân tố tích cực và những mặt hạn chế - tới tiến trình hội nhập và sự phát triển kinh tế của Việt Nam. - Phân tích những yếu tố tác động đến việc tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore từ đó dự báo triển vọng của mối quan hệ này, xác định rõ hơn quan điểm và đưa ra những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy mối quan hệ này trong tương lai. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được kết cấu thành 3 chương : Chương 1: Cơ sở khoa học của quan hệ thương mại Việt namSingapore Chương 2: Thực trạng Quan hệ thương mại Việt Nam-Singapore và những tác động của nó tới sự phát triển kinh tế của Việt nam. Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore. 8 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-SINGAPORE 9 1.1. Cơ sở lý luận của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore 1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế * Khái niệm. Thương mại quốc tế chính là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Trong thời đại ngày nay, thương mại quốc tế có tính chất sống còn bởi nó không chỉ cho phép khai thác lợi thế của nước xuất khẩu mà còn mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Thực tế cho thấy là mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế làm đa dạng hoá mặt hàng với số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn vượt qua ranh giới khả năng sản xuất của mỗi quốc gia nếu chỉ thực hiện tự cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài. Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn con người càng đa dạng, phong phú thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Đối với nước ta cũng vậy, thương mại quốc tế sẽ cho phép giới thiệu, thúc đẩy, khai thác tiềm năng và thế mạnh trong nước đối với nước ngoài một cách có lợi nhất. Theo đó, phân công lao động ngày càng phát triển, mọi tiềm năng để sản xuất nhiều hàng hoá, dịch vụ 10 xuất khẩu sẽ được khai thác một cách ngày càng hiệu quả hơn. Khi nói đến thương mại quốc tế, chúng ta cần phải xem xét tới nguồn gốc và cơ sở lý luận về thương mại quốc tế. * Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối được phát triển bởi các nhà kinh tế học cổ điển nhất là Adam Smith (1723 - 1790). Lý thuyết này đã chỉ ra nguyên nhân của mối quan hệ mua buôn bán giữa các quốc gia với nhau. Đó chính là sự khác nhau về các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề cao và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn, tiến bộ công nghệ hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh. Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các hàng hoá mà nó cho phép sử dụng tối ưu nhất các nguồn tài nguyên của nó. Đây chính là cách giải thích đơn giản nhất về cách ứng xử trong buôn bán. Rõ ràng là việc tiến hành thương mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ đều có lợi. Nếu một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiệt hại từ thương mại thì họ từ chối ngay. Giả sử rằng thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quỗc gia chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá A so với quốc gia thứ hai và quốc gia thứ hai có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá B so với quốc gia thứ nhất. Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá trong việc sản xuất một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó trao đổi cho nhau, thì cả hai 11 quốc gia đều có lợi. Trong quá trình này, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, và do đó, tổng sản phẩm của toàn thế giới sẽ gia tăng. Sự tăng thêm của các sản phẩm của cả thế giới là nhờ vào sự chuyên môn hoá và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua ngoại thương. Như vậy Adam Smith đã có niềm tin rằng tất cả các quốc gia đều có lợi từ ngoại thương và ông ủng hộ mạnh mẽ chính sách tự do kinh doanh. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và tất nhiên phúc lợi của thế giới nói chung sẽ được tạo ra ở mức tối đa. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối giải thích được tại sao một nền kinh tế phải phụ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu từ bên ngoài như Nhật bản lại có thể phát triển thành một nền kinh tế hùng mạnh trên thế giới. Tuy nhiên tại sao một cường quốc như Mỹ, một nước đứng đầu ngành công nghiệp ô tô thế giới với những tên tuổi lừng danh như General Motos, Ford, Chrysler ... lại nhập xe Nisan, Toyota ... từ Nhật bản? Lý thuyết về lợi thế so sánh (hay lợi thế tương đối) sẽ trả lời cho câu hỏi này. * Lý thuyết về lợi thế sosánh Năm 1817, nhà kinh tế học kinh tế nổi tiếng người Anh là Đavid Ricardo (1772 – 1823) đã chứng minh rằng chuyên môn hoá quốc tế 12 có lợi cho tất cả các nước và ông gọi kết quả đó là quy luật lợi thế tương đối. Quy luật này được nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này đã khẳng định rằng: Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (Đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (Đó là loại hàng hoá không có lợi thế tương đối). Để chứng minh lý thuyết của mình, David Ricardo đã đưa ra một mô hình giả định đơn giản dựa trên các giả thiết như: Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng, công nghệ sản xuất của hai nước là cố định, chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải, lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nước nhưng không thể di chuyển giữa các nước và thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước. Bảng 1: Lợi thế so sánh (Lợi thế tương đối) 13 Sản phẩm Việt Nam Singapore Thép (Kg / 1 giờ công) 1 6 Vải (m / 1 giờ công ) 2 4 Từ bảng trên ta thấy rằng, Singapore có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Singapore gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động ở ngành dệt của Singapore chỉ gấp có hai lần. Như vậy giữa thép và vải, Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải, còn Singapore có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam nhưng chỉ có lợi thế tương đối trong sản xuất thép. Theo quy luật lợi thế tương đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Singapore chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau. Qua bảng (1) minh hoạ giả định của Ricardo đã giải thích trong hoàn cảnh của một mô hình kinh tế đơn giản, với nhiều giả định rằng dù một nước có năng suất lao động sản xuất các loại hàng hoá cao hơn các nước khác nhưng thông qua thương mại quốc tế vẫn có lợi nếu chuyên môn hoá vào sản xuất những mặt hàng mà nước đó có chi phí cơ hội thấp hơn các nước khác để sản xuất ra hàng hoá đó. Quan điểm này đã được phát triển một cách cụ thể và rõ ràng hơn bởi các nhà kinh tế Tân cổ điển sau này. 14 Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo giải thích một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hình thành, phát triển của thương mại quốc tế. Trong thực tế, nhiều quốc gia có thể cùng sản xuất một mặt hàng, mỗi quốc gia có cách kết hợp sử dụng các nguồn lực khác nhau để sản xuất hàng hoá đó dẫn đến chi phí cơ hội để sản xuất ra nó ở những nước khác nhau cũng rất khác nhau. Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác mà người ta phải từ bỏ để sản xuất hoặc kinh doanh thêm một đơn vị mặt hàng đó. Tuy nhiên lý thuyết của Ricardo còn nhiều vấn đề chưa được thoả đáng, đặc biệt là giả định về nguồn lực duy nhất có thể thay đổi được đó là lao động. Do đó mô hình Heckscher-Ohlin (hay còn gọi là Heckscher Ohlin Samuelson) với cách nhìn thực tế hơn sẽ giải thích thoả đáng nguồn gốc của thương mại quốc tế vẫn trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh. Trong nền kinh tế hiện đại, lao động chỉ là một trong ba nhóm yếu tố sản xuất cơ bản (bao gồm đất đai, lao động và tư bản). Trong phạm vi một doanh nghiệp, đất đai có nghĩa là một vị trí mà doanh nghiệp đó xây dựng nên nhà máy văn phòng của mình. Nhưng thực tế đất đai còn bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên là nguyên vật liệu, nhiên liệu cho quá trình sản xuất. Lao động bao gồm lao động chân tay, lao động trí óc. Tư bản bao gồm tiền vốn và các máy móc trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế ba yếu tố trên cũng có thể hiểu một cách tương tự. 15 Và ở các góc độ khác nhau, ngắn hạn hay dài hạn, ba yếu tố này đều có thể thay đổi được. Định lý Heckscher-Ohlin phát biểu rằng, một nước sẽ xuất khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó, và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất chúng cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Nói một cách vắn tắt, một nước tương đối giàu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Trong ví dụ trên Singapore sẽ gặp lợi thế so sánh về thép còn Việt Nam về vải. Và chúng ta có thể kết luận Singapore sẽ xuất khẩu thép sang Việt Nam để đổi lấy vải. Nếu như các nhà kinh tế học cổ điển xuất phát từ sự khác biệt về năng xuất lao động trong một nền kinh tế giả định thì Heckscher và Ohlin lại cho rằng lợi thế so sánh xuất phát từ sự khác biệt giữa các quốc gia về sở hữu các nguồn lực và sự khác nhau về mức độ sử dụng các yếu tố này. Xuất phát điểm của mô hình Heckscher - Ohlin là phù hợp với nền kinh tế hiện đại. Có thể nói rằng, mô hình Heckscher - Ohlin đã phát triển một cách hoàn thiện lý thuyết về lợi thế so sánh, giải thích nguồn gốc thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại một cách thoả đáng nhất. 16 * Một số nguyên nhân khác của thương mại quốc tế Lý thuyết về lợi thế so sánh đã giải thích được câu hỏi tại sao Mỹ chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp ô tô nhưng vẫn nhập khẩu linh kiện xe hơi nguyên chiếc từ Nhật bản. Như vậy, lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối là hai nguyên nhân của thương mại quốc tế. Tuy nhiên còn có một số nguyên nhân khác nữa. Một trong những nguyên nhân cơ bản khác dẫn đến sự hình thành của thương mại quốc tế là hiệu quả kinh tế nhờ quy mô sản xuất, trong đó các chi phí sản xuất thực tế được đánh giá dưới hình thức nguồn lực được huy động, sẽ giảm xuống khi quy mô tăng. Nói cách khác, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô (hay còn gọi là lợi suất tăng dần theo quy mô) có nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra sẽ đắt hơn theo những số lượng nhỏ và trở nên rẻ hơn khi quy mô sản xuất tăng lên. Điều này xảy ra vì với nền sản xuất có quy mô lớn, người ta có thể tiết kiệm được chi phí trong việc sử dụng máy móc và thiết bị chuyên môn hoá, và thậm chí trong sự phân chia công việc giữa nhiều người với nhau. Mỗi người có thể được chuyên môn hoá ở một khía cạnh của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và sự đào tạo chuyên môn cụ thể. Hiệu quả kinh tế quy mô lớn rất quan trọng cho nền kinh tế ngoại thương của các nước nhỏ. Phạm vi hàng hoá mà theo đó họ có thể có được quy mô hiệu quả trong sản xuất sẽ bị giói hạn nhiều hơn 17 so với các nước lớn. Các nước nhỏ có thị trường trong nước không đủ lớn để khai thác tính hiệu quả kinh tế nhờ quy mô và điều đó cho chúng ta thấy rằng để trở thành một nước tự cung tự cấp bằng cách sản xuất mỗi thứ một ít thì chi phí sản xuất của họ sẽ cao và rất tốn kém. Những nước lớn như Mỹ, Nga có thị trường đủ lớn để có thể sản xuất tất cả những sản phẩm trong nước với số lượng đủ lớn có thể có được tính hiệu quả trong sản xuất nhờ quy mô. Đối với các nước đó, những lợi ích thường do ngoại thương quy định nhờ việc chuyên môn hoá các loại sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh. Thậm chí đối với các nước này, việc mở rộng thị trường cũng cho phép đạt được tính hiệu quả kinh tế nhờ quy mô đối với các sản phẩm đặc thù như thép đặc biệt, quần bò...vv. Tính đa dạng của sản phẩm và chuyên môn hoá ngày càng sâu là đặc điểm của thương mại và phân công lao động quốc tế hiện nay. Điều đó xảy ra cũng chính là bởi thực hiện lợi ích do hiệu quả kinh tế nhờ quy mô đem lại. Ngày nay một người có thể mua được quần áo, ô tô, các thiết bị và hàng loạt đồ dùng của Pháp, Anh, Italia, Đức ở Luân đôn, Paris, Bon và Roma... Điều mà nền thương mại châu Âu làm được là cho phép sự tăng trưởng của các loại sản phẩm khác nhau thuộc các nước khác nhau, mỗi nước chuyên môn hoá trong một loại sản phẩm đặc thù. Sự chi tiêu của người tiêu dùng đã chỉ ra rằng, họ coi trọng sự tăng cường các khả năng lựa chọn của các hàng hoá khác 18 nhau. Khi các nước châu Á tiến công vào thị trường châu Âu và châu Mỹ với các sản phẩm như dệt, ô tô, hàng điện tử, các nhà sản xuất châu Âu và châu Mỹ đã không ngừng cá biệt hoá các loại sản phẩm của họ để có thể xuất khẩu hàng dệt, xe ca, và hàng điện tử sang châu Á, thậm chí ngay cả trong khi họ vẫn đang nhập khẩu các loại hàng hoá đó từ châu Á. Ngoài ra thương mại quốc tế còn xuất phát từ sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, tập quán tiêu dùng, nhu cầu về hàng hoá của mỗi nước. Sự khác biệt này là động lực dẫn đến hình thành thương mại quốc tế nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú ngày càng tăng của mỗi nước. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối giữa hai nước là giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác biệt về sở thích. Trong thời đại ngày nay, không có quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật tiên tiến mà loài người đã đạt được vào thực tế nước mình. Do vậy, một nền kinh tế “mở cửa“ giao lưu buôn bán với nước ngoài sẽ mở ra những hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan